← Quay lại trang sách

Chương 14 LỊCH-SỬ MỘT NỀN THỐNG-TRỊ

SUỐT 30 năm ròng rã, từ 1948 đến 1918, Thánh Cam-Địa ba lần tranh-đấu gắt-gao: Chống lại chính bản-ngã ông, chống lại các đồng-bào ông, và chống lại nền thống-trị của Đế-Quốc Anh trên đất Ấn.

Nói đến cách đối xử của người Anh với dân bản quốc, thì không một người Ấn mang chút tâm-huyết nào mà không chau mày nghiến răng. Sự hống-hách của người Anh khó dùng lời mà tả được. Xã-hội Ấn chia ra 4 giai-cấp, thì người Anh tự đặt mình vào một giai-cấp thứ năm, một giai-cấp riêng biệt, thượng đẳng, ngất-ngưởng ở cao tít trên giai-cấp Bà-la-Môn gồm những gia-đình quý tộc của Ấn. Xã-hội Ấn có hạng tiện-dân mà ai cũng khinh-khi và ghê tởm, thì đối với người Anh, tất cả mọi người Ấn, từ vị vương-hầu quý-tộc cho tới kẻ cùng dân hạ tiện, tất cả không phân biệt, đều là những hạng tiện dân đáng khinh bỉ mà họ không thèm tiếp-xúc.

Hãy tưởng tượng nhà cửa của mình, mà một kẻ côn đồ tự nhiên chiếm đoạt, tịch-thu đồ đạc của mình để dùng riêng với tư-cách chủ-nhân-ông, đã liệt mình xuống hàng tôi tớ để hách-dịch sai bảo lại còn ỏe-họe chê bai đến điều, trông thấy mình thì bẩn mắt, chạm phải mình thì bẩn tay và tiếp xúc với mình thì danh dự bị xúc-phạm ; hãy tưởng tượng như thế thì biết thứ tình-cảm của người Ấn đối với người Anh là tình-cảm gì, và sẽ hiểu tại sao mãi đến bây giờ, sau khi đã thu hồi được nền độc-lập hoàn-toàn, người Ấn vẫn còn giữ một mối ác-cảm xâu xa và một lòng nghi-kỵ không gì gột rửa nổi, đối với mọi tàn-tích của chính-sách đế-quốc, bất luận dưới hình-thức nào.

Người Ấn vốn là một dân tộc kiêu ngạo với nền văn minh cổ-kính của mình. Óc phân chia giai-cấp ở họ cũng mạnh hơn ở mọi dân tộc khác. Bởi thế nên trong tất cả những nguyên nhân va chạm giữa hai dân tộc, nguyên nhân sâu xa nhất là tính hách-dịch của người Anh, luôn luôn tự-kiêu tự-đại với nền văn-minh của mình, với màu da của mình. Họ có những hành vi hình như cố ý nhắc nhở người Ấn rằng chỉ có người da trắng mới xứng đáng được sống tự do dưới ánh mặt trời. Bị thương tổn lòng tự ái, người Ấn lại càng mài dũa ý-chí độc-lập của mình.

Đó là tình-trạng cuộc sống chung giữa hai dân-tộc Anh Ấn. Mối ác-cảm người Ấn đối với Anh sâu-xa đến nỗi ví thử người Anh có đem lại cho họ tiền rừng bạc bể, cùng ruộng sôi sông mật chăng nữa, họ cũng chẳng động tâm. Vì vết thương thầm kín ở tận trong thâm tâm, trong tận cùng tủy não một vài sự tiện lợi vật-chất thí bỏ cho, như đường xe hỏa, viện tế-bần, trường học, nhà thương, v.v… băng bó sao nổi. Về phần người Anh, họ cũng thừa hiểu rằng họ không được lòng mến chuộng của dân Ấn. Càng bực hơn nữa là mỗi khi họ tìm cách làm thân với người Ấn – lẽ dĩ nhiên là vì chính-trị chứ chẳng phải thực lòng – thì người Ấn lại lảng tránh. Bàn tay chìa ra, không được tiếp nhận, thu lại mới bẽ làm sao!

Bởi vậy, người Anh rất e ngại sự phát-triển của phong-trào Quốc-Gia Ấn. Trong 89 năm thống-trị ở Ấn, chính-sách của Anh phản-chiếu rõ-rệt nỗi phân-vân lo ngại của các nhà cầm quyền vừa hứa xong đã tìm cách thoái thác. Nhiều lần dân Ấn có cảm-tưởng như bị mắc lừa bởi những điều hứa hẹn bâng quơ.

Muốn cai-trị được dễ-dàng cái khối dân số khổng lồ mấy trăm triệu người đó, người Anh đã dùng chính sách chia mà trị. Họ lần lượt nâng đỡ người Hồi để kìm hãm người Ấn, và chia bán đảo Ấn-Độ – trừ miền đất phì-nhiêu nhất, gọi là Ấn-Độ thuộc Anh, cai trị trực-tiếp bởi người Anh – ra làm nhiều tiểu bang nhỏ, về hình thức, thuộc quyền các tiểu vương cai trị, song kỳ thực thì dưới quyền kiểm soát tối cao của người Anh. Đầu thế kỷ thứ 20, số tiểu vương bù nhìn ấy có tới 550 vị. Tất cả hoạt động của người Anh ở khu vực « Ấn-Độ thuộc Ấn » chỉ dồn vào việc giật dây các ông vua bù nhìn đó. Họ rất có quyền lực đối với người dân, và rất giàu mạnh, vì người Anh thả lỏng cho họ tha hồ vơ vét, nhưng lại rất trung-thành đối với người Anh.

Chính giáo sư Rushbrook Williams là người thường làm trung-gian giữa các tiểu bang, và vì thế rất am hiểu tình hình các nơi đó, đã phải thốt ra lời nhận xét sau đây:

« Khó lòng có thể xẩy ra một vụ nổi loạn toàn thể chống Anh ở Ấn-Độ, vì lòng trung thành của các tiểu vương đối với người Anh không ai nghi-kỵ được ».

Chính-sách kinh-tế của người Anh ở Ấn cũng ác liệt không kém chính-sách cai-trị. Đúng lý ra, thì người Anh phải nâng đỡ nếu không thì cũng để cho nền kỹ-nghệ bản xứ tự-do phát triển để xứ thuộc địa có thể dần dần trưởng thành về kinh-tế ngõ hầu rời khỏi chính quốc mà sống tự lập được một mình. Nhưng người Anh lại hết sức hạn chế khả năng kinh-tế của Ấn-Độ, bóp chết các ngành kinh-tế bản xứ để dành độc quyền trên thị-trường cho các hóa phẩm chính quốc, cấm đoán việc đóng tầu và mở mang kỹ-nghệ hàng hải. Về giáo dục, thì loại hẳn ra ngoài chương-trình những môn học thiết dụng, có thể đào-tạo được những kỹ-sư và thợ thuyền chuyên-môn bản xứ sau này sẽ giúp ích cho nước họ.

Các sự thực-hiện của người Anh ở Ấn – những món quà quý báu của nền văn-minh, mà các đế quốc thường tự hãnh-diện là đã làm trọn sứ mệnh khai hóa của mình mà ban cho dân bản xứ hưởng thụ cũng – chẳng nhiều nhặn gì cho lắm. Vài con số sau đây chứng tỏ sự chênh lệch giữa cái tình-trạng được ghi trong những bản tường trình tràng giang đại hải để kể công với thế giới, và tình-trạng thật sự.

Năm 1939, Ấn-độ, với một số dân đông gấp ba lần dân số Mỹ Quốc và một diện-tích chỉ bằng 2 phần 3 diện-tích nước này, chỉ có 41.134 dặm đường sắt ; trái lại Hoa-Kỳ có những 395.589 dặm. Năm 1935, Ấn-Độ sản-xuất được 2.500 triệu kilowatts điện lực, trong khi Hoa-Kỳ sản-xuất được 98.464.000.000 kilowatts.

Tình trạng thấp kém của một xứ trù phú như Ấn-Độ lỗi tại ai? Lẽ dĩ nhiên là người Anh phải chịu phần lớn trách nhiệm. Song nếu quy cả tội vào đầu họ thì cũng hơi oan uổng cho họ. Chúng ta đã biết rằng người Ấn không bao giờ chịu hợp-tác hết sức với người Anh. Nhưng đến khi kiểm điểm kết quả, thì họ lại quên hẳn những sự trở ngại họ đã gây ra cho nhà cầm quyền, mà phê-bình chính-sách của người Anh với một con mắt hết sức gắt gao, soi mói.

Các nhà đương cục người Anh hết sức khó chịu vì thái-độ ấy. Tính tự cao tự đại của họ bị tổn thương bởi bất cứ một lời phê-bình nào. Họ trả lời sẵng giọng. Thế là cái hố ác cảm giữa kẻ trị và người bị trị lại khơi sâu thêm một nấc. Đến cuối thế kỷ thứ 19 sự phẫn uất âm-ỉ trong lòng người Ấn bùng lên dưới hình thức nhiều vụ khủng bố ở Bengale và ở mấy nơi khác. Đã có khủng bố, tất phải có sự bắt bớ tiễu trừ tiếp theo. Hoạt động khủng bố và hoạt động chống khủng bố, cái này kéo theo cái kia, rồi cứ thế bùng lên với một cái đà đáng sợ. Về phía người Anh, một nhóm đòi đè bẹp phong-trào phản đối của người Ấn dưới máu, sắt, và lửa ; nhóm đối lập thì muốn an lòng dân bằng những thực hiện cải cách thích hợp. Về phía người Ấn, Đảng Quốc-Hội tức là đại diện của phong-trào độc-lập, cũng bị lôi kéo giữa hai khuynh-hướng tương tự. Đáng lẽ phải tìm cách nâng đỡ những khuynh-hướng ôn hòa của cả đôi bên, thì các nhà cầm quyền người Anh lại dại dột đổ dầu vào lửa. Cuối thế-kỷ thứ 19, một võ quan cao cấp và cũng là một thực dân kỳ-cựu ở Ấn-Độ, đã tuyên bố như sau:

« Chính bởi vì chúng ta hiểu rõ sứ mạng của người da trắng đối với các dân tộc khác màu-da, nên chúng ta mới chinh phục và thống-trị xứ Ấn-Độ này. Một người dân bản xứ, dù thông minh, can đảm và văn minh đến đâu chăng nữa, và mặc dầu được chúng ta đặc biệt để ý và khen thưởng đến đâu chăng nữa, cũng không thể nào được coi như ngang hàng với các viên chức người Anh ».

Những lời tuyên-bố vụng về đó chỉ có kết quả là làm suy yếu những khuynh-hướng ôn hòa đang cố gắng kìm hãm tình thế không cho tiến triển nhanh đến sự đổ vỡ. Bấy giờ những phần tử ôn hòa Ấn gồm các nhà luật sư, các ký giả, và các nhà tư bản vẫn còn nắm giữ được đảng Quốc-Hội, song có phải tất cả mọi người ái quốc đều ở trong Đảng Quốc-Hội cả đâu. Đã có những đứa trẻ còn thấp lách-chách đã dám thủ bom đi liệng vào lính Anh. Các thanh niên tây học, đã tốt nghiệp ở Oxford hay Cambridge, cũng ruồng bỏ nền văn hóa mà họ vừa hấp thu được, để gia nhập những hàng ngũ xung phong của phong trào Độc-lập ; với khẩu hiệu: « Đông là Đông » mà « Tây là Tây ». Không thể có sự gặp nhau giữa Đông và Tây, vì người Tây Phương nhất quyết đòi làm chủ nhân ông một cách vô lý, còn người Đông Phương thì không đời nào chịu hạ mình đi làm đày tớ những kẻ ấy.

Trong cuốn sách tự thuật đời mình, nhan đề là « Trên đường giải-phóng », Yaouaharlal Nehru viết rằng hồi ấy (năm 1907), ông vừa 17 tuổi và mới tốt nghiệp ở trường Trung-Học Harrow ra để vào trường Cao-Đẳng Cambridge. Ông nhận rằng, cũng như tất cả mọi sinh-viên du học ở Anh, ông có gia nhập phong trào quốc gia dưới màu sắc quá khích của nhà lãnh tụ Tilak.

Bal Gangadhar Tilak đã đóng một vai trò quan trọng trong phong trào Độc-Lập Ấn, và trong quãng đời hoạt động chính-trị của Cam-Địa.

Tilak thuộc giai cấp Bà-la-Môn, dòng quý tộc, sinh trưởng ở Poona. Năm 1897, ông bị nhà chức-trách Anh buộc cho tội đã xui giục một thanh niên Bà-la-Môn ám sát một viên chức người Anh, giữa hôm cử hành lễ thọ Nữ Vương Victoria. Bị kết án 2 năm tù, và được tha trước kỳ hạn, ông trở về tiếp-tục công cuộc điều-khiển phong-trào tôn giáo kháng Anh.

Bấy giờ, nhiều việc quan trọng mới xẩy ra, thổi một luồng gió mới về đất Ấn, khiến cho ngọn lửa ái quốc đang cháy âm-ỉ trong người dân Ấn bỗng được quạt bốc lên cao. Trong nước thì những sự cải-cách của người Anh không đem lại kết quả mong muốn: toàn thể phong-trào quốc gia, dù quá khích hay ôn hòa đều bị chê là không đủ rộng rãi. Bên ngoài thì nước Nhật vừa đánh bại nước Nga ở eo Tsushima ; tin đó kích-thích mãnh-liệt lòng yêu nước của người Ấn. Lần đầu tiên trong lịch sử cận kim, người da vàng đã ghi tiếp được một chiến thắng oai hùng vào trang sử dầy đặc những võ công lừng lẫy thủa xưa, khi mà Âu-châu quỳ gối một cách thấp hèn trước vó ngựa của những người chinh-phục da vàng từ phương Đông tràn tới, và của những người chinh-phục Ả-Rập từ bờ biển Địa-Trung-Hải đánh thốc lên.

Kế cận biên thùy phía Tây Ấn-độ, thế giới Hồi giáo cũng đang sôi sùng sục với sự nổi dậy của phong trào Thanh-Niên Thổ, và chân trời bắt đầu nặng trĩu những đám mây đe dọa đối với người Anh.

Năm 1904, Phó Vương Ấn-Độ là Lord Curzon quyết định phân tỉnh Bengale ra làm đôi. Vị Phó vương này tuy đầy thiện chí, song không đủ tài năng và trí lực để quán xuyến được tình thế. Bởi vậy ông ta không nhận xét được thấu đáo phong-trào phản kháng đang cháy ngùn-ngụt hay âm-ỉ khắp mọi nơi, đến nỗi đi phải một nước cờ vụng là lại áp dụng chính-sách cổ truyền « chia mà trị » đối với dân chúng tỉnh Bengale. Nhất là lại vụng thêm ở chỗ chia ra 2 khối Ấn-Hồi riêng biệt, khiến cho một phong-trào tôn-giáo lại ghép thêm vào phong-trào chính-trị để phản kháng.

Các phần-tử ái quốc ