← Quay lại trang sách

Chương 7 NHỮNG NGÀY Ở NAM-PHI--

NĂM 1899, chiến-tranh xẩy ra tại Nam-Phi giữa người Anh và người Boers. Cảm-tình của Cam-Địa hướng về người Boers, song ông lại tòng quân về phía người Anh. Vì ông cho rằng người Ấn đã ở trong đại gia đình đế-quốc Anh thì có bổn phận phải chiến-đấu bên cạnh người Anh.

Nhưng thái-độ đó có thể làm tổn thương đến uy tín của ông trong dư-luận những người Ấn lúc đó đang chống lại người Anh. Vì thế nên ông không hô-hào người đồng hương trực-tiếp chiến-đấu trong hàng ngũ Anh, mà chỉ tổ chức một đội Hồng-Thập-tự gồm 300 lính y-tá tình nguyện. Năm 1900, người Anh thua lớn, phải bỏ chạy để lại rất nhiều người bị thương trên trận địa. Đội Hồng-Thập-tự Ấn, dưới quyền chỉ huy của Cam-Địa đã không quản ngại sự nguy hiểm, ở lại nhặt nhạnh cho kỳ hết người bị thương. Lòng quả cảm của người Ấn gây được một luồng dư-luận tốt ở chính quốc và ở Nam-Phi, và đã giúp nhiều cho sự thực hiện của mục-đích Cam-Địa hằng ao ước là lấp bằng hố chia rẽ giữa hai dân tộc khác mầu da.

Cuối năm 1901, vì người Anh đã đem được nhiều quân tiếp viện từ chính quốc đến, nên Cam-Địa cùng các đồng bạn xin giải ngũ. Sau khi nhận các huy chương khen thưởng, ông trở về Ấn cùng gia-đình và mở văn-phòng luật-sư ở Bombay.

Lúc bấy giờ viên Tổng-Trưởng Bộ Thuộc-địa Anh là Joseph Chamberlain có dịp sang Nam-Phi. Các kiều dân Ấn ở đây bèn đánh điện cho Cam-Địa sang ngay, để đạo-đạt cùng nhà cầm quyền chính quốc những điều thỉnh-nguyện của Ấn-kiều ngụ ở Nam-Phi. Cam-Địa tới Durban cuối năm 1902. Cuộc hội-kiến với Chamberlain không đem lại kết quả gì. Viên Bộ-Trưởng tiếp Cam-Địa một cách lãnh-đạm và không hứa hẹn gì dứt khoát. Cam-Địa liền mở ngay văn phòng thầy kiện ở Johannesbourg để ở lại tiếp-tục điều-khiển cuộc tranh-đấu lúc ấy lại bắt đầu.

Bấy giờ xứ Transvaal đã đặt một bộ Á-Châu để trông nom điều-khiển các vấn-đề có liên-quan đến sự giao-thiệp với kiều-dân Ấn. Nhưng các viên chức trông coi bộ đó vẫn chưa dứt bỏ được thái-độ khinh mạn. Chính tướng Botha, một lãnh-tụ người Boers, khi ấy đang cầm đầu một đảng đối lập chính-phủ, đã công nhiên tuyên bố là nếu đảng ông lên cầm quyền thì chỉ trong 4 năm sẽ không còn bóng một « tên cu-li » nào trong nước ông nữa. Và chính tướng Smuts, chủ tịch chính-phủ cũng gọi người Ấn là một cái nhọt độc đang làm nguy hại đến đời sống của người Nam-Phi. Và ông ra lệnh cho bộ Á-Châu tìm cách ngăn ngừa sự lan-tràn nguy hiểm đó.

Cam-Địa liền tấn công trước nhà cầm quyền da trắng.

Trước khi ra mặt chống lại người Anh, ông còn cố gắng một lần cuối cùng tỏ cho họ biết lòng thành thực, chí hy sinh của người Ấn, để mong họ thay đổi thái-độ. Vừa vặn trận chiến-tranh Zoulous hiến ông dịp may đó. Bấy giờ người Anh đang tiễu trừ những bộ-lạc Zoulous đang « làm phản ». Cam-Địa họp 24 người đồng hương thành một đội cứu thương tình nguyện đi giúp đỡ quân Anh. Mỉa mai thay! người Anh chỉ dùng họ để chữa cho những thổ dân Zoulous bị thương trên trận tiền, vì các y sĩ và nữ y-tá người da trắng không băng bó cho thổ dân. Mỗi nơi lính Anh đi qua, năm sáu hôm sau, đội cứu thương của Cam-Địa còn nhặt được những người bị hành-hạ khảo đả, nằm ngổn-ngang với những thương tích gớm ghê, không một ai thèm đoái-hoài băng bó.

