← Quay lại trang sách

Chương 11 -NHỮNG ĐỨA CON YÊU CỦA THƯỢNG-ĐẾ-

YASUAHARLAL Nehrou nói rằng nước Ấn-độ là cả một sự pha trộn giữa những cái gì cao quý nhất và những cái gì ghê tởm nhất. Những cái gì ghê tởm đây chỉ những người bần cố ở giai cấp hạ tiện nhất trong bậc thang xã-hội Ấn.

Trong đời tranh đấu của Cam-Địa, ông đã tốn bao nhiêu tâm cơ để xoá nhòa trong trí óc đồng bào ông, cái thành-kiến bất công của xã-hội đối với những kẻ chỉ đáng thương chứ không đáng bỉ.

Từ đâu có sự phân chia giữa các hạng người, trong xã-hội Ấn? Ta phải cắt nghĩa bằng lịch-sử. Sáu bẩy nghìn năm về trước, ở vùng Caucase, giữa biển Caspienne và Hắc hải, vẫn có một dân tộc gọi là người Aryens. Hai ba nghìn năm trước Thiên-chúa Giáng-sinh, một chi nhánh của dân tộc đó tràn về phía Nam và dừng lại ở phía Bắc Ấn-độ. Sự phân chia giai cấp giữa kẻ thắng và kẻ bại đã có từ đó. Người Aryens tự phụ về mầu da trắng của mình nên khinh rẻ những thổ-dân có mầu da sẫm. Họ dùng thổ-dân để làm những công việc nhọc như cầy ruộng, chăm nom gia-súc. Ngoài giai-cấp chủ và giai-cấp đầy tớ, còn giai cấp những nông dân tự do Vaisylas và giai-cấp thợ thuyền lao-động gọi là gia-cấp Sondras.

Nhưng chính người Aryens với nhau cũng dần dần phân biệt kẻ sang người hèn.

Trước hết, một bên là vua và quần-thần, cùng tướng sĩ, binh-lính, và gia-đình họ họp thành giai-cấp những người Kchatryias hay là giai cấp chiến-sĩ ; một bên là các thầy tu, chuyên về việc cúng lễ, giảng đạo, viết kinh đó là giai-cấp Brahmanes. Thoạt tiên thì người Brahmanes phải phụng-sự người Kchatryias. Nhưng về sau nhờ sức mạnh của tôn giáo, và của trí-tuệ, họ đã vượt người Kchatryias mà trở nên giai-cấp thượng đẳng của xã-hội Ấn.

Một lý do khác của sự phân chia đẳng-cấp giữa người Aryens với nhau là ảnh hưởng những cuộc hôn nhân giữa người Aryens và thổ dân. Do sự phối hợp ấy, nẩy nở một nòi giống mới.

Tuỳ theo phong tục từng nơi, bọn lai này được chấp nhận vào giai-cấp thượng đẳng hay bị liệt xuống những giai cấp dưới. Cũng có nơi, không giai cấp nào chịu nhận họ, thành ra có tới hàng triệu người Ấn sống bấp-bênh, không bấu víu vào hệ thống xã-hội nào.

Khi bọn người chinh phục đến thì một số đông thổ-dân trốn tránh lên núi hay vào rừng sâu. Đến khi người Aryens đã an tọa ở những làng mạc họ xây dựng nên hay là chiếm-đoạt được, thì thổ-dân mới dám mon men về bán cho họ những giỏ đan hoặc một vài thứ đồ dùng khác. Lâu dần, người Aryens sai phái họ làm những việc nặng nhọc bẩn thỉu không ai muốn mó tay vào, như chôn cất người chết, vứt bỏ những xác súc vật, cùng dọn-dẹp chuồng nuôi súc vật, lau cọ nhà tiêu, v.v… Do đó, nẩy sinh một giai-cấp hạ tầng, là giai-cấp những người bần-cố.

Muốn thoát khỏi số phận dành cho mình, người tiện dân chỉ có cách là cải giáo mà theo đạo Gia-tô hay đạo Hồi-Hồi. Tuy nhiên, chỉ có ít người theo phương sách đó, còn thì đa số, vào khoảng năm sáu mươi triệu người thích ở lại giai-cấp của mình, mặc dầu bị khinh rẻ và xua đuổi như những kẻ mắc bệnh dịch tễ. Tại sao?

Vì họ tin tưởng rằng cuộc đời khổ nhục họ đang sống chỉ là một hình phạt họ phải chịu, để chuộc lại những ngày lầm lỗi họ đã phạm trong kiếp sống trước của tiền nhân. Nếu họ can đảm chịu đựng thì kiếp sau họ sẽ được thác sinh vào một giai-cấp cao hơn. Trái lại, nếu họ trốn tránh thì sau này có thể bị đầu thai làm súc vật. Ý nghĩ ấy khiến họ nhẫn nhục cam chịu số phận, và cũng bởi thế họ vẫn tồn tại cho tới ngày nay.

