← Quay lại trang sách

Chương 5 TRÊN ĐƯỜNG SỰ-NGHIỆP--

CHÚNG ta biết rằng Gandhi về nước mùa hè năm 1891. Vừa tới Bombay, chàng được báo tin là bà mẹ đã từ trần trong khi chàng ở nước ngoài. Người nhà không báo cho chàng biết từ trước, vì sợ chàng quá đau buồn mà sao lãng việc học.

Harilal, con chàng bây giờ đã được 4 tuổi. Chàng cũng chưa định làm ăn gì. Hàng ngày chỉ nô đùa với con, các cháu con mấy ông anh. Chàng vẫn không bỏ tính ghen nên thường gây sự cãi nhau với vợ. Có lần chàng đuổi vợ về nhà bố mẹ đẻ ở Porbandar.

Trưởng huynh chàng là ông Laxmidas Gandhi bấy giờ làm thầy kiện ở Raikot, đặt rất nhiều hy vọng vào chàng, nhưng chỉ ít lâu sau đã phải thở dài chán ngán cho ông em. Gandhi tỏ ra không làm nổi nghề thầy kiện. Ở Raikot, cũng như ở Bombay, chàng chỉ làm trò cười cho thiên hạ, vì mỗi lần phải ra cãi trước tòa, chàng ấp úng nói chẳng ra nhời. Ông anh còn thất vọng hơn, khi nhờ chàng một việc giao thiệp dễ dàng cũng không xong. Nguyên Laxmidas nuôi hy vọng nối chức cha ở ngôi Thủ-Tướng triều đình tiểu bang Porbandar. Nhưng ông lại không được thiện-cảm của viên quan cai trị địa phương người Anh, nên rất ít hy vọng được chọn. Biết rằng ông em đã có dịp giao thiệp với viên quan đó ở Luân-Đôn, ông bèn cậy em đến nói lót với kẻ thù. Thoạt tiên Gandhi còn chối, lấy cớ là chỗ sơ giao, nói những chuyện đó không tiện, sau vì nể anh quá, đành phải tìm đến viên quan người Anh. Nhưng không hiểu lời qua tiếng lại ra sao mà viên này lỗ mãng tống Gandhi ra khỏi cửa. Thế là vấp phải sự hiềm thù của viên quan cai trị địa phương, từ đó Gandhi hết hy vọng xin được một chức quan tòa hay một chức Bộ-trưởng nào trong triều Porbandar. Những chuyện đó để lại trong tâm khảm Gandhi một cảm giác nặng nề. Chàng kinh tởm những cuộc vận động lén lút của bọn quyền gian không từ bỏ một thủ đoạn nào để đạt tới mục đích.

Thừa dịp ấy khi ấy một hãng buôn Nam-Phi mời Gandhi sang biện hộ giúp một vụ kiện, chàng liền lấy vé tầu đi Zanzibar, trong thâm tâm muốn lợi dụng cơ hội để đi du lịch một phen, chứ không chú ý gì đến việc chính phải làm là cãi kiện. Lúc bấy giờ, vợ chồng Gandhi đã được thêm một mụn con nữa là cậu Manilal. Lúc chia tay, Gandhi hẹn vợ là năm sau sẽ trở về.

Một người rút rát và e sợ cuộc đời như Gandhi bấy giờ, may sao lại gặp được một bạn tâm giao đủ kinh-nghiệm đủ tài hoa, để chàng tin cậy và nương tựa. Đó là nhà thi sĩ Raychandbai ở Bombay. Thi sĩ nhờ cửa hàng buôn vàng ngọc mà sống cuộc đời hoa lệ giàu sang, song không vì thế mà lãng bỏ tấm lòng sùng đạo cùng ý tưởng dưỡng tính tu thân. Mỗi lần tinh thần khủng hoảng, chàng lại tìm đến bạn để bày tỏ nỗi lòng, cùng để nhận ở bạn ở những lời an ủi khuyên can đầy triết lý. Ở Nam-Phi, chàng cũng không quên viết thư hỏi ý kiến bạn mỗi khi gặp sự khó khăn. Tuy nhiên, Cam-Địa vẫn không vì thế mà coi bạn như thánh như thần, để đến nỗi quên mất cả cá tính của mình. Chàng phục bạn, nhưng không theo bạn một cách mù quáng. Chàng có những ý kiến riêng của mình, và thực hiện những ý kiến đó bằng những phương tiện mình có. Những sự thất bại buổi đầu tạo nên cho chàng kinh nghiệm cùng một nguồn hoạt động mới mẻ dồi dào. Cho đến khi cái cá tính tiềm tàng bừng nở ở chàng, thì chúng ta có thể coi đó như một sự tái sinh của Gandhi trong quãng đời hiện sống của chàng.

Khi Gandhi đặt chân xuống đất Nam-Phi, thì sự phân biệt chủng tộc đang áp dụng triệt để ở đất đó. Người Anh đối với người Ấn ở Nam-Phi bấy giờ, thực có thái độ đáng bỉ. Họ gọi tất cả người Ấn là cu-li. Mặc dầu trong số đó có những giáo-sư, những luật-sư, những thầy thuốc, họ vẫn không bỏ cái tiếng khinh mạn cu-li, mà gọi người Ấn bằng những danh từ « cu-li giáo-sư », « cu-li thầy kiện », v.v…

Vài ngày sau khi tới Nam-Phi, Gandhi tới trình diện ở Tòa Án. Chàng vận một bộ quần áo đúng thời trang ; giầy chàng bóng lộn. Đầu chàng quấn khăn như tục lệ người Ấn hồi bấy giờ. Viên quan-tòa hách dịch ra lệnh cho chàng trật khăn ra. Chàng do dự, nhưng không muốn gây thêm phiền nhiễu vào mình, bèn rời khỏi phiên tòa. Muốn khỏi lôi thôi ở Tòa-án, chàng định đội mũ phớt như người Âu, nhưng thân chủ của chàng, một người phú thương theo đạo Hồi, cản ngăn và mách cho chàng biết rằng tục lệ ở Nam-Phi chỉ những bồi rượu người Ấn-Độ mới đội mũ dạ như người Âu.

Như thế vẫn chưa hết chuyện lôi thôi. Gandhi phải đi hầu kiện tại Prétoria, kinh-đô xứ Transvaal. Người ta mua cho chàng một chiếc vé xe hỏa hạng nhất. Chàng đi chuyến tầu tối. Tầu đến tỉnh Maritzbourg thì một người da trắng bước vào toa. Thấy có người « da mầu » ở đó, thì y lui ra, rồi trở lại với hai tên da trắng khác ý chừng nhân viên ở ga xe lửa, ra lệnh cho Gandhi xuống toa xe dưới để nhường toa hạng nhất cho tên hành khách người Âu. Gandhi phản kháng, thì chúng tìm một viên cảnh sát lên xe tống chàng cùng đồ đạc ra khỏi toa tầu. Gandhi có thể tiếp tục cuộc hành trình trên một toa xe hạng ba cùng với những hành khách « da mầu », song chàng nhất định ở lại trong ga. Ban đêm, gió núi lạnh thấu xương. Chàng định giở áo khoác ra choàng cho ấm, thì áo ở trong va-ly mà va-ly thì bọn làm ga đã giữ mất rồi. Chàng không muốn đi đòi về, e bị chúng làm nhục nữa. Chàng ngồi dựa vách thâu đêm, rét run cầm cập mà trong lòng phiền muộn vô cùng.

Trở về Ấn-Độ chăng? hay là hãy ở lại để mang những kẻ làm nhục mình ra tòa án, đồng thời cãi cho xong vụ kiện người ta trông ở mình? Ý nghĩ đó mới chớm qua trong óc chàng thì một ý nghĩ khác vụt nở tung như một nguồn ánh sáng: Tại đây, chàng đã vấp phải những thành kiến bất công do phong trào phân chia chủng tộc gây ra. Bổn phận chàng là phải chống lại sự bất công đó. Bỏ những người đồng chủng của chàng mà về, phó mặc họ với sự khinh bỉ đè nén của người da trắng, thực là một điều hèn nhát lương tâm chàng không bao giờ tha thứ.

Tại sao ý tưởng đó đến với Cam-Địa? Hoặc giả đó là một sự trỗi dậy của cá tính chàng, từ xưa bị âm thầm đè nén dưới một cuộc đời chỉ toàn thất bại? Hoặc giả bởi vì chàng yếu ớt về thể xác, mà nẩy ra ý chí kiên quyết phải tự tạo lấy một sức mạnh tinh thần? Hay là chàng đã tự cảm thấy là lên tiếng bênh vực một phần nhân loại để tố cáo một xã-hội bất công, chàng sẽ giúp ích được cho đồng bào nhiều hơn là cãi kiện trong phạm vi nhỏ hẹp của phiên tòa? Hay đó chỉ là ảnh hưởng của một truyền-thống bất phục cường quyền? Chúng ta đã chẳng thấy ông chàng và cha chàng đã nhiều phen va chạm với chính quyền của người Anh tại cái xứ nhỏ bé Porbandar đó sao?

