← Quay lại trang sách

Chương 12 ÁO VẢI NHUỘM MÀU CHÀM-

THÁNG chạp năm 1916, Cam-Địa tới Lucknow để dự đại hội thường niên của Đảng Quốc-hội Ấn. 2301 đảng viên tới họp.

Giữa hai phiên nhóm, một hôm Cam-Địa thấy một kẻ ăn mặc quê mùa tiến tới bảo ông: « Tôi là Raykoumar Choukla, quê ở Champaran. Và tôi muốn trở xứ sở ». Cam-Địa chưa gặp người đó bao giờ, và cũng không biết Champaran ở đâu. Hỏi ra mới rõ, đó là một thị trấn hẻo-lánh xa xôi, ở mãi những ngọn đồi thoải dốc dưới chân núi Hy-mã Lạp-Sơn, gần xứ Népal.

Raykoumar, là một trong những người tá điền lĩnh canh ruộng các điền chủ người Anh lập nghiệp ở tỉnh đó. Nhân đang kháng-cự lại sự áp bức của chủ điền, họ phái Raykoumar tới Lucknow để giãi bày tình cảnh họ trước đại hội toàn quốc Đảng Quốc-Hội. Có người khuyên Raykoumar đến xin Cam-Địa can-thiệp. Anh ta bèn y lời.

Cam-Địa trả lời là hiện nay ông chưa thể nhận giúp y được, vì ông đã định trước nhật-kỳ đi thăm nhiều nơi khác trên đất Ấn. Choakla không chịu rời ông ra, cứ theo gót hết tỉnh này sang tỉnh khác mà năn nỉ cầu xin. Đến lúc Cam-Địa trở về nhà ở gần Ahmédabad thì Choukla cũng theo về. Y kiên-nhẫn chầu chực dưới thềm ông hàng mấy tuần ròng rã.

Y nói: « Tôi không dám xin Thánh giúp ngay, song xin Thánh định cho một nhật kỳ ».

Cảm động vì lòng thành và đức nhẫn-nại của người nông-dân xứ Champaran, ông bảo: « Hiện tại đã hẹn có mặt ở Calcutta ngày ấy tháng ấy, ngươi đến tìm ta ở Calcutta vào khoảng thời gian đó, rồi dẫn ta theo ngươi ».

Mấy tháng qua. Tới kỳ hẹn, Cam-Địa đến Calcutta thì đã thấy Choukla chực sẵn ở nơi ước định. Anh ta chờ Cam-Địa xong xuôi công việc, rồi dẫn ông lên đường đi Patna, kinh-đô xứ Bihar.

Nhưng Cam-Địa muốn qua Mouzzafarpour một thị-trấn ở gần Champaran trước đã, để xem xét tình trạng tại chỗ. Tin ông tới loan-truyền đi khắp vùng. Từ Monzzafarpour, từ Champaran, dân chúng đổ đến như nước để chào mừng ông. Những viên thầy cãi ở Monzzafarpour, đã từng nhiều phen bênh vực cho bọn nông dân ở Champaran trước Tòa-án vội vã trình bầy rành rẽ để ông hay nội dung cuộc tranh chấp giữa bọn tá điền và điền chủ xử Bihar. Họ lại cho ông biết cả những số tiền các nông dân trong vùng đã trả công cho họ.

Cam-Địa trách họ sao lấy công quá nặng đối với những người dân quê nghèo túng. Ông nói:

« Tôi cho rằng từ nay ta đừng nên đem những việc này ra Tòa-án. Tòa không phân xử được đâu. Một khi dân quê đã bị áp bức và đe dọa đến nỗi sợ sệt như bây giờ, thì Tòa-án làm sao bênh-vực nổi họ trước cường quyền được. Chỉ có cách giúp đỡ họ làm cho họ hết sợ hãi mà thôi ».

Bấy giờ phần lớn đất cát cầy cấy được ở Champaran đều đã quân phân thành từng lô thuộc quyền sở-hữu của những điền chủ người Anh đã mua hoặc xin được của nhà nước mà thuê người Ấn làm canh. Các đồn-điền phần nhiều trồng chàm. Các chủ điền bắt buộc những tá điền của họ phải dành ra một diện tích là 15 phần trăm đất để trồng chàm, và phải nộp cho họ tất cả hoa mầu thu được về giống cây này. Sự thỏa thuận giữa hai bên đã được ghi vào những bản giao kèo dài hạn.

