Chương 9 ĐƯỜNG VỀ CỐ QUỐC--
CAM-ĐỊA không phải đã thắng một cách dễ dàng. Chính-sách đàn-áp của Chính-phủ Transvaal làm cho người Ấn rất hoang-mang và có cơ làm tan rã phong-trào kháng-cự. Hồi bấy giờ có 13.000 Ấn kiều ở Transvaal thì 2.500 đã bị bắt vào tù, và 6.000 người thì trốn sang các xứ khác. Có người bị trục xuất khỏi Nam-Phi và bị tịch thu hết của cải. Trong tình-trạng ấy, nếu không phải là một nhà lãnh-tụ vừa cao thượng, vừa kiên quyết, lại vừa nhân ái trung hậu như Cam-Địa thì không sao ngăn cản được lực-lượng khỏi tan rã.
Ngoài ra, một mối nguy khác vừa nẩy nở: các nhà đương-cục xứ Transvaal đang tiếp xúc với những chính phủ các xứ lân cận để lập khối Liên-hiệp Nam-Phi. Nếu khối này thành, thì tự nhiên những luật lệ bài Ấn ở Transvaal sẽ được đem áp dụng ở khắp các xứ Nam-Phi. Được tin các tướng Botha và Smuts đang ở Luân-đôn để vận-động thành-lập khối Liên-hiệp Nam-phi, Cam-Địa liền đáp tầu sang Anh để tìm phương đối phó. Cam-Địa dựa vào đảng tự do Anh rất phản đối chính sách phân biệt mầu da. Những người Anh ở Ấn-Độ cũng rất khó chịu về nỗi những chuyện rắc rối ở Nam-Phi gây ra ảnh hưởng không hay ở Ấn, và làm cho dư-luận dân chúng bắt đầu xao động. Đồng thời, một đồng chí da trắng của Cam-Địa là Henry Polak cũng đang tổ chức tại khắp các tỉnh Ấn-độ một phong trào phản kháng chính sách của Nam-Phi. Bởi thế, chính-phủ Anh không muốn gì hơn là dàn xếp cho Cam-Địa và Smuts thỏa-thuận với nhau. Nhưng thủ tướng Smuts không chịu nhượng-bộ. Ông ta chỉ bằng lòng cho di cư vào xứ Transvaal một số rất ít người Ấn có học, biết tiếng Anh, và đang làm các nghề tự do, để giúp ích riêng cho kiều dân Ấn-độ. Cam-Địa không chịu. Ông đòi người Ấn phải được đối đãi hoàn toàn bình-đẳng với các người da trắng khác trong việc di-cư vào cư ngụ ở Transvaal. Bởi thế cho nên sau khi cuộc đàm phán do chính phủ Anh trung gian, gián đoạn, Cam-Địa liền trở về ngay Nam-Phi để tổ-chức một hình thức phản-kháng khác.
Các hành-trình của Cam-Địa sang Anh dẫu không mang lại kết-quả hiện tại, song cũng gián-tiếp giúp cho cuộc tranh đấu của ông bằng cách nâng việc xích mích giữa ông và chính-phủ Transvaal lên hàng những việc quan-trọng có ảnh-hưởng đến sự thống nhất của đế-quốc Anh. Ngoài ra, trong khi ở Anh, bên cạnh các nhà cầm quyền chính quốc, Cam-Địa còn đề-cập đến vấn đề trả độc-lập cho Ấn-độ. Ở Luân-đôn ông hội họp tất cả những người Ấn có khuynh-hướng độc-lập, và hàng ngày thảo-luận với họ đến khuya. Nhưng nếu ông đồng ý với họ ở chỗ người Ấn nào cũng có ác cảm với người Anh, cũng như người Anh nào cũng khinh ghét người Ấn, thì ông lại không tán-thành những phương-sách họ nêu ra trong công cuộc thu hồi độc-lập. Cam-Địa nhất định gạt bạo-lực ra ngoài. Theo ông, chỗ quan trọng đâu phải là thay thế nhà cầm quyền Anh bằng người Ấn? Chỉ quan trọng là nhà cầm quyền, bất kỳ người Anh hay người Ấn, cai-trị theo ý-nguyện của dân:
« Tôi là dân, tôi chỉ cần nhà cầm quyền hành động theo ý muốn của tôi, không giúp họ sử dụng quyền hành của họ nữa, nghĩa là tôi bất tuân lệnh của họ nữa, tù tội mặc ».
