Chương 6 TIẾP-XÚC VỚI NAM-PHI--
XỨ Natal, về năm 1896, có 40 vạn thổ dân đen, 3 vạn người da trắng và 5 vạn người Ấn-Độ. Xứ thuộc địa Bonne Espérance có 90 vạn người khác chủng, 40 vạn người Âu và một vạn người Ấn. Xứ Transvaal có 65 vạn người da đen, 12 vạn người da trắng và độ 500 người Ấn.
Tóm lại số người Ấn ở Nam-Phi không phải là nhiều. Nhưng họ giỏi giang, tằn tiện và đầy tham vọng, Họ làm việc không tiếc công. Dù trong ngành canh nông, thương mại hay trong các nghề tự do, cãi kiện, làm thuốc, đâu đâu họ cũng cạnh tranh một cách thắng thế với người Âu.
Phải chăng vì thế mà họ bị người da trắng thù ghét?
Thoạt tiên là người Hà-Lan lập nghiệp ở đất Nam-Phi vào khoảng thế kỷ thứ 16, họ tự phân chia các đất cát ở vùng Transvaal và vùng sông Orange để trồng trọt, khai-khẩn. Họ đem thổ dân các thuộc-địa của họ ở vùng Đông Nam Thái Bình-Dương sang làm nhân công. Người Anh mãi sau mới đến Nam Phi. Bấy giờ chỉ còn đất Natal bỏ không, họ bèn chiếm lấy rồi đem trồng mía, trà, cà-phê. Những thổ dân bắc chủng không chịu làm cho người Anh, họ bèn chở nhân công từ Ấn-Độ sang làm tại các trại.
Những công nhân đầu tiên đặt chân trên đất Nam Phi năm 1860. Đó là những kẻ bần cùng, chết đói dở ở bên Ấn, Người ta thuê đi phu 5 năm, Họ được chủ nuôi ăn, ở và có quyền đem theo gia-đình. Mỗi tháng được lĩnh tiền công từ 20 đến 25 xu. Mãn hạn phu, thì chủ cho xuất tàu về nước. Ai muốn ở lại thì ký thêm 5 năm nữa. Hay ở vĩnh-viễn cũng được.
Cứ kể ra thì tình trạng đó cũng khả quan. Song đến năm 1894 – là năm Gandhi sang Nam Phi – thì người Ấn đã bị đối đãi khe-khắt hơn nhiều. Hết hạn làm việc 5 năm, người Ấn phải về nước ngay, nhược bằng muốn ở lại thì tụt xuống hàng nô-lệ. Chỉ những người nào nộp nổi mỗi năm 3 bảng bạc thuế mình cho và cho mỗi người trong gia-đình mình mới được coi là công nhân tự do. Ta nên biết rằng 3 bảng bằng 6 sáu tháng tiền công của mỗi công nhân.
Đó là đối với những Ấn-kiều nghèo khó làm việc bằng tay chân. Nhưng đất Nam Phi còn rất nhiều người Ấn sang sinh cơ lập nghiệp từ lâu, nhờ sự buôn bán cần-cù mà trở nên giàu có. Họ mua đất cát, nhà cửa, có người làm chủ cả những hãng hàng hải. Năm 1894, ở xứ Natal, có 250 người Ấn được quyền bầu-cử. Nhưng chúng ta vừa biết rằng Viện Lập Pháp xứ đó mới ban-bố một đạo luật tước quyền bầu cử của người Ấn-Độ.
Ngoài ra, người Ấn ở xứ Natal còn bị nhiều điều khó chịu nữa. Bất cứ người Ấn nào muốn đi quá 9 giờ tối điều phải có một thứ giấy thông hành riêng, nếu không sẽ bị bắt giam và phạt tù. Xứ Orange, thuộc địa của người Boes (một bọn dòng giống Hà-Lan) thì cấm tuyệt người Ấn không được có đất cát nhà cửa không được trồng trọt, ở xứ Zouzouland, thuộc địa của người Anh cũng thế. Ở xứ Transvaal thì như ta đã biết, họ phải đóng một thứ thuế riêng là 3 bảng thì mới được quyền trú ngụ. Mà có trú ngụ thì cũng phải ở riêng biệt, chui rúc trong những khu phố chật hẹp bẩn thỉu. Có nơi, người da trắng cấm tuyệt người Ấn không được đi trên bờ hè. Có nơi thì đi trên đường sát vỉa hè cũng không được, họ chỉ được đi giữa đường, xe cộ có cán chết cũng mặc. Hễ bước lên hè thì có thể bị đá đít tống xuống đường. Chính Cam-Địa cũng đã một lần bị hành hạ như thế.