Song hồi ấy, được tin người Đức mới tìm ra được một phương-pháp chế thuốc nhuộm chàm hóa học, các chủ điền người Anh thấy trồng chàm không còn lợi nữa, bèn hủy cái khoản trồng chàm trong các bản giao kèo ; song lại bắt ép một cách vô lý những kẻ tá điền vô tội phải trả cho họ một khoản bồi-thường để bù vào số chàm thôi không trồng, tức là thôi không thu nữa.

Một số tá điền người Ấn cũng ưng chịu, vì họ cho là càng may đỡ phải phí đất để trồng một thứ hoa lợi mà họ không được hưởng. Nhưng một số khác nhất định không chịu, và họ nhờ luật-sư binh vực. Đồng thời nhiều người đã trả khoản bồi-thường rồi, nay vỡ lẽ ra sự tráo-trở của người Anh, cũng làm đơn kiện đòi trả lại tiền.

Chính giữa lúc ấy thì Cam-Địa đến Champaran.

Ông muốn nghe đủ mọi tiếng chuông trước khi quyết-định thái-độ. Ông đến thăm viên thư ký của Hiệp-hội các địa chủ người Anh, song viên này không tiếp. Y trả lời là không thể chỉ bảo điều gì có liên quan đến Hiệp-Hội cho một người ở xứ khác đến như Cam-Địa. Ông bèn xin yết-kiến vị ủy-viên người Anh ở tỉnh Tirhout mà lãnh vực thân gồm cả trấn Champaran, song viên chức này chửi rủa ông một cách thô-bỉ, và hạ lệnh cho ông phải rời ngay khỏi Tirhout.

Cam-Địa thản nhiên như không. Ông đi Motihara, tức là tỉnh-lỵ của trấn Champaran, có nhiều viên luật sư đi theo ông. Quần chúng tụ-hội đông đặc sân ga để chào đón ông. Ông ngừng lại tại một tòa nhà trong phố, và tiếp tục các cuộc thăm dò dư-luận, cùng quan sát tình hình. Có người cho ông biết một nông-dân đã bị hành hung dã man ở một làng bên. Ông quyết định đến tận nơi xem xét câu chuyện. Sáng hôm sau, ông cưỡi voi sang làng đó, nhưng chưa đến nơi thì một nhân viên cảnh sát đuổi theo kịp và mời ông lên xe hắn ta quay trở lại. Viên cảnh sát dẫn ông về nhà rồi trao cho ông một công lệnh bắt buộc ông phải rời Motihara ngay tức khắc. Ông điềm nhiên ký nhận, và viết rõ ràng vào phiếu nhận, rằng ông quyết không tuân theo lệnh đó. Bởi thế, ông phải ra tòa ngay sáng hôm sau.

Tin đó khuấy lộn thị-xã Motihara như một chảo dầu sôi. Nông dân các miền quê lân cận kéo đến đông như kiến cỏ. Các phố đen nghịt những người. Họ tự động mà đến. Là dân cư một miền núi hẻm, đường xa, cách biệt với đời sống văn-minh, họ chưa từng đọc báo, và bởi thế cũng không biết cả đến cuộc đắc thắng vinh quang của Cam-Địa ở Nam-phi. Họ chỉ nghe nói là có một vị thánh nhân từ miền Nam lặn lội lên đây để bênh-vực họ, mà đang bị người Anh bắt bớ giam cầm. Lòng ái quốc bỗng nhiên sôi nổi, và muôn người như một, không ai bảo ai, họ cũng tìm đến bên cạnh vị cao nhân mà họ tôn sùng cảm-mến. Bỗng chốc, họ tự thấy trong lòng bừng cháy một nguồn lửa mới-họ ngẩng cao đầu, mắm môi, vỗ ngực. Mắt tung ánh lửa, họ không còn là người dân quê yếu hèn chất-phác, quỳ gối uốn lưng trước roi vọt của kẻ ngoại xâm. Trong khoảnh khắc, họ đã trở lại bản-ngã của con dân một nước tự-do, đã từng mang trong tay gia-tài cổ-kính của một nền văn-minh thuần-túy. Gandhi đã thành công trong dự dịnh của ông, là giúp cho những người miền thôn dã, mà bộ ngực thở hút khí trời trong sạch ít nhất cũng to lớn gấp đôi thân hình bọn chủ điền bét rượu, rũ bỏ được sự sợ hãi vô lý từ trước vẫn làm họ co rúm trước giọng nói nạt nộ và tròng mắt vọ của bọn da trắng tráo-trưng.