Về đến Nam-Phi, cuối năm 1909, tình trạng cuộc đề kháng bắt buộc Cam-Địa phải tổ-chức một hình thức sống mới cho các chiến-sĩ. Ông muốn làm cho họ sống một cuộc đời mới lạ và giản-dị, thân ái với nhau hơn. Nhân công cuộc đó, ông lại tự ép mình vào những kỷ-luật mới, nghiêm-ngặt hơn, để đi dần tới sự thanh cao, siêu-thoát của bậc Thánh như kinh Ghita hằng khuyên dạy. Vấn đề đời sống mới đặt ra như sau đây: chiến-sĩ bị bắt giam mỗi ngày một nhiều, gia-đình họ sẽ sống ra sao? Muốn cho mọi người hết lòng tranh đấu, thì không gì hơn là tổ chức đời sống hợp quần, để người đi yên lòng là những người thân ở lại được đoàn thể cưu-mang đùm-bọc. Bởi thế, Cam-Địa cùng các đồng-chí mua một chiếc trại rộng hơn một ngàn mẫu đất ở Lawley, cách Johannesbourg độ 20 cây số để làm nơi mọi người cầy cấy trồng trọt mà sống tập đoàn. Cam-Địa đặt tên khu trại đó là trại Tolstoi. Trại có ước chừng hơn một ngàn gốc cam, mơ và mận ; hai giếng nước, một suối dẫn nước vào một ngôi nhà. Cam-Địa cho cất thêm nhiều nhà nữa chung quanh. Mọi người làm lấy bánh để ăn, đan lấy dép mà dùng, và xẻ lấy gỗ làm đồ-đạc. Thiếu thì ngủ dưới đất, ngoài trời. Mỗi người được phát hai tấm chăn nhẹ và một chiếc gối gỗ. Quần áo cũng may lấy mà mặc. Chính Cam-Địa cũng cắt lấy cho bà vợ hai bộ áo và ông rất bằng lòng khi thấy bà mặc. Lệ-luật trong trại rất nghiêm. Cấm ngặt uống rượu và hút thuốc lá. Ai muốn ăn mặn cũng được. Song, sau khi tuyên-truyền về sự ích lợi của các món chay, thì mọi người đều theo ông mà tập bỏ dần thói quen ăn thịt.
Ai ra tỉnh có việc mua bán, giao-dịch cho đoàn-thể thì được đi xe hỏa nhưng chỉ được lấy vé hạng ba. Còn nếu đi việc riêng hoặc đi chơi thì phải đi bộ. Cam-Địa có việc phải đi cãi luôn ở tỉnh, nhưng ông chỉ đi chân. Ông ra đi từ 2 giờ sáng và đến khuya mới về đến nhà.
