← Quay lại trang sách

Chương 10 NHỮNG NGÀY Ở ẤN--

HAI ngày trước khi Cam-Địa cùng bà vợ và Kallenbach đặt chân lên đất Anh, thì cuộc chiến-tranh 1914-1918 bùng nổ. Cam-Địa liền họp một đội cứu thương tình-nguyện đầu quân trong hàng ngũ Anh. Hơn tám chục sinh viên Ấn lúc ấy đang theo học ở Anh cũng đầu quân theo Cam-Địa.

Cuộc chiến-tranh xẩy ra làm ông rất buồn phiền, vì nỗi ông phải tham-gia cuộc chiến-đấu – dù là ông không cầm súng – một điều mà ông không muốn. Ông thường nói:

''Chẳng cứ gì phải bắn giết mới là phạm lỗi. Ngay giúp đỡ việc săn sóc những người bị thương trên trận tuyến cũng là trái đạo rồi, vì như thế tức là tham dự cuộc chiến-tranh''.

Bạn hữu ông lấy làm lạ là đã thế tại sao ông còn tình nguyện đầu quân?

'' Vì '' – ông trả lời – '' Tôi sống dưới sự bảo-hộ của nước Anh. Ngay chính tôi cũng còn không hành-động gì để phá nước Anh, thì vì lẽ gì tôi lại mong cho nước Anh bị hủy diệt?''

Ông lại luận-lý rằng lúc bình thời bạn đã hợp tác với người Anh, thì lương tâm bạn không cho phép bạn phản bội người Anh trong cơn nguy khốn. Tại sao trước kia bạn lại đóng thuế cho người Anh để họ có tiền đúc súng đạn mà đánh nhau? Tại sao trước bạn vẫn răm rắp tuân theo luật lệ của những kẻ chỉ nuôi dưỡng sức mạnh để gây hấn? Nếu bạn có can-đảm bất hợp-tác với người Anh từ trước, thì bây giờ bạn mới có quyền phó mặc người Anh với số phận họ. Nếu không thì bạn có bổn phận phải giúp đỡ họ trong lúc nguy nan.

Đầu năm 1915, Cam-Địa mắc bệnh sưng màng phổi phải trở về Ấn để tĩnh-dưỡng. Ông cùng bà vợ tới Bombay ngày mồng 9 tháng giêng.

Tại Ấn, ông in cuốn sách đầu tiên là cuốn Hind Swarai. Sách đó nhắc lại những cuộc tranh-luận giữa Cam-Địa và bọn người quốc-gia Ấn ở Luân-đôn. Ông thường nói rằng:

''Nếu chúng ta đối xử với người Anh một cách công-bằng và hợp lý, thì ngày giải-phóng nước Ấn chúng ta càng sớm đến. Trái lại, nếu ta coi họ như thù-nghịch, thì ngày đó chưa biết bao giờ''.

Cam-Địa lại viết:

« Một số người Anh cho rằng họ đã chinh phục được nước Ấn làm thuộc địa, và họ có quyền dùng võ lực bảo vệ quyền lợi của họ trên đất Ấn. Nói như thế là sai. Không thể dùng võ lực mà giữ được đất Ấn trong quyền sở-hữu của mình. Ai giữ đất Ấn trong tay người Anh? Chính là chúng ta vậy. Chúng ta thích những sự tiện lợi của nền văn-minh máy móc người Anh đem đến. Chúng ta ham lợi mà buôn bán với họ. Chúng ta tranh dành cãi cọ nhau, khiến họ có thể lợi dụng được tình trạng chia rẽ ấy. Cái gì đã giữ nước Ấn trong vòng nô-lệ ngoại bang? Đó là tính uỷ-mị của các bạn không thể thoát ly được những quyến rũ của nền văn-minh hiện tại ».

Cũng có nhiều người không đồng ý với Cam-Địa về sự tai hại nền văn-minh máy móc. Trong cuốn Hind Swarai có mấy đoạn kể lại những cuộc tranh luận giữa họ và Cam-Địa. Thí dụ năm 1924 có người hỏi phải chăng Cam-Địa kết án tất cả mọi máy móc không phân biệt? Ông trả lời:

« Không khi nào! Vì chính ngay thân thể của chúng ta chẳng là một thứ máy móc với những bộ phận tinh vi đó sao? Cái guồng quay tơ cũng là một cái máy tinh xảo. Tôi không bao giờ phản đối máy móc. Tôi chỉ phản đối cách người ta sử dụng máy móc bây giờ mà thôi. Chẳng hạn, bây giờ nhiều máy móc chỉ có công dụng là làm lợi khí giúp cho một số ít tư bản làm giầu trên lưng hàng triệu đồng bào khốn khổ của họ mà thôi. Ngoài trường hợp đó, thiếu gì máy móc có ích lợi cho ta. Nhưng mà muốn làm được những chiếc máy nhỏ đó, cần phải có những nhà máy lớn. Lẽ dĩ nhiên tôi rất thích những nhà máy đó, vì nó làm ra những đồ vật có ích ».