Trước đám đông quyết liệt đó, bọn cầm quyền bắt đầu lo sợ. Trong cái biển người xáo động như giông bão đó, họ hiểu rằng tính mạng họ không đầy một dúm. Chỉ còn phương-sách cầu-cứu Cam-Địa giúp đỡ. Đầy một vẻ kẻ cả ông đối đáp với họ một cách ôn tồn lễ phép. Ông nói với đám người biểu tình mấy câu. Tức thì cái biển người đang xôn xao, bỗng im lặng như mặt hồ đứng gió. Rồi họ giải tán rất có trật tự, đâu về nơi đấy.

Các nhà đương-cục địa phương rất phân-vân. Họ đành ra lệnh cho công-tố-viện hoãn việc truy-tố Cam-Địa lại, ý chừng để chờ hỏi ý kiến nhà cầm quyền trung ương.

Cam-Địa cực lực phản-đối việc đình xử ấy. Ông cho công-bố một bản tuyên ngôn, trong đó ông nhận tội bất tuân thượng lệnh, và đòi được đem xử ngay. Ông tuyên bố với tòa án rằng ông đang đứng trong trường hợp bị lôi kéo giữa hai bổn phận tương phản: một đằng thì ông không muốn xâm phạm vào luật-lệ của nhà cầm quyền, e nêu gương xấu cho đồng bào ông, một đằng khác, ông tự nhận thấy có phận sự thiêng liêng phải tiếp-tục cuộc tranh đấu mà lương tâm ông, cũng như lòng yêu nước thương nòi, cùng lòng bác-ái, đã bắt buộc ông phải theo đuổi đến cùng. Bởi thế, ông đành trái lệnh nhà đương cục bắt ông rời khỏi nơi tranh đấu, không phải vì ông khinh-mạn chính-quyền mà chỉ vì ông tuân theo một hiệu-lệnh nghiêm-ngặt hơn mọi luật lệ của loài người, là tiếng nói của lương-tâm. Nhưng đã phạm luật thì ông yêu cầu được trừng trị theo luật pháp, để trọng sự công-bình, và khỏi nêu gương xấu cho người sau.

Tòa án chưa tìm được giải-pháp nào thỏa đáng, bèn ngỏ ý sẵn-sàng hoãn tuyên án cho ông trong hai giờ đồng hồ, nếu ông chịu nộp một khoản tiền ký quỹ. Ông không chịu. Tòa đành thả ông ra vậy. Sau hai giờ nghị luận, Tòa tuyên-bố hoãn đến một ngày chưa định về sau, mới tuyên án. Trong khi chờ đợi, Tòa cho phép Cam-Địa được tự do, không phải câu thúc thân thể.

Bấy giờ những nhà luật sư cùng biện hộ có danh như Rayendra Prasad (sau này làm Tổng thống nước cộng hòa Ấn-độ), Bryi Kichon Babou, Maoulas Mazharoul Houg, v.v… từ Bihar đều tìm đến quây quần tụ họp bên cạnh Cam-Địa để bầy mưu tính kế.

Cam-Địa hỏi họ rằng họ sẽ áp dụng phương sách gì để giải nỗi bất công cho những kẻ tá điền trấn Champaran đang phải chịu. Các luật gia xin hãy họp nhau để thảo luận, rồi sẽ trả lời. Cuộc hợp bàn rất ngắn ngủi. Ai nấy đều đồng ý rằng:

« Cam-Địa là người ngoại cuộc, mà vì tình nhân loại, còn can đảm ngồi tù để bênh vực những dân quê cùng khốn, huống chi chúng ta đây, là những người đã nhận nhiệm-vụ bênh-vực quyền lợi của họ, lại không biết theo Cam-Địa mà tranh-đấu sao? Vậy, không thể hèn nhát bỏ về để trốn tránh phận sự. Chúng ta sẽ cùng vào tù với Cam-Địa, để ủng hộ cho sự tranh đấu của ông ».