Sau 3 năm ở Nam Phi, Cam-Địa đã thành một nhà trạng-sư đắt khách và một nhân vật chính-trị tiếng tăm. Những phu-phen Ấn-Độ coi ông như người bảo vệ quyền lợi cho họ. Ông hoạt-động ráo-riết cho phong trào phản kháng sự phân biệt màu da: nào là diễn thuyết, nào là đăng báo hô hào, nào là phát sách, nào là lập những bản thỉnh-cầu có hàng vạn tên ký. Cam-Địa đã phát hành 2 cuốn sách: « Lời kêu gọi toàn thể người Anh ở Nam Phi » và « Một lời kêu gọi: quyền bầu cử của người Ấn-Độ ».
Phương-châm hành-động của Cam-Địa là kêu gọi lòng hiểu biết và công bình của đối phương. Cam-Địa nhận thấy rằng bao giờ sự nhịn nhục điềm đạm và cao thượng cũng làm cho người ta kính nể. Vậy cuộc tranh đấu của Cam-Địa không phải là một cuộc tranh đấu tích cực. Cam-Địa không muốn ép buộc đối phương phải khuất phục. Ông muốn rằng họ nghe theo lẽ mà tự ý thay đổi thái độ. Trong ý tưởng ấy, Cam-Địa không đòi người Ấn được đối đãi hoàn toàn bình đẳng với người Âu. Ông công nhận rằng người Âu, ở trên nước họ, có quyền được hưởng sự bảo vệ của luật pháp trước sự tràn lấn của người ngoại quốc di cư vào mỗi lúc một đông. Ông cũng không bắt buộc đối phương phải bỏ ngay sự phân biệt mầu da ở các nơi công cộng như xe hỏa, công viên, v.v…
« Chúng tôi rất nhục-nhã vì sự phân-biệt đó, song chúng tôi im lặng, kiên-nhẫn mà chịu! » Cam-Địa nói thế vì ông hiểu rằng: « Những thành kiến không thể nhất thời phá được bằng luật-lệ. Phải chờ một thời-gian trình-độ người ta tiến hơn thì tức khắc những thành-kiến đó tự nó mất đi ».
Vậy Cam-Địa chỉ công-kích các chính-phủ ở Nam-Phi về chỗ đáng lẽ phải tìm cách nâng cao trình-độ tinh-thần của dân chúng đối với những vấn-đề chủng-tộc, để các thành-kiến chóng mất đi, thì củng-cố thêm những thành-kiến đó bằng luật-lệ, khiến chẳng khác lửa đổ thêm dầu. Cam-Địa muốn nêu cao một nguyên-tắc là người Ấn đã là con dân của đế-quốc Hồng-Mao (hồi ấy Ấn-Độ còn là thuộc địa của Anh) thì lẽ dĩ nhiên họ có quyền được đối đãi ngang hàng với tất cả mọi phần-tử trong đế-quốc. Vậy nếu bị hành hạ mà người Ấn cứ câm lặng không phản kháng, thì họ thành ra hèn nhát không còn giá trị ; và người Anh cứ nghiễm-nhiên lợi-dụng sự hèn nhát đó cũng tự hạ chẳng kém gì.
Cho nên đòi hỏi cho người Ấn những quyền lợi dĩ nhiên của họ, Cam-Địa chủ trương cứu vãn giá trị cho cả người Ấn lẫn người Anh.
Con người đang hăng-hái tranh-đấu đó nay không còn là chàng sinh-viên rút rát ngờ-nghệch ngày trước nữa. Bây giờ Cam-Địa đã thành một nhà hùng biện, một lãnh-tụ khôn ngoan, một nhà tổ-chức khéo-léo đầy kinh-nghiệm, và một chính-trị gia mềm mỏng gây được cảm tình của cả mọi người từ bé chí lớn.