Thường thường trong trại, bữa điểm-tâm ăn vào hồi 7 giờ, bữa trưa hồi 11 giờ, bữa chiều 5 giờ rưỡi. 7 giờ rưỡi tối là giờ đọc kinh và 9 giờ, thì mọi người đi ngủ. Các món ăn đều là những món ăn rất thanh đạm. Nhiều khi họ còn tránh những món nấu nướng, và chỉ ăn hoa-quả, đậu phụng, dầu ô-liu trừ bữa, Riêng Cam-Địa và Kallenbach (người cộng-sự thân nhất của ông) thì sữa cũng không ăn. Kallenbach hồi bấy giờ có một ngôi nhà sang trọng rộng rãi trên một ngọn đồi ở Johannesbourg, song ông không ngần ngại từ bỏ cuộc đời xa hoa vẫn sống từ trước, mà đến ăn ở trong trại, cùng các đồng chí chia sẻ sự khó nhọc và thiếu thốn. Ông lại cùng Cam-Địa chia nhau giảng dậy cho các trẻ trong trại sử-ký, địa-dư, toán-pháp, cùng những điều cần yếu về tôn-giáo, v.v…
Tháng 10 năm 1912, Gopal Krichna Golanale, giáo sư Anh văn cùng kinh-tế học ở Ấn, sang Nam-Phi đến ở trong trại một tháng để khảo-sát vể cách tổ-chức đời sống ở đấy, và để giúp Cam-Địa những điều sở cầu hầu nâng cao khả năng kinh-tế của đoàn thể. Golanale là một trong những nhà lãnh-tụ được kính nể nhất của phong-trào quốc gia Ấn, một nhà trí thức rất thông minh, nổi tiếng là có con mắt biết xét người. Ở Nam-phi, sau khi tiếp-xúc với đủ mọi nhân vật Âu và Ấn, Golanale gặp các tướng Smuts và Botha, hai yếu nhân của chính-phủ Liên-hiệp Nam-phi. Cuộc thảo-luận kéo dài 2 giờ liền. Trở về trại, Golanale báo cho Cam-Địa biết rằng hai nhân vật nói trên đã hứa sẽ hủy bỏ đạo luật kiểm soát người Ấn di-cư vào Nam-phi, và món thuế ba bảng hằng năm đánh vào các người Ấn mãn hạn đi phu muốn ở lại Nam-phi. Và ông khuyên Cam-Địa nên trở về Ấn, sau khi được mãn-nguyện trong các điều yêu-sách của mình. Nhưng Cam-Địa trả lời rằng ông đã hiểu rõ những mánh-khóe của hai nhân vật nói trên hơn ai hết. Những việc xẩy ra sau đây cho ta biết rằng Cam-Địa đã không nhầm về những lời hứa-hẹn của chính-phủ Nam phi.
Tháng chạp năm ấy, trong một bài diễn-văn đọc ở tòa Thị-Sảnh Bombay, Golanale nói rằng Cam-Địa có một sức mạnh thần bí để biến mọi người cạnh mình thành những kẻ sẵn sàng hiến thân cho đại nghĩa. Ông còn nhận thấy cái cá nhân của Cam-Địa thanh cao đến nỗi đứng trước con người ấy, không ai không thấy tự thẹn là còn mang một ý tưởng thấp kém nào trong óc.
Đúng như lời Cam-Địa tiên đoán, tướng Smuts không chịu bãi bỏ những luật-lệ đàn-áp người Ấn, lấy cớ rằng những người Ấn ở xứ Natal, chủ cũ của bọn phu mãn hạn muốn ở lại Nam-Phi, không bằng lòng bãi bỏ khoản thuế hàng năm đánh vào bọn phu ấy. Các thợ thuyền người Ấn coi thái-độ đó như một sự phản bội đối với những lời Smuts đã hứa cùng giáo-sư Golanale, và họ gia nhập phong trào đề kháng của Cam-Địa nhất quyết tự ý vào tù để phản đối. Cam-Địa cũng giải-tán trại Tolstoi. Đàn bà cùng trẻ con thì trở về trại Phoenix. Còn thanh niên trai tráng thì sửa soạn vào tù.
Ngày 14 tháng 3 năm 1913, Tối-Cao Pháp-viện của xứ Le Cap quyết-định rằng từ nay trong toàn cõi Nam-Phi chỉ có những đám cưới cử hành theo lễ giáo ta mới được coi là hợp-pháp. Như thế có nghĩa rằng các cuộc hôn nhân giữa người Ấn không có giá trị gì, và các phụ-nữ Ấn chỉ là những người vợ theo, không cưới-treo giá-thú, tức là không được hưởng một thứ quyền lợi gì.