Sau đó, cả bọn trở về nhà Cam-Địa, và báo cho ông biết quyết nghị của toàn thể. Ông vui mừng nói: « Thế là chúng ta giải quyết xong việc Champaran rồi! » Đoạn, ông lấy giấy bút, chia cả nhóm ra thành từng đôi một, và ghi sẵn thứ tự mỗi đôi sẽ theo đó mà hành động, mục đích làm cho các nhà cầm quyền bắt buộc phải tống mình vào tù.

Nhưng mấy hôm sau, thì Cam-Địa nhận được giấy của Tòa án báo cho ông biết rằng viên phó Tổng-Trấn tỉnh Bihar đã quyết định xếp việc lôi thôi của ông lại. Vậy ông đã hoàn toàn được trả tự do. Thế là lần đầu tiên phong-trào tranh-đấu bằng sự bất hợp tác đã thắng thế tại Ấn-độ.

Đến tháng sáu, Cam-Địa được triệu đến dinh phó Tổng-Trấn. Trước khi lên đường, ông hội họp các bạn đồng-chí lại để ấn-định chương trình khởi phát phong trào bất hợp-tác, nếu ông bị giữ, không được trở lại.

Cam-Địa được viên phó Tổng-Trấn tiếp kiến cả thẩy bốn lần. Sau những cuộc thảo luận đó, viên quan này lập một ủy-ban điều-tra chính thức để điều tra về trường hợp các tá điền người Ấn. Ủy ban này gồm toàn người Anh, một phần là chủ điền, một phần là viên-chức trong Phủ Tổng-Trấn. Chỉ riêng có Cam-Địa là đại diện độc nhất của quyền lợi người Ấn.

Cuộc điều tra kéo dài gần một năm trời mới kết liễu. Trước những bằng chứng không thể chối cãi, ủy ban phải công nhận là lỗi về phần những nhà địa chủ người Anh. Lẽ dĩ nhiên họ sẽ phải hoàn lại những số tiền họ đã thu một cách bất công của bọn tá điền. Họ lo lắng hỏi Cam-Địa: « Chúng tôi phải trả lại bao nhiêu? »

Theo nguyên-tắc thì phải hoàn y nguyên số thu, chưa kể tiền lời. Song họ đã ngạc nhiên xiết bao, khi thấy Cam-Địa chỉ đòi 50 phần trăm họ xin bớt một nửa, tức là hoàn lại 25 phần trăm số đã thu. Họ càng ngạc nhiên khi thấy Cam-Địa cũng ưng chịu không khó khăn gì. Sau Cam-Địa giải nghĩa rằng đối với người dân quê, sự thắng lợi quan trọng không phải ở chỗ họ lấy được đủ hay thiếu số tiền đã nộp, mà ở chỗ những người thuê họ đã tự hủy hoại cái uy-tín làm chủ của mình. Thực vậy, sự gian lận của bọn chủ đất bị phơi bầy ra ánh sáng, không làm vinh-dự cho họ chút nào. Thêm vào sự xấu-xa đó, bọn chủ còn tỏ ra mình chẳng còn là những ông thánh sống uy-quyền nghiêng trời lệch đất nữa. Từ trước họ vẫn hành-động bất cần cả luật-pháp, thì nay, họ đã phải vào khuôn phép. Người dân quê cảm thấy rằng hãy còn có những tấm lòng bác-ái dù xa-xôi khuất nẻo nơi đâu, mà hễ nghe tiếng kêu thương của những người lâm nạn, cũng tức khắc tìm đến, để ra tay cứu vớt.

Những việc xẩy ra mấy năm sau đã kết thúc một cách hoàn-mỹ công cuộc giải-phóng mà Cam-Địa đã reo mầm ở miền núi Champaran. Có lẽ vì sự khai khẩn không được phát đạt như trước, nên những điền-chủ người Anh đã trả lại đất cho Chính-phủ. Nhà cầm quyền không còn cách gì hơn là lại trả đất cho những chủ cũ của nó, tức là những nông-phu người Ấn.