Biết rằng cần phải có mặt rất lâu ở Nam-Phi, thì phong trào tranh-đấu mới có cơ-hội kết thúc, năm 1896 Cam-Địa tự cho phép nghỉ 6 tháng để về nước đón gia-đình.
Về đến quê hương, Cam-Địa cũng không ngừng hoạt động phút nào. Nghỉ ngơi một tháng ở Raikot bên cạnh vợ con, ông cũng lợi dụng thì giờ đó để viết một cuốn sách trần thuật tất cả những sự hành hạ mà người Ấn phải chịu ở Nam-Phi. Sách đó xuất bản 1 vạn cuốn gửi đi cho khắp các báo, và đã gây nên một luồng dư-luận sôi nổi.
Bấy giờ bệnh dịch-hạch chớm phát ở Bombay. Dân cư Raikot xôn xao lo sợ. Cam-Địa ghi tên vào ban tình-nguyện đi tẩy uế các nhà cửa. Ông tự nhận lãnh phần công việc bẩn thỉu nhất là đi tẩy uế các nhà tiêu. Rồi ông can đảm vào bơm thuốc ở khu riêng biệt của những người cùng khốn. Ông nhận thấy một sự là những túp lều xiêu vẹo ở đây tuy chẳng có nhà tắm cầu tiêu, song lau chùi quét tước sạch sẽ còn hơn biệt-thự của nhiều nhà phú-hộ.
Rồi từ Raikot, Cam-Địa đi Bombay để tổ chức một cuộc mít-tinh ủng-hộ phong-trào tranh-đấu của người Ấn ở Nam-Phi. Ông được nhiều nhân vật quan trọng hứa sẽ thành tâm giúp đỡ. Cuộc mít-tinh ở Bombay được dân chúng nhiệt-liệt hưởng-ứng. Tiếng hoan-hô không ngớt, Cam-Địa không sao đọc được bài diễn văn của mình. Sau ông phải nhờ một người đọc hộ. Đâu đâu ông cũng được tiếp đón niềm nở. Một vạn cuốn sách in ở Raikot bán hết veo. In thêm một vạn cuốn nữa vẫn không đủ bán.
Cam-Địa đang định tổ-chức một cuộc mít-tinh khác ở Calcutta thì nhận được giây thép ở Natal đánh sang yêu cầu ông sang Nam-Phi ngay có việc cần. Ông liền cùng vợ, hai con, và đứa cháu con bà chị xuống tầu ở Bombay. Dada Abdulla Sheth, khách hàng cũ của ông, cho riêng một chuyến tầu sang đón ông. Đồng thời một chiếc tầu nữa cũng nhổ neo cùng ngày đi Nam-Phi. Cả hai chiếc tầu chở ước chừng 800 hành khách.
Những việc Cam-Địa làm ở xứ sở được báo chí loan truyền đi và thêu-dệt thêm, khiến cho dư luận ở các xứ Nam-Phi rất lo ngại. Người ta đồn rằng Cam-Địa định đem người Ấn-Độ sang tràn ngặp người da trắng ở Nam-Phi. 800 người Ấn-Độ tự do cùng đi với Cam-Địa sang Nam-Phi không phải để làm việc ở các đồn-điền mà là để buôn bán, làm ăn cạnh-tranh với người da trắng. Sự thực thì Cam-Địa không hề có hô-hào hay khuyến-khích những người Ấn cùng đi chuyến tầu đó theo mình.
Thoạt tiên, hai chiếc tầu bị hãm ở Durban, lấy cớ là đề-phòng bệnh dịch truyền-nhiễm từ Bombay, không ai trên tầu được phép xuống đất. Kiều dân da trắng biểu-tình đòi chính-phủ trục-xuất những người trên tầu, kể cả Cam-Địa, trở về Ấn-Độ. Dada Abdulla cũng nhận được nhiều thư đe doạ, đòi phải ra lệnh cho hai chiếc tầu của ông quay mũi về Ấn.