Chính trong cái đêm giá buốt ở một ga tỉnh nhỏ đó, mầm rễ sự phản kháng một xã-hội bất công đã nẩy nở trong trí não Cam-Địa. Nhưng chàng không thèm đem chuyện xẩy ở Maritzbourg ra trước dư-luận. Chàng sẽ hành động khi tới Prétoria.

Ngay trong tuần lễ sau khi tới Prétoria, Cam-Địa tập họp tất cả các người đồng chủng tại một cuộc hội họp trong đó chàng mô tả cho họ rõ cái tình trạng thảm thương của người Ấn ở Nam Phi và yêu cầu mọi người hợp sức để tranh đấu ngõ hầu chấm dứt tình trạng đó. Năm ấy Cam-Địa 25 tuổi. Đó là lần đầu chàng lên tiếng trước công chúng. Rồi nhiều cuộc họp tiếp theo. Tiếng tăm chàng ngày một vang dội trong giới kiều-dân Ấn. Phong trào phản kháng thành hình. Chàng tiếp xúc với những công ty hỏa xa, và thuyết-phục được họ thuận bán vé hạng nhì cho những người Ấn ăn mặc chỉnh tề. Dư luận tại Prétoria bắt đầu xáo động.

Gandhi lại làm quen được với các giới tôn giáo ở Nam-Phi. Gia-tô có, Tân giáo có. Họ định thuyết cho chàng theo đạo. Khéo léo, chàng hứa với họ rằng hễ lòng tin đến với chàng thì chàng theo đạo ngay. Chàng chăm chú đọc những sách kinh họ khuyên chàng đọc, và kiên-nhẫn giảng giải cho họ những điều họ muốn biết về các tôn giáo nước chàng. Chỗ nào chàng không trả lời được thì chàng không ngần ngại viết thư về hỏi các bè bạn ở Ấn, nhất là nhà thi sĩ Raychandbai.

Những bạn công giáo của chàng hết sức thuyết phục chàng nhưng không được. Chàng vẫn hỏi họ tại sao Đức Chúa Trời đã có một người con là Đức Giê-su lại không thể có được một người con khác? Tại sao chỉ những tín đồ Công giáo mới được lên cõi Thiên Đường? Vậy ra chốn Thiên Đường là độc quyền của Gia-tô sao? Như thế thì Đức Chúa Trời là người công giáo chăng? Đối với những kẻ không theo đạo Gia-tô, người cũng có thành-kiến bất công chăng?

Nhưng Gandhi rất quý trọng các bạn công giáo của chàng, và những bản thánh ca nghe trong các nhà thờ bao giờ cũng làm chàng cảm động. Và nếu chàng tin vững những tôn giáo Đông Phương bao hàm một lý tưởng sâu xa hơn các tôn giáo Tây Phương, thì chàng cũng tin rằng các kinh Tân, Cựu ước cùng kinh Coran có thể cũng là những lời nói của Đấng Tối Cao, chẳng khác gì kinh Phật. Đối với chàng, mọi tôn giáo đều cao quý như nhau.

Chàng cũng rất ghét những sự cạnh tranh ti tiện, những mánh-lới lọc lừa của các nhà dùng luật. Chàng nhận thấy khách hàng của chàng cùng đối phương đều là họ hàng, vả lại vụ kiện kéo dài hàng năm đã làm cả hai bên tổn phí không nhỏ. Chàng liền tìm cách hòa giải đôi bên. Họ bằng lòng chọn một người trọng tài phân xử. Trọng tài xử cho khách hàng của Cam-Địa được kiện. Bên bị phải trả ba mươi ngàn bảng cùng án phí mọi khoản. Thương hại anh ta nếu trả cùng một lúc một số tiền to thế thì vỡ nợ, Cam-Địa bèn dàn xếp với thân chủ mình cho phép anh ta trả làm nhiều bận. Sau vụ kiện đó, Gandhi tin tưởng rằng dàn xếp ổn thỏa giữa hai đối phương bao giờ cũng hơn và chàng thường cố giảng hòa bên nguyên và bên bị.

« Mình có mất gì đâu-chàng vẫn nói-Tiền thì không nhé, và lương tâm thì lại càng không nữa ».