Giai đoạn Champaran là những khúc quanh quyết-liệt trong đời tranh-đấu của Cam-Địa. Ông đã thấy bản ngã cá-nhân của mình nẩy nở trong sự toàn vẹn của sức mạnh tinh-thần. Ông đã nói:

« Tất cả những công chuyện tôi làm ở Champaran chẳng có chi là lạ. Tôi đã bảo mãi rằng người Anh không thể nào ra lệnh, mà bắt được người Ấn ở trên đất Ấn phải tuân theo ».

Vụ Champaran còn cho ta thấy đường lối tranh-đấu của Cam-Địa đặc-biệt ở chỗ thiết-thực. Ông diễn-thuyết đấy, viết báo, in sách đấy, song mỗi bận tranh-đấu là ông phải thân đứng ngay vào hàng ngũ và số phận của những người ông định bênh-vực. Ông sống đời sống thường ngày của họ. Ông truyền hơi nóng của lòng tin tưởng, óc lạc-quan, chí phấn-đấu của ông cho những trái tim đã khô héo và giá lạnh vì đau khổ dạn-dầy ; và với một lòng kiên-nhẫn vững bền hơn bàn thạch, ông chờ đợi cho đến một ngày kia, sự sống hiện tại làm cho những tâm hồn đã chết từ lâu, bỗng nhiên rung động hồi-sinh, thoạt tiên còn e-ấp như cánh bướm run rẩy trước gió xuân, rồi bừng nở đón rước cuộc đời mới, như một mầm non tràn-trề nhựa sống.

Tuy nhiên, không phải vì thế mà ông bỏ lãng phương diện tinh-thần của công cuộc tranh-đấu. Chúng ta đã thấy trong vụ Champaran ông không chú ý đến số tiền bồi thường, chỉ quan tâm đến ảnh-hưởng của sự đắc thắng trong công cuộc tái-tạo lại bản-ngã người dân quê Ấn-độ. Họ yếu. Ông muốn làm họ khỏe. Họ rụt-rè e-sợ. Ông muốn làm cho họ trở nên những người mới, mạnh dạn, tự do, đầy lòng tự-tin, những người đủ sức mạnh tinh-thần để tự kiềm-chế nổi những bản-ngã yếu mềm của xác thịt, ngõ hầu vượt được những trở ngại lớn lao đó, mà mạnh tiến trên con đường giải-phóng và xây-dựng quốc-gia. Tóm lại, quan-niệm giải-phóng của Cam-Địa xây trên một căn-bản trái ngược hẳn những quan-điểm thông thường của con người luận-lý. Độc-lập là gì? Ai chẳng trả lời là người bản quốc, chứ không phải người ngoại quốc, lãnh trách-nhiệm dìu-dắt dân chúng nước mình. Bởi thế, kết-luận hợp lý nhất là muốn độc-lập phải đánh đuổi kẻ ngoại xâm đang ngự-trị ở chỗ đáng lẽ phải dành cho người bản-quốc. Lầm to. Cam-Địa nói: Lý-luận thế là bỏ quên điểm chính, mà chỉ nói đến điểm phụ. Dựa vào quốc tính người cầm quyền, mà giải nghĩa hai chữ độc-lập, là nhầm sự độc-lập với hình-thức của sự độc-lập. Mà đứng về phương-diện hình-thức nữa, chưa chắc lời giải đó đã đúng. Ở một nước độc tài chẳng hạn liệu có sự độc-lập không? Hay là dân chúng chỉ là những nô-lệ của một nền luật-pháp khắt-khe, ban hành theo ý muốn tối cao của một cá-nhân?

Không! ý nghĩa chân-chính của những danh-từ « giải-phóng » và « độc-lập » không phải như người ta thường nghĩ. Linh hồn đất nước tức là chất tinh-túy do muôn ngàn bản ngã của tất cả con dân trong nước hòa-hợp mà cấu tạo thành. Vậy hay, hay dở phải xét từ gốc. Độc-lập như ta rõ, là một tình-trạng siêu-thoát trong như nước, nhẹ như không khí, sạch như băng, và sáng láng như đỉnh trời xanh một buổi không mây. Độc-lập là tinh-thần đã thoát-ly được tất cả những tư-tưởng xấu xa hay không chính đáng, đồng thời phải rũ bỏ được mọi sự yếu mềm nhờ đó mà ảnh-hưởng ngoại-vật có thể chi-phối, hay ít nhất làm trở ngại được đời sống của tinh thần. Xem thế thì biết nếu muôn dân, ai nấy đều cùng một tư-tưởng chăm lo tu thân luyện tính làm sao cho cái bản-ngã thiện của con người thoát-ly được mọi ràng buộc về tinh-thần cũng như về thể-chất mà nẩy nở được đến chỗ tuyệt mỹ, thì kết quả dĩ nhiên của sự hòa hợp giữa muôn triệu nền độc lập cá nhân đó, sẽ là một sự độc-lập duy nhất, sự độc-lập của quốc-gia.