Sau trận chiến-tranh Zoulous, Cam-Địa biết rằng không thể nào chờ mong được ở bọn người hung tàn và thiển cận kia một sự thay đổi thái độ đối với những người khác màu da với họ. Ông liền lao mình vào một cuộc tranh-đấu lớn lao để chống lại nạn phân chia chủng-tộc. Và ông đã tỏ cho thế giới biết rằng bên trên sức mạnh hung-tàn và lòng tự-đại tự-cao thiển-cận, còn có những sức mạnh cao cả hơn, là lòng nhân-đạo và bác-ái, không phải của riêng một dân tộc, một sắc da nào, mà nhiều khi còn thiếu sót ở những kẻ tự phụ mình là văn-minh nhất.

Bà Cam-Địa năm ấy được 28 tuổi. Bà là một thiếu phụ xinh đẹp, mặt trái soan, mắt bồ câu, mũi thẳng, miệng tươi. Bà ăn vận rất sang-trọng, vì ông chồng bấy giờ đã là một vị trạng-sư nổi danh, lợi tức vào khoảng 5, 6 ngàn bảng một năm, một số tiền to hồi ấy. Hai vợ chồng ở một chiếc biệt-thự gần bờ biển, ngay bên cạnh biệt-thự của viên Bộ-Trưởng Tư-Pháp chính-phủ Nam-Phi.

Nhưng hai vợ chồng thương xô-xát nhau vì những chuyện không đâu. Đáng lẽ công việc trong nhà hoàn toàn thuộc phạm-vi bà vợ, thì ông chồng lại hay dính líu vào, để lên mặt dạy vợ. Chẳng hạn Cam-Địa chỉ thích tự mình săn sóc lấy các con, và bắt vợ phải theo ý mình. Ngoài ra, cũng như tất cả mọi người Á-Đông, Cam-Địa muốn hoàn toàn làm chủ-nhân-ông trong gia-đình. Ông không thể công nhận được là ý muốn của người đàn bà ra ngoài ý muốn của chồng. Bà Kastourbai, vợ ông, thì tính nết nhiều khi bướng bỉnh.

Năm 1902, trở lại Nam-Phi ông đem theo bà vợ cùng ba cậu con. Cậu cả Haribal thì ông để lại ở Ấn-Độ. Làm thầy kiện, ông không quá chú trọng đến tiền tài. Với khách hàng nào ông cũng bắt phải khai ngành-ngọn mọi chi tiết việc xích-mích. Hễ khách hàng trái thì ông nhất định không cãi giúp, dù trả bao nhiêu tiền cũng mặc. Vì theo ông, nhiệm-vụ người thầy kiện không phải là cãi cho người gian thành ngay, mà là tìm hết mọi cách giúp thần Công-Lý tìm ra sự thật.

Ông không đi xe bao giờ. Từ nhà đến phòng giấy, ông chỉ đi bộ và bao giờ cũng giắt các con đi theo. Nhiều khi ông đánh máy lấy bài cãi, không sai đến thư-ký.

Một lần, tên thợ cạo lấy cớ ông là người da đen, không chịu hớt tóc cho ông. Ông thản-nhiên như không, đi mua đôi tông-đơ về, rồi từ đó bố con cắt lấy cho nhau.

Mỗi ngày Cam-Địa để ra 15 phút để đánh răng và 15 phút để tắm. Trong khi ấy, ông nhẩm kinh Ghita trong óc. Bây giờ ông suy nghĩ nhiều về quyền sở hữu. Kinh Ghita dạy rằng những vật ta coi là sở-hữu có giữ được mãi đâu mà cố bíu lấy? Từ đó, Cam-Địa luận ra rằng muốn giữ tâm hồn lâng-lâng thanh-thản thì đừng nên để cho những sự ghét, yêu, thèm, tiếc, vấn-vương bận-bịu trong lòng. Vậy phải coi kẻ thù chẳng khác người thân, người ghẻ lạnh cũng như thân-bằng cố-hữu. Đó là sự « siêu thoát » mà Kinh Ghita hằng khuyên dạy.

Vì vậy, ông mua một cái trại gần tỉnh Phoenix, cách Durban độ 15 dặm. Trại ở trên một khoảng đồi, rộng ước 40 mẫu, có giếng nước trong, có cây ăn quả, cùng một ngôi nhà tuy mục nát nhưng rộng rãi. Cam-Địa muốn dỡ đi để làm nhà tranh ở ; song những bạn hữu của ông không chịu. Họ giúp ông, kẻ tiền, người vật-liệu để sửa chữa thành một chốn ở phong-quang.

Bấy giờ ông đang làm trợ bút cho tờ báo « Dư luận Ấn kiều » chủ bút là một người Anh mà ông thường gặp trong tiệm ăn chay. Ông cho dọn toà báo về ngôi trại mới khánh thành. Công việc trong toà báo tổ chức rất dân chủ: từ chủ bút cho tới anh thợ xếp chữ, đều ăn lương đồng hạng 3 bảng một tháng. Hồi đó là năm 1934. Hiện giờ, sau 18 năm, tờ báo « Dư luận Ấn-Kiều » vẫn còn sống. Toà soạn vẫn ở chỗ cũ, và Giám-Đốc bây giờ là Manilal Gandhi, người con thứ ba của thánh Cam-Địa.