Xem như thế thì rõ Cam-Địa không phải là kẻ thù của toàn thể các máy móc. Ông chỉ nhắc ta hãy nên thận trọng đừng quá tin tưởng ở những sự kỳ diệu của khoa học, kẻo lợi thì ít mà hại thì nhiều, rồi ra có ngày lại như kẻ tập làm phù-thuỷ, làm xổng những sức mạnh tàn phá vô hình, mà chính tay mình thả ra cũng không sao chế-ngự hoặc thu hồi lại được. Cam-Địa chỉ ưa chuộng máy móc khi nào máy móc là thứ đồ dùng để phụng sự thể chất, để cho đời sống vật chất được dễ-dàng tiện-lợi hơn. Còn nếu để cho ảnh hưởng của máy móc chi phối cả đến đời sống tinh thần, thì đó thực là một sự dại dột rất đáng chê trách. Vì thế nên ông tự kiêu là những dân-tộc Đông-phương có một nền văn-minh thuần tuý hơn nền văn-minh Thái-Tây. Ông không cho là người Anh và người Ấn không thể sống chung với nhau được:

« Việc gì phải đuổi họ khỏi đất Ấn? Ở với chúng ta, họ có lợi. Họ hấp thụ dần được đạo sống thanh cao mà nền giáo-lý Đông-phương khuyên dạy ».

Người ta bẻ ông: « Điều đó chưa bao giờ thực-hiện được trong lịch-sử nhân-loại ».

Ông trả lời: « Nếu vì chưa bao giờ thấy thực-hiện một điều trong lịch-sử mà bảo rằng điều đó không thể nào thực hiện được, thì thực là quá khinh giá-trị của con người ».

Nhiều người không thể hiểu được ý-nghĩa sự độc-lập mà Cam-Địa mong muốn. Họ cho là muốn dành độc-lập, phải đánh đuổi kẻ ngoại địch ngự-trị trên đất mình.

Cam-Địa bẻ rằng: « Nếu bảo là dân-tộc kia được sống sung-sướng, chỉ vì họ tự cai trị lấy nhau, thì thực là nói mò ».

Có sự gì thay đổi trong đời sống của người dân, nếu kẻ cầm-quyền người bản-quốc cũng có thái-độ áp-bức chẳng khác người ngoại-quốc trước kia?

Tuy không tán thành nền văn-minh Thái Tây, Cam-Địa cũng không ruồng bỏ hẳn mọi sản phẩm của nền văn-minh ấy.

Trong một bữa tiệc ở Madras, tháng 4 năm 1915 ông hô hào ủng-hộ phong trào đầu quân giúp Anh đánh Đức. Ông khen ngợi lòng yêu chuộng tự do của người Anh. Ông nhận rằng trong đế quốc Anh, người dân nào cũng có quyền được hoạt động trong một phạm-vi rộng rãi theo quan-điểm và lý-tưởng riêng của mình. Bài diễn văn đó không được dư luận tán thưởng. Từ trước, trong con mắt người dân Ấn, Cam-Địa vẫn được coi là vị anh hùng đã dẫn đầu cuộc tranh đấu ở Nam-Phi, đã chế ngự được tướng Smuts, kẻ thù của dân Ấn. Những người ái-quốc Ấn đều hy-vọng ở ông một nhà lãnh-tụ tương lai của phong-trào giải-phóng. Nhất là từ khi giáo sư Gohhale chết, thì cả nước đều hướng về ông. Thái độ dè dặt của ông làm họ thất vọng.

Vậy mà chính Cam-Địa sau này lại là người lãnh đạo cho phong-trào độc-lập ở Ấn.

Đó là chuyện sau. Hãy nói bây giờ thì gia-đình Cam-Địa cùng nhiều gia-đình các bạn đồng chí của ông, đã rời khỏi Nam-phi về Ấn. Nhóm đồng chí trước kia ở Phoenix, bây giờ tụ họp ở Chantinikétan, tại một trường học xứ Bengale, thuộc miền đông Ấn-độ. Trường đó có đặc điểm là được nâng đỡ bởi nhà thi sĩ Rabindranath Tagore, người đã giật giải Nobel về văn thơ năm 1913.