Chúng ta đã giải nghĩa được thế nào là một nền độc-lập chân-chính. Bây giờ ta phải nói đến phương-pháp nhờ đó mà đã tiến tới cái tình-trạng siêu-thoát của mỗi cá nhân, hay của quốc-gia, mà ta gọi là độc-lập. Phương-pháp đó chỉ là một sự tập luyện không ngừng của mỗi người chúng ta để chế-ngự thể-xác, và khuyếch-trương tinh-thần. Hễ giải-phóng được cá nhân, thì kết-quả dĩ nhiên của sự giải-phóng đoàn thể là sự giải-phóng của quốc-gia. Tóm lại, phương-châm hành-động là cố gắng, cố gắng mãi để đạt tới một nền đạo-lý cao-siêu.

Chúng ta hiểu tại sao Cam-Địa chỉ hướng về nền văn-minh cổ-truyền của Á-đông mà tìm tòi suy-nghiệm những phương-châm của đạo sống. Ông thẳng thắn khước từ nền văn-minh Thái-Tây mà ông cho là quá ư máy móc, nghĩa là đời sống của người Thái-Tây, về phương-diện vật chất quen thói sử dụng những tiện-nghi của cơ-khí, nên về phương-diện tinh-thần, khối óc cùng trái tim thường bị chi-phối bởi ảnh-hưởng của cơ khí, và sự phát-triển thiên về lý-trí hơn là thiên về lương-tâm.

Trở lại vấn đề thay đổi những người cầm quyền ngoại quốc bằng những người cầm quyền bản quốc, mà Cam-Địa cho là một vấn-đề hình-thức và phụ thuộc hơn là một vấn đề chủ yếu, chúng ta nhận thấy ông không quan tâm tới lắm, vì theo ý ông, kết quả dĩ nhiên không thể tránh được là một khi dân tộc đã tiến tới cái trình-độ siêu-thoát đã nói trên, nghĩa là đã tự do tạo được một sức mạnh tinh-thần tuyệt-đối, thì ví dù dân Ấn có ở trần, dẫm đất, không một tấc sắt trong tay chăng nữa, người Anh cũng phải bỏ xứ Ấn-độ mà đi.

Thí dụ họ có cố bám chăng nữa, thử hỏi giải-quyết phong-trào bất hợp-tác toàn thể bằng phương-sách gì?

Làm ra luật-lệ, chỉ cốt để cho người ta theo, để cứu-vãn một nền trật-tự do mình đặt ra. Vì thế mới có những hình phạt hoặc xâm-phạm vào túi tiền, hoặc xâm-phạm vào thân thể kẻ không tuân theo luật, để đe dọa họ không được làm trái những lề lối mình đã ấn định. Nhưng đối với kẻ không sợ mất tiền, vì đã tu-luyện hủy-diệt được lòng tham cùng tính tư hữu, và cũng chẳng để ý đến những hình phạt xâm-phạm vào thân-thể, vì đã kiềm-chế được những sự mềm yếu của thể xác đến nỗi coi thường cả sự tra-tấn hành-hạ lẫn sự câu thúc, thử hỏi đối với những kẻ ấy, không phải là một hai người, hay một nhóm người, mà là cả mấy trăm triệu người một lúc, thì khi ấy những đạo luật của kẻ trị nhậm long-trọng ban-hành, có thoát khỏi số phận dĩ nhiên của mấy trang giấy lộn không?