Các phụ nữ Ấn liền tham-gia luôn phong-trào đề kháng. Một nhóm tình-nguyện vượt biên-giới, từ xứ Transvaal sang xứ Natal ; để được bắt giam. Và ví dù bọn lính gác biên thùy có làm ngơ không dây với họ thì họ cứ thẳng đường tiến đến các mỏ than của xứ Natal ở Newcastle để hô hào thợ thuyền người Ấn đình công. Đồng thời một nhóm « nữ đồng chí » Ấn kiều ngụ ở Natal lại tiến sang Transvaal không có giấy phép, để cùng được bắt giam với bọn phụ nữ Transvaal.
Bọn phụ-nữ khởi hành từ Natal, khi qua biên-giới thì bị bắt giam. Nhưng rất nhiều người khác ghi tên để tiếp tục theo họ vào tù. Bọn phụ-nữ đi Transvaal thì lọt vào Natal không bị cản trở gì. Họ liền thẳng đường tiến đến Newcastle. Cuộc đình công của các thợ mỏ người Ấn xảy ra liền theo đó ; và rốt cục họ cũng được toại nguyện nghĩa là cùng được bị bắt và xử tù như các chị em khởi hành từ Natal. Cam-Địa tức tốc đi ngay Newcastle. Bấy giờ công-ty mỏ than cắt hết điện nước ở các khu nhà Công-ty dành cho thợ thuyền người Ấn. Cam-Địa khuyên họ trả lại nhà cho Công ty, chỉ đem theo ít quần áo ; chăn chiếu đến ăn ở trên bãi đất bên cạnh nhà hai vợ chồng một người Âu bạn thân Cam-Địa.
Bọn thợ mỏ đình công phải ngủ ngoài trời, nhưng các nhà buôn ở Newcastle giúp cho đồ ăn thức đựng đầy đủ. Không bao lâu, đã có tới 5 ngàn thợ thuyền đình công tụ họp ở Newcastle.
Cam-Địa bắt đầu lo ngại. Làm cách nào tiếp-tế được cho một số người đông như thế? Ông bèn nghĩ đến cách nhờ nhà giam của người da trắng nuôi hộ. Mọi người quyết-định rằng tới một ngày nào đó thì toàn thể sẽ được vượt qua biên-giới xứ Natal vào xứ Transvaal, để được giam. Đàn bà, trẻ con và những người ốm yếu thì sẽ đáp xe hỏa qua biên-giới để cũng được giam cùng.
Ngày 13 tháng 10 thì cuộc hành trình bắt đầu. Mọi người đến được Charleston mà không bị cản trở. Tới Charleston, các nhà buôn người Ấn ở tỉnh đó đã thu xếp sẵn chỗ ăn nằm cho bọn đình công. Cam-Địa hy-vọng rằng chính phủ xứ Natal sẽ bắt giam bọn ông ngay ở Charleston, nhưng ông không được toại nguyện, vì các nhà chức trách im lìm như không. Bởi vậy, ông đành phải ra lệnh cho mọi người vượt qua biên-giới sang xứ Transvaal. Ông nói rằng nếu chính phủ Transvaal cũng không ra lệnh bắt giam bọn ông, thì cuộc lữ hành không biết còn kéo dài tới bao giờ, và trong thời gian ấy lấy đâu mà tiếp-tế lương-thực cho hàng mấy nghìn người một lúc.
Bọn Cam-Địa vượt qua biên giới một cách ổn-thỏa. Bọn lính gác biên thùy xứ Transvaal có mặt, song họ không can-thiệp, vì hình như đã được lệnh từ trước. Nhưng khi đoàn người tới Palmford cách biên giới độ 8 cây số thì một người lính tuần cảnh xách đèn đến tìm Cam-Địa: « Tôi được lệnh bắt ông – người đó nói một cách lễ-phép – Vậy xin mời ông theo tôi ».
Cam-Địa hỏi: « Ông định đưa tôi đến đâu? »
Ông đáp: « Ra ga, để chờ tầu về Volkorruot ».