Tuy nhiên, vì công việc kiện-cáo bề bộn, Cam-Địa không thể ở luôn tại Phoenix được. Từ nơi làm việc là Johannesbourg ông vẫn thường gửi bài cho toà soạn, và báo bán không chạy, lỗ bao nhiêu thì ông lại bù vào bấy nhiêu. Văn phòng luật sư của ông rất phát-đạt. Các Ấn-kiều, cả đến những người Ấn bình dân sang Nam Phi làm phu đồn-điền, đều tín-nhiệm ông đến mực gửi cả ông giữ hộ những món tiền họ dành-dụm được. Họ không quen gửi tiền ở các nhà băng, mà họ cũng không tín-nhiệm những người da trắng.

Bấy giờ vào khoảng 1906, Chính-phủ xứ Transvaal đang có ý định ban hành một đạo luật bắt buộc tất cả các kiều dân Ấn ở Transvaal, bất cứ già, trẻ, lớn, bé, đàn ông hay đàn bà, hễ từ 8 tuổi trở lên là phải có một tấm giấy căn cước của các nhà cầm quyền phát. Giấy đó phải mang luôn trong mình, khi hỏi đến, phải xuất trình, nếu không, có thể bị bắt bớ, giam cầm, hoặc trục xuất khỏi xứ Transvaal.

Người Ấn ở Transvaal rất phẫn-nộ vì bản dự luật đó. Trước hết, đạo luật cho phép lính cảnh sát giữ lấy bất cứ một người đàn bà Ấn nào ở ngoài phố để hỏi giấy và khám xét, hay sục sạo vào bất cứ một nhà nào của người Ấn, có đàn bà con gái cũng mặc. Như thế, người Ấn cho là trái với thói tục của nước họ. Sau nữa, nếu không phản-kháng mà để đạo luật đó ra đời được, thì rồi đây khắp các xứ ở Nam-Phi sẽ theo gương xứ Transvaal mà lập những luật-lệ tương-tự.

Bởi thế cho nên ngày 11 tháng 9 năm 1906, Cam-Địa triệu tập một cuộc mít-tinh tại nhà hát lớn thành-phố Johannesbourg. Hơn 3 ngàn người Ấn, dưới quyền chủ toạ của Cam-Địa, đồng thanh thề sẽ phản-kháng đến cùng những đạo luật kiểm-soát căn-cước Ấn kiều, cùng thảo một bản kiến-nghị đệ lên Nghị-viện xứ Transvaal yêu cầu thủ-tiêu bản dự luật đó.

Cuộc hội họp ngày 11 tháng 9 mang lại một kết quả là chính-phủ xứ Transvaal thôi không bắt các đàn bà Ấn-Độ phải khai căn-cước. Thắng lợi đầu tiên đó khuyến-khích người Ấn theo đuổi công cuộc tranh đấu do Cam-Địa lãnh-đạo. Chính ông cũng rất hy vọng. Ông cho là không cần gì phải đi đến sự kháng cự bằng sức mạnh. Nếu lời lẽ phải chăng mà không lay chuyển được địch thủ, thì biết đâu lòng thanh-cao không vụ lợi, đức nhẫn-nại nhịn nhục lại không cảm-hoá được chúng? Chiến-lược lý-tưởng không phải là tiêu-diệt được kẻ địch mà là làm cho địch cảm-động mà tự ý đổi thay thái-độ.

Trước khi hành-động, Cam-Địa còn muốn sang Luân-Đôn để tìm cách dàn xếp lần cuối. Xứ Transvaal là một thuộc địa của Hoàng-gia. Vậy nhà vua có thể ngăn cản chính-phủ Transvaal không cho ban hành đạo luật. Tới Anh, ông tiếp xúc với Lord Elgin, Bộ-trưởng Thuộc-Địa và Lord Morley, Bộ-Trưởng Bộ Ấn-Độ, cùng nhiều nhân-vật khác đã tỏ ra có cảm tình đối với phong-trào chống sự phân chia chủng-tộc ở Nam-Phi, Ông còn được mời nói chuyện trước các nghị-viện Dân-biểu.

Lord Elgin hứa sẽ không chấp nhận những đạo luật bài Ấn của Nam-Phi. Ông yên lòng xuống tầu về, nhưng dọc đường thì được tin Chính-phủ Anh đã duyệt y các đạo luật đó.

Vậy thì đối với ông con đường hành-động đã vạch rõ. Thỏa thuận với các nhà cầm quyền Nam-Phi không xong, ông chỉ còn cách chống lại họ.

Đó là việc ông đã làm.