Thế nào là một kẻ tiện dân? Họ không được đụng vào một vật gì mà một người ở giai-cấp trên đã cầm đến. Vì thế mà họ không được đặt gót tới những đền đài, nhà cửa cho chí đến cả những cửa hiệu của người Ấn. Trong mỗi làng, người ta dành cho bọn tiện dân khu đất nào thấp nhất và bẩn thỉu nhất. Ở các thành phố, họ bị dồn vào một khu riêng biệt có tường vây kín. Người Ấn nào không may mà chạm phải một kẻ tiện dân thì thế nào cũng phải tắm rửa, chay tịnh và làm lễ tẩy uế. Nhiều nơi người ta sợ cả đến cái bóng người tiện dân in trên mặt đường. Họ tin rằng chạm vào cái bóng đó cũng bị nhơ-nhớp chẳng khác gì va phải một tiện dân bằng xương bằng thịt.

Cam-Địa cố gắng chống lại những thành kiến bất công đó.

Tháng 5 năm 1918, ông tới dự một cuộc mít-tinh họp tại Bombay để tìm cách giúp đỡ những người tiện dân cùng khốn. Trước khi lên diễn đàn, ông lớn tiếng nói: « Ở đây có ai thuộc về giai-cấp tiện-dân đến không »? Không ai giơ tay. Ông bèn không nói nữa, vì cho là cuộc hội họp không có ích lợi gì, nếu không có chính vai chủ động tới dự.

Bấy giờ có một gia-đình tiện-dân đến khu nhà Ashram của Cam-Địa xin trú-ngụ. Ông không ngần ngại mà thâu nạp họ.

Một luồng dư luận nổi lên phản đối cử-chỉ ấy.

Những phú thương người Ấn vẫn trợ-cấp cho Cam-Địa cho là sự hiện diện của gia-đình tiện dân ấy trong khu Ashram làm ô-uế cả nơi thánh thất tôn nghiêm. Họ không gửi tiền nữa. Đến cuối tháng thì một môn đệ Cam-Địa giữ chân thủ-quỹ trình với ông rằng tiền đã cạn, và hỏi ông lấy gì để sống tháng sau?

Ông điềm nhiên trả lời: « Thì chúng ta vào sống chung với những người, tiện-dân vậy ».

Một buổi sáng kia, Cam-Địa tiếp một vị khách đến thăm khu truyền giáo của ông bằng xe hơi. Khách hỏi ông có cần tiền chăng? thì ông đáp « Tôi cần lắm ». Khách liền chìa ra một bó bạc lớn, rồi chào ông mà đi. Ông không biết vị khách hảo tâm đó là ai, vì ông nhớ mang máng hình như chỉ gặp khách có một lần tại nơi nào. Cam-Địa đếm được cả thẩy mười ba ngàn roupies. Số tiền đó đã giúp ông nuôi sống các môn đồ đủ ăn một năm ròng.

Nhưng không phải vì đã yên bề tài-chính mà mọi điều phiền nhiễu sẽ chấm dứt đối với Cam-Địa. Các phụ nữ, trong số đó có cả bà Kastourbai, không bằng lòng sống lẫn lộn với kẻ đàn bà tiện dân. Cam-Địa làm cách gì để thuyết phục được bà vợ? Ông hỏi bà rằng liệu một thiếu phụ con nhà dòng dõi như bà có thể vì điều bất hoà ấy mà rỗi chồng trở về sống với bố mẹ đẻ không? Bà đuối lý không thể trả lời được. Vả chăng bây giờ bà không còn giám cãi ông như ngày xưa. Ông đã được suy tôn làm Thánh rồi kia mà. Cho nên bà hậm-hực nhưng không giám tỏ ra, đành nhịn không dám nói gì về cái gia-đình tiện dân ông đón về nữa.

Ít lâu sau, Cam-Địa báo cho mọi người biết là ông đã nhận con bé Lakchmi (con người tiện dân) làm con nuôi. Như thế bà Kastourbai thành ra mẹ một đứa trẻ dòng giống tiện dân vậy. Ông thường nói:

« Tôi không muốn sau khi chết, lại tái sinh làm kiếp khác. Song nếu có phải đầu thai lần nữa, thì tôi ước mong được sinh vào kiếp tiện dân, để được cùng những kẻ khốn khổ ấy chia sẻ nỗi vui buồn, ngõ hầu làm dịu bớt được phần nào cái số phận nặng nề mà thành kiến xã-hội bất công đã dành cho họ, và gắng công tranh-đấu để giải-phóng họ ra khỏi nơi tối-tăm u-ám ».

Người Ấn ở các giai-cấp trên nói đến chữ tiện dân với một niềm khinh-bỉ vô hạn. Cam-Địa cũng lại tự mình nêu gương trước. Để gọi những kẻ tiện dân, ông dùng một danh từ thân mến là « những người con yêu của Thượng-Đế ». Tờ tuần báo ông xuất bản, ông cũng đặt tên « con yêu của Thượng-Đế ». Lâu dần, dân chúng bắt chước ông mà gọi những kẻ trước kia họ khinh bỉ bằng danh-từ luyến-ái ấy.