Lúc bấy giờ mọi người đã cắm trại để nghỉ đêm. Cam-Địa liền đánh thức P.K.Naidou, một người cộng sự tin cẩn và trao cho ông này nhiệm-vụ hướng-dẫn đoàn người tới trại Tolstoi. Rồi ông theo người lính tuần cảnh tới Volkorruot để ra trước Tòa-án. Tuy nhiên, ông được ra ngay, vì Kallenbach đã đóng một số tiền ký quỹ cho ông được tạm tha. Không phải Cam-Địa không chịu vào tù, song vì ông nhận thấy lúc này ông đang có bổn phận phải trông nom cho đoàn người đang nương dựa vào ông, nên ông không muốn vắng mặt ngày nào bên cạnh các đồng bạn. Kellenbach đã chờ ông ở cửa Tòa án với một chiếc xe hơi, và dẫn ông đuổi kịp đoàn người đang tiến trên con đường đưa tới trại Tolstoi.
Sáng hôm sau, mọi người vừa dừng bước ở Standerton, và Cam-Địa đang phân-phát lương thực cho các bạn, thì nhân-viên cảnh-sát lại đến bắt ông giải tòa. Lần này ông cũng được tạm tha, nhờ ở một số tiền ký quỹ khác. Nhưng 5 người trong bọn cộng sự với ông thì bị giam giữ.
Hai ngày sau, Cam-Địa cùng Potale dẫn đầu bọn lữ-hành trên con đường thiên-lý, thì một chiếc xe hơi đỗ ngang ông, và trên xe bước xuống một viên cảnh sát ra lệnh bắt ông phải đi theo. Lần này là lần thứ ba, trong 4 hôm, ông bị bắt.
Đoàn người lại lầm-lũi thẳng tiến trên đường.
Ngày mồng 10, tới Balfour, thì họ đã thấy ba chiếc tầu riêng chờ sẵn ở ga để đưa họ trở về Natal. Thoạt tiên, họ kháng-cự không chịu lên tầu: nhưng mãi sau, nhờ ở sự dỗ dành khuyên nhủ của mấy người lãnh tụ như Potale, Ahmad, Kachhalia, họ mới chịu để cho cảnh sát dồn lên các toa xe hỏa.
Sau đấy thì Potale bị bắt ngay. Vào ngục ông đã thấy Kallenbach bị giam từ trước.
Ngày 14, Cam-Địa ra tòa. Ông nhận hết các tội. Nhưng phải có lời khai của các chứng nhân thì tòa mới phạt tù ông được. Ông liền dẫn ra hai bạn là Kallenbach và Potale để khai buộc tội ông. Bởi thế dù không muốn, Tòa cũng phải xử phạt tù ông ba tháng.
Nhưng bọn người đồng hành với ông thì không được cái may mắn bị bỏ tù như ông. Họ bị giao trả về nơi hầm mỏ họ làm việc. Tuy nhiên, họ nhất quyết tiếp-tục cuộc đình công, mặc dầu bọn gác dùng roi vọt hành hạ họ đủ điều.
Nhưng cuộc đàn áp ấy dần dà được lan truyền về Ấn, và gây nên một luồng dư-luận phẫn-uất sôi nổi. Các nhà cầm quyền bắt đầu lo sợ. Lor Hardinge, bấy giờ làm phó vương Ấn-độ, lên tiếng ở Madras, chỉ trích thái-độ của chính-phủ Nam-phi với những lời cực-kỳ nghiêm-khắc. Ông đòi thành lập ngay một ủy ban điều tra để tìm nguyên-nhân vụ đàn-áp ở Nam-phi.
Được ủng-hộ, phong-trào phản-kháng lại càng quật khởi. Cuộc đình công lan rộng ra khởi những mỏ than ở Newcastle. Các chính phủ địa phương cho lính đàn-áp dã-man. Nhiều người Ấn chết và bị thương. Sự phẫn uất lên đến cực độ. 50 ngàn thợ đình công. Dư-luận Ấn kêu gọi sự can-thiệp của chính quốc. Điện-tín trao-đổi giữa Luân-đôn và Ấn-độ như bươm bướm.