Về kinh-tế, lại càng dễ dàng hơn nữa. Kẻ mạnh đi chiếm đất mục đích không ngoài việc lập một thị trường thuộc quyền sở hữu của mình mà buôn rẻ bán đắt để làm giầu, hoặc việc sử dụng nhân công rất rẻ để dùng vào những việc khai thác có lời. Kẻ địch bán đắt mà mình vẫn tranh nhau mua, là vì mình chưa hủy diệt được thói xa-hoa, tự phụ, ỷ vào quyền cao chức trọng hay tiền nhiều. Nếu muôn người như một, ai cũng khinh rẻ những sự phù-phiếm, mà chỉ nghĩ đến công-dụng của thứ đồ hàng, thì ta dệt lấy vải mà mặc, cấy lấy thóc mà ăn, đan lấy dép mà đi, đóng lấy đồ mà dùng, mở trường ra mà dạy riêng lẫn nhau, chẳng cần lấy mảnh bằng của người ngoại quốc mà phải học tiếng nước họ, thì lẽ dĩ nhiên là vải vóc, xe hơi cùng những vật dụng khác ế chất hàng đống, bán rẻ cũng không ai mua, tất phải khấn mà vất xuống biển cho khỏi tốn phí tiền mang về nước. Các nhân công nếu cũng biết bảo nhau mà tẩy chay hết mọi sự mời mọc quyến rũ của các chủ mỏ, chủ đồn-điền, nếu biết đùm bọc lấy nhau cùng thân quyến, mà chia sẻ cho nhau mỗi người một ít, sống tạm qua những ngày khó khăn, thì bọn tư-bản ngoại quốc tất phải sớm cuốn gói theo gót bọn nhà buôn về nước.

Tóm lại, theo Cam-Địa, chỉ một phong-trào bất hợp-tác cũng đủ giải-phóng được nước nhà. Song đó là lý-thuyết. Về thực-tế, tất nhiên không thể áp-dụng được trước khi dân chúng đã tự luyện được một sức mạnh tinh thần rất cao. Nhưng mới chỉ áp-dụng trong phạm-vi nhỏ hẹp của một vài địa phương với sự tham-gia của một nhóm đồng chí cùng môn-đệ, mà phong trào bất hợp-tác đã gây ra không thiếu sự khó khăn nào cho nhà cầm quyền người Anh thì thử hỏi công-dụng xác-thực của một phong-trào toàn thể sẽ to tát đến đâu?

Bởi vậy, Cam-Địa cho sự nóng nẩy của các phần-tử quốc gia trong Đảng Quốc-Hội là không thích-hợp với tình-trạng nước Ấn. Ông chủ-trương phải đi một cách kiên-nhẫn, từng giai-đoạn một. Việc trước tiên ông muốn làm là gây cho mọi người, nhất là người dân quê mà tổng số chiếm 90 phần trăm dân số toàn quốc, một lẽ sống mới, một niềm tư-tưởng mới, những phương-châm hoạt-động mới.

Thời gian đã xác-nhận quan-niệm của ông là đúng. Phong-trào hoạt động tích-cực đã bị tan rã trong máu, sau một cuộc đàn áp không thương tiếc của bọn người Anh. Trái lại, thắng lợi ở Champaran tỏ rõ người ta có thể tay không mà thắng địch, ấy là chỉ riêng với ý chí đoàn kết.

Ông chú trọng luyện-tập sức mạnh của tinh thần tới bực từ chối cả sự giúp đỡ, tuy nhiên rất thành thực, của một bạn đồng chí người Anh. Ngay khi ông lao mình vào cuộc kháng Anh ở Champaran, thì một người Anh đệ-tử thuyết hòa-bình, là ông Charles Freer Andrews, bạn trung thành của ông, tìm gặp ông để tình nguyện theo giúp. Sự có mặt của một người Anh trong hàng ngũ phản kháng có thể làm dễ dàng nhiều cho cuộc tranh-đấu. Các đồng chí của Cam-Địa có ý muốn chấp nhận sự cộng tác của Andrews, song ông không nghe. Ông nói:

« Các bạn cho rằng trong cuộc tranh đấu này, có một người Anh trong hàng ngũ thì lợi hơn phải không? Tôi không nghĩ thế. Ý muốn của các bạn chứng tỏ rằng sức mạnh tinh thần của các bạn chưa được vững chắc. Hãy nghĩ rằng hoạt động của chúng ta đây là để phụng sự chính-nghĩa, để noi theo một lý tưởng cao siêu là lý tưởng nhân đạo bác-ái. Thế chưa đủ hay sao mà các bạn phải cầu một người Anh? »