Nhưng đa số những người quá mang sâu thành kiến phân chia giai-cấp đã hết sức phản-đối tấm lòng nhân-ái của ông đối với những kẻ khốn cùng. Ông đã gặp ở họ những địch thủ gay gắt nhất trên trường tranh-đấu chính-trị về sau. Song hầu hết quảng đại quần chúng, không ai là không luyến-ái con người mà họ tôn sùng như bậc Thánh. Họ đòi ông phải ban phúc cho họ. Họ ngăn đón giữ ông lại để hôn chân ông. Có kẻ nằm rạp xuống đất để cung kính đặt môi lên vết chân để lại trên làn bụi. Họ không còn phẫn-nộ về việc ông đem một gia-đình tiện dân về cung dưỡng nữa. Họ coi con bé Lakchmi như con đẻ ông. Thoạt tiên, đến hầu ông, sau khi về, họ còn làm lễ tẩy uế thân thể, vì sợ bị nhây nhớp bởi sự lân cận với cái gia-đình tiện dân ông nuôi bên cạnh. Về sau, quen dần, họ bỏ cái tục-lệ kỳ quái ấy đi. Và hàng chục ngàn người Ấn ở những giai-cấp sang trọng đã giám đến gần những kẻ tiện dân, trong những bận đến hầu ông, mà không sợ bị lây bẩn ra người. Cuối cùng thì nhiều người theo gương ông nuôi hẳn ngay những kẻ tiện dân trong nhà, để sai phái.

Ngoài ra hoàn-cảnh xã-hội bấy giờ cũng không còn cho phép người ta xa lánh triệt để những kẻ tiện dân nữa.

Nhưng vẫn còn những tâm hồn thiển-cận cố bo-bo giữ vững thành-kiến hẹp hòi. Cho nên Cam-Địa vẫn phải ra công hô-hào, khuyến-dụ cho mọi người hiểu rõ rằng không gì dã-man bằng sự « coi đồng-bào của mình rẻ hơn súc vật ».

Ông kinh tởm thái-độ đó đến nỗi thốt ra rằng: « Nếu quả thực tôn-giáo của chúng ta bắt chúng ta không được coi kẻ tiện dân như người, thì thà rằng tôi ruồng bỏ đạo của tôi ».

Muốn hiểu Cam-Địa phẫn nộ đến bực nào khi thốt ra lời ấy, chúng ta đừng nên quên rằng tôn giáo đối với người Ấn rất là quan-trọng. Tôn giáo của người Ấn ảnh hưởng đến cả mọi cử chỉ thường ngày. Trong nhà, ngoài ruộng, trong các trường học, cho chí đến cả những cửa hàng buôn bán, đâu đâu cũng thấy thần tượng, ban thờ. Các môn học ở nhà trường, sử-ký, địa dư, kinh-tế các ngành văn-hóa đều mang dấu hiệu của tôn giáo cổ truyền. Sự thấm nhuần của tôn giáo đó xâu xa trong dân chúng đến nỗi những cố gắng của các đạo về sau, như Phật-giáo, đạo Djainisme để cải-cách lại sự tin tưởng cổ-truyền, của dân Ấn đều thất bại. Chẳng hạn dù theo đạo Phật, người Ấn vẫn còn làm ngơ cho tục-lệ sát-sinh để tế thần. Có nơi thì ngoài Phật ra, còn thờ đến hàng chục ông Thần khác nhau. Có người không dám giết đến con sâu cái kiến, ngắt đến một nụ hoa, một chiếc lá. Có kẻ lại đem sinh vật vào đền chích huyết cúng Thần. Một nhà triết-học Ấn đã viết rằng:

« Tôn-giáo của chúng ta không có những lễ-nghi nào nhất định, và không có lấy một kinh sách nào có thể dùng làm căn bản ».

Bởi thế, theo Cam-Địa, việc xa lánh bọn tiện dân không phải là một cấm điều bất di dịch. Tại sao người ta không bỏ được tục-lệ ấy? Đạo giáo cổ truyền của chẳng là một tôn-giáo mềm mỏng chế biến được đó sao? Lòng nhân của Cam-Địa không cho phép ông làm ngơ trước sự hành-hạ mà giai-cấp tiện dân phải chịu.

Có người đã nói rằng triết-lý của Ấn-độ-giáo là « Sống » và mặc cho người khác « sống tự do ». Bởi thế, ta mới thấy hiện-tượng lạ lùng là trong xã-hội Ấn, từ ngàn xưa tồn tại cho đến bây giờ, sự cách-biệt hoàn-toàn hai giai-cấp khác nhau. Ngay mỗi giai-cấp cũng thường chia ra nhiều chi-nhánh, và giữa các chi-nhánh, thường truyền đến 1, 5 đời mà không có một sự giao-thiệp nào-chứ đừng nói sự pha trộn hôn nhân.

Nguyện-vọng của Cam-Địa và thế-hệ ông là kết-hợp những khối biệt lập thành một quốc gia thống-nhất.