Ngày 13 tháng 7 năm 1897, 23 ngày sau khi cập bến, hai chiếc Courland và Naderi mới được phép đổ người xuống bến, nhưng Harry Escombe, Bộ-Trưởng Tư-Pháp chính-phủ xứ Natal viết giấy cho Cam-Địa khuyên ông chờ ban đêm hãy lên bộ, kẻo gây sự rối loạn trong thành-phố. Nhưng ông F.A Laughton cố-vấn pháp luật của Abdulla không tán-thành phương kế đó. Chính Cam-Địa cũng không thích lên bộ lén lút. Cho nên ông cho vợ, khi ấy đang có mang, con và cháu, lên xe hơi về trước, còn ông và Laughton thì đi bộ về sau. Lúc bấy giờ đám đông người da trắng đã giải tán, nhưng có hai đứa bé con chợt nhận ra Cam-Địa bèn hô hoán lên. Vài người da trắng chạy đến. Sợ xẩy ra sự không hay, Laughton vẫy một chiếc xe kéo lại để chở Cam-Địa chạy cho nhanh. Nhưng Cam-Địa còn dùng dằng không chịu lên xe. Bấy giờ người tứ phía đổ xô đến, tên phu xe hoảng sợ lủi mất. Đám đông vây Laughton và Cam-Địa vào giữa rồi rẽ hai người ra để đánh Cam-Địa. Thoạt tiên họ còn ném gạch đá vào người ông. Rồi họ trật khăn ông mà ra đấm đá. Họ đánh ông bò lê ra đất. Họ định điệu ông đi xử giảo nhưng ông cố níu lấy cánh cửa sắt một nhà gần đấy. May sao vừa lúc ấy bà Alexander, vợ viên cảnh sát trưởng nhận ra ông, liền sấn vào can. Bà phải đem mình ra làm mộc che cho Cam-Địa, dân chúng mới dãn ra, nhưng vẫn vây bọc lấy Cam-Địa. Nhờ có kẻ gọi Cảnh sát đến và khó nhọc mãi mới đưa được ông ra khỏi đám đông. Ông không chịu lánh vào bóp cảnh sát, song thuận để cho lính che chở dẫn về nhà một người Ấn là Roustomyi. Dân chúng vây nhà Roustomyi hò hét đòi phải giao ngay Cam-Địa cho họ nếu không sẽ đốt nhà. Viên Cảnh sát trưởng Alexander cũng có mặt tại nơi biểu tình, mà không làm thế nào giải tán được dân chúng. Đến đêm, biết rằng không thể nào ngăn được họ đốt nhà Roustomyi, Alexander đành mật sai người khuyên Cam-Địa cải dạng trốn đi nơi khác. Hai viên cảnh sát Anh bôi mặt và ăn mặc giả dạng người Ấn đưa Cam-Địa lẻn cửa sau đi tắt qua các phố trốn vào bóp cảnh sát. Khi Cam-Địa đã trốn khỏi rồi, Alexander mới báo cho dân chúng biết.
Cam-Địa phải ẩn náu trong bóp đủ ba ngày mới dám ló mặt ra ngoài.
Tin Cam-Địa bị hành hung làm cho Luân-Đôn lo ngại. Viên Bộ-Trưởng bộ Thuộc-địa Anh, bấy giờ là ông Joseph Chamberlain đánh điện cho các nhà cầm quyền Nam-Phi đòi phải trừng-trị ngay những kẻ cầm đầu vụ biểu tình. Nhưng Cam-Địa không muốn đầu đơn kiện họ. Ông cho rằng lỗi đâu phải ở họ, những người chỉ hăng máu chốc lát. Lỗi chính ở nhà chức trách xứ Natal, đã không biết bảo-vệ kiều-dân ngoại-quốc, lại còn khuyến-khích dân chúng trên con đường gây hấn.
Về vụ bạo động ở Durban, Giáo-sư Thompson ở Đại Học-Đường Oxford viết rằng:
« Lẽ ra Cam-Địa phải thù ghét người da trắng đến tận mãn đời. Song ông đã tha thứ cho những kẻ một mực đòi treo cổ ông lên cây. Ông không oán giận những kẻ đã đấm đánh ông, vì họ chỉ làm ông đau đớn trong thể xác, chứ có xúc-phạm được đến tinh-thần ông đâu? »
Vả lại, ông cũng được đôi chút mãn-nguyện là sau vụ ấy, chính-phủ Anh đã can-thiệp ráo-riết với Nam-Phi, để các nhà cầm quyền xứ này ưng chịu cho người Ấn ở Natal cũng được quyền bầu-cử ngang với người Âu.