Ngày 18 tháng 12 năm 1913, Cam-Địa cùng Kallenbach và Potale được tha. Ông rất lấy làm phiền. Vì ông còn ở tù ngày nào, thì dư-luận còn sôi nổi, và phong trào phản kháng càng được lợi. Bấy giờ, nhờ ở áp-lực của chính phủ Anh cùng Phó-vương Ấn-độ, các nhà cầm quyền Nam-phi đã chịu thiết lập một ủy-ban điều tra. Cùng với sự nhượng bộ này, họ thả luôn Cam-Địa, để tỏ thiện ý đàm-phán, hòng gây cảm-tình của dư-luận thế-giới.
Nhưng Cam-Địa không mắc mưu ấy. Vừa ra khỏi nhà giam, ông liền tuyên-bố ngay không thừa nhận các ủy-ban chỉ định bởi các tướng Botha và Smuts. Ông cho rằng các nhà cầm quyền Nam-phi không thực tâm trong việc điều tra những vụ đàn-áp. Ông không nghi-ngờ lòng vô tư của vị chủ-tịch ủy-ban là Sir William Solomon ; song ông tố-cáo hai nhân viên khác của ủy-ban có ác ý với người Ấn, nhất là đại-tá J. S. Wylie người đã xúi-giục và khích-động dân chúng dùng bạo lực đánh đuổi các kiều dân Ấn năm 1897, ở Durban. Ông lại nhắc rằng chính viên đại-tá này đã công nhiên tán thành lời của một người trong đám biểu tình hứa sẵn sàng xuất một tháng lương của mình để thưởng cho kẻ nào bắn chết một người Ấn.
Ba ngày sau khi được tha, Cam-Địa dự một cuộc mít-tinh ở Durban. Ông đã trút bỏ bộ âu-phục để mặc quốc-phục. Đó là ông để tang những bạn đồng chí bị thiệt mạng trong cuộc đình công của thợ mỏ. Ông lên tiếng khuyên mọi người can đảm tiếp-tục cuộc tranh-đấu để khỏi phụ lòng những người đã hy-sinh tính mạng cho mục-đích chung.
Sau cuộc hội họp ở Durban, Cam-Địa viết thư cho tướng Smuts yêu-cầu thải Esselen và Wylie khỏi ủy-ban điều-tra. Smuts bác lời thỉnh-nguyện. Cam-Địa liền công bố cho mọi người biết rằng đến mồng một tháng giêng 1914, ông sẽ cùng một nhóm đồng chí từ Durban vượt qua biên-giới xứ Natal, để lại vào tù. Ông nói thêm rằng ông không đòi cho người Ấn được tự do di-cư vào Nam phi, và cũng không đòi được ngang quyền lợi với người da trắng ; mục đích cuộc tranh đấu của ông chỉ cốt để thu hồi lại những quyền lợi trước đây đã công nhận cho người Ấn, mà bây giờ lại tước đi một cách bất công.
Vào lúc bấy giờ, các nhân-viên trong ngành hỏa xa của Chính-phủ cũng lại đình công, khiến cho các nhà cầm quyền Nam-phi bối rối không biết khu xử ra sao. Không muốn lợi dụng lúc địch-thủ đang phải đối đầu với tình-trạng khó khăn mà tăng thêm yêu sách, Cam-Địa có một hành-động rất cao thượng là hạ lệnh bãi bỏ cuộc hành trình dự định ngày mồng 1 tháng giêng năm 1914. Ông muốn cho địch-thủ phải tự mình nhận thấy điều lỗi mà hối cải, chứ ông không thèm lợi dụng lúc họ khốn quẫn mà ép buộc họ ký kết.