Cam-Địa và Tagore sống cùng một thời, và cùng là những người chủ-xướng phong-trào phục-hưng Ấn-độ hồi đầu thế thứ 20. Nhưng Cam-Địa là đồng lúa phì nhiêu, mà Tagore là vườn hồng sáng-lạn. Cam-Địa là bàn tay xây dựng, mà Tagore là người ca ngợi trước năm châu những sự kỳ-ảo của nền văn-hoá Ấn. Cam-Địa gầy bé quắt queo, vì thân thể bị đoạ-đầy bởi những tuần chay liên-tiếp. Trái lại, Tagore, thì yêu chuộng sự xa-hoa và có dáng-điệu phong-nhã hào hùng của một nhà thơ quý-phái. Nhưng cả hai đều cùng nhau thông cảm bởi một lòng yêu nước và một lòng nhân ái sâu xa. Tagore đã khóc mà ví tổ quốc như một kẻ đi tìm ở những đống rác-rưởi các nước vất ra, một vài thức đồ đáng cứu-vãn khỏi sự mục-nát dơ-bẩn. Và ông cầu-nguyện cho tất cả các dân-tộc trên thế-giới này hoà-hợp với nhau trong một tình thương vô tận.

Tagore và Cam-Địa, hai bậc vĩ-nhân của Ấn-độ trong nửa thế kỷ đầu ngày nay, đối với nhau bao giờ cũng một lòng sùng-kính. Chính Tagore là người đầu tiên suy-tôn Cam-Địa làm Thánh (Mahâtmâ). Ông nói: « Đó là một tâm hồn cao-thượng ẩn trong manh áo rách ». Cam-Địa thì tôn Tagore là « người chiến-sĩ tiền-phong ». Nhưng hai ông vẫn thường đối-lập nhau ráo-riết trên trường tranh-luận. Cam-Địa muốn dùng quá-khứ để xây-dựng tương-lai. Theo ông, các tôn-giáo, các thần-thoại đều là những gia-tài quý-báu của một thủa xưa thuần-tuý. Ông thường suy-luận ở đấy mà tìm đường lối hành-động cho tương-lai. Trái lại, Tagore say-sưa với hiện-tại. Ông ưa thích những tư-tưởng mới lạ của Tây-phương. Ông ham chuộng những tiện nghi của nền văn-minh cơ-khí. Cam-Địa tằn-tiện dè-sẻn. Tagore hoang-phí xa-hoa. Trong một bức thư viết cho Tagore, Cam-Địa đòi hỏi cho « trăm triệu sinh-linh đang sống quằn-quại trong đau khổ, những lời thơ rắn-rỏi mang lại cho họ sức sống và niềm hy-vọng ». Nhưng lời thơ của Tagore chỉ là một điệu nhạc trầm bổng du-dương. Ở Chantinikétan, môn đệ của nhà thơ hàng ngày chỉ múa hát và hái hoa để cho cuộc đời thêm tươi đẹp.

Trong khi ấy thì Cam-Địa đang chú ý tìm một nơi nào khuất-tịch, thích hợp cho sự làm việc, để đem gia-đình cùng những người cộng-sự thân tín về ở cùng. Bấy giờ ông cũng không có trụ sở nhất định để đặt văn phòng thầy kiện. Nay đây mai đó, ông thường vắng mặt ở gia-đình. Một ngày kia, có người ngoại quốc hỏi ông: « Gia-đình vẫn mạnh? » Ông trả lời: « Tất cả người Ấn đều là gia-đình tôi ».

Sau ông tìm được một khoảng đất ở bờ sông Sabarmeti, ngay bên kia thành phố Ahmédabad. Chính ở trên bãi cát lầy ẩm đó, giữa những người nghèo khó ở chui rúc chốn ngoại-ô, Cam-Địa luyện dần sức mạnh của tâm hồn để trở nên người lãnh-đạo tối cao của dân-tộc Ấn.

Thành phố Ahmédabad là một thành phố giầu về kỹ-nghệ dệt. Gần đó lại có hải-cảng Bombay trù-phú.

Các nhà kỹ-nghệ giúp Cam-Địa tiền để lấy khu nhà Satyagraha Ashram làm nơi truyền giáo.

Cam-Địa ở một gian phòng kích thước chỉ vừa bằng một buồng giam. Chỉ có một chiếc cửa sổ nhỏ ở tít trên cao, trông xuống một cái sân thượng nhỏ. Ngoài những năm tù, Cam-Địa tự hãm mình trong căn phòng đó cả thẩy 16 năm trường. Ông còn tự hành hạ mình hơn nữa. Ban ngày nắng hè thiêu đốt thì ông khiêng bàn ra giữa sân làm việc. Những đêm lạnh lẽo nhất ông cũng ngủ ngoài trời.