Thái độ đó làm cho dư-luận thế-giới rất khâm phục. Từ Anh, từ Ấn, rất nhiều điện tín đánh đến Nam-phi để khen Cam-Địa.
Smuts mặc dầu rất bận rộn về cuộc bãi công trong ngành hỏa-xa cũng mời Cam-Địa đến thảo luận. Thế là một lần nữa, chính-phủ Nam-phi lại phải công nhận nguyên-tắc điều-đình với người Ấn. Ngoài ra đặc phái viên của phó vương Ấn-độ là Sir Benjamin Robertson cũng vừa từ Ấn cấp-tốc tới để dàn xếp đôi bên, kẻo dư-luận bên Ấn mỗi ngày một sôi nổi, làm cho người Anh rất lo ngại.
Cuộc điều-đình nhờ đó mà dễ dàng thêm nhiều. Tuy nhiên, mãi đến ngày 30 tháng 6 năm 1914, hai bên mới đi tới chỗ thỏa-thuận. Và đến tháng bẩy thì một đạo luật mới được quốc-hội Nam-phi ban-bố, chỉ-định sự giao-thiệp giữa người Ấn và người Nam-phi. Đạo luật nhấn mạnh đến mấy điểm quan trọng sau đây:
1) Các cuộc hôn nhân giữa người Ấn, người Hồi và người Parsi đều hợp pháp.
2) Khoản thuế thường-niên 3 bảng đánh vào những người thợ Ấn mãn hạn giao-kèo muốn ở lại Nam phi, nay bãi bỏ.
3) Từ 1920, thì thợ Ấn sẽ thôi không di-cư vào Nam-phi.
4) Kiều dân Ấn ở Nam-phi không được tự do đi từ xứ này sang xứ khác. Nhưng người Ấn nào đẻ ở Nam-phi thì có thể tự do vào xứ Le Cap.
Sau khi đã được toại-nguyện, Cam-Địa cùng vợ từ giã xứ Nam-Phi. Ngày 18 tháng 7 năm ấy, ông đáp tầu sang Anh. Ông vận âu phục, dáng-điệu có vẻ mỏi và tư-lự, song không thiếu phần cao quý. Bà Kastourbai vận bộ áo sari mầu trắng thêu hoa. Trông bà mảnh-dẻ yếu đuối, song nhan-sắc thực là lộng-lẫy. Bấy giờ hai ông bà đều trên dưới 45 tuổi.
Trước khi từ biệt Nam-Phi, Cam-Địa nhờ Potale gửi biếu tướng Smuts một đôi dép cói chính tay ông bện lấy trong những ngày dài giằng-dặc bị giam cầm ở nhà ngục Nam-Phi. Tướng Smuts trân-trọng giữ gìn vật biếu đó cho mãi đến năm 1939, nhân ngày lễ thọ thất tuần Cam-Địa, ông bèn gửi biếu lại kẻ địch cũ. Vào dịp ấy, ông viết rằng:
« Những người như thánh Cam-Địa đã chuộc lại tất cả những điều lỗi lầm ti-tiện của chúng ta, và luôn luôn nhắc-nhở chúng ta đừng bao giờ quên làm điều thiện ».
Nói về đôi dép cói mà Thánh đã biếu ông, tướng Smuts viết:
« Mặc dầu tôi mang đôi dép ấy đã mấy mươi năm ròng, tôi vẫn băn-khoăn với ý nghĩ không biết có xứng đáng được xỏ chân vào đôi dép của bậc cao nhân hiền-triết đó không? »
Suy ngẫm về cuộc tranh-đấu của Cam-Địa tại Nam-phi, chúng ta thấy rằng phần lớn sức mạnh của ông là do nơi ông biết làm thức tỉnh những linh tính tốt ở con người mà ông chống lại. Ông khuất-phục được tướng Smuts, không phải là vì Smuts không có sức mạnh chống lại ông, mà là vì Smuts không có lòng nào chống lại một người đầy đức tính cao-thượng vị-tha như ông.