Tự hãm mình như thế, Cam-Địa đã theo gương những thầy tu đời cổ. Những người này, khi đã lập lời nguyền thì tìm đến một nơi xa hẻo lánh, ngày ngày ngồi trầm-tư mặc-tưởng, và tìm đủ mọi cách hành hạ thể xác để chóng đến ngày siêu thoát. Nhưng khác với các thầy tu thời cổ, Cam-Địa không tự huỷ hoại thân thể để tìm cái chết, Ông hành hạ thể xác để tinh thần được mạnh mẽ hơn. Vả lại ông cần sống để thực-hiện cái công cuộc vĩ đại ông đang theo đuổi là giải-phóng tổ-quốc. Vì thế, nên ông cho phép các môn đệ nắn bóp thân thể ; Ông ăn ngủ điều hoà, ông đi lại để gân cốt được co dãn. Suốt đời không bao giờ ông ốm đau nặng. Nếu không phải là người có sức khỏe dẻo dai như ông, thì không thể nào tuyệt thực luôn để yêu sách như ông, mà không hề bị ảnh hưởng đến cơ-thể. Ông đã sống đến 78 tuổi, mà vẫn giữ được trí óc minh mẫn và sức làm việc bền bỉ như hồi còn trẻ.

Một bức ảnh chụp hồi bấy giờ cho ta thấy ông ngồi trên một cái bục cao, đang diễn thuyết trước một cử tọa người Ấn phần nhiều vận âu-phục. Ông để mình trần, chỉ quấn một chiếc phá bằng vải trắng. Ông vẫn thường khuyên các môn đệ bắt chước mình ở trần như thế ; sẽ lấy được lòng tin của dân quê dễ dàng hơn là những bộ âu phục sang-trọng.

Nhưng bọn người nghe ông hồi ấy có bao giờ nghĩ đến dân quê? Họ chỉ chăm lo làm sao thuyết phục được cho người Anh huỷ bỏ chế-độ thuộc địa hay ít nhất cũng nới rộng chế-độ đó phần nào. Mà giao-thiệp với người Anh, thì phải ăn mặc sao cho nền-mã, phải nói tiếng Anh cho thạo, viết tiếng Anh cho chỉnh. Vậy mà Cam-Địa lại khuyên họ ở trần, bỏ tiếng Anh để học nói thổ-âm. Theo Cam-Địa phong-trào giải-phóng phải lấy nơi thôn dã làm căn bản. Vì hơn 90 phần trăm người Ấn là dân quê. Nếu không làm cho họ thoát sự tối tăm ngu độn, lười biếng, thì ví dù có giải phóng được họ khỏi cùm xích người Anh cũng là vô ích mà thôi. Liệu sau khi người Anh đi khỏi Ấn-độ, thì số phận năm sáu mươi triệu người bần-cố có thay đổi gì không, hay là họ vẫn bị các giai cấp khác ghét và xua đuổi như thường? Phong-trào giải-phóng có mục đích nào cao hơn là chỉ chăm lo thay thế người Ấn vào người Anh ở những chức vị hữu quyền?

Ảnh-hưởng những lối giảng dạy của Cam-Địa thực là to tát. Mọi người dần dần mở mắt. Họ không còn tiếc nhớ những thời oanh liệt xưa kia của tổ-quốc. Họ tranh đấu trong thực tại. Nhờ Cam-Địa, họ tin-tưởng ở sức mạnh của dân tộc. Cam-Địa nói cho họ biết rằng không phải bây giờ là lần đầu tổ quốc bị chà đạp dưới gót ngoại bang. Tự nghìn xưa, dân tộc Ấn đã bị chinh phục nhiều lần, xong lần nào kẻ xâm lăng cũng bị thu hút và đồng hoá bởi sức sống mãnh liệt, và những đức tính vững bền của người Ấn.

Cam-Địa cũng không tán thành một cuộc cách mạng bằng võ lực. Song ông còn đi xa hơn nữa ông không chịu hợp-tác với người Anh. Ông không muốn cho Tổ-quốc phải hỏi gì ở người Tây-phương. Ông không cần hưởng những xây dựng người Anh đã thực hiện được cho nước ông. Ông chủ trương tái tạo đời sống tinh thần của dân-tộc trước đã. Khi ấy, trước cái giá trị không thể chối cãi của những người đứng lên đòi lại những quyền lợi tối cao của mình, người ngoại quốc không vì lẽ gì mà từ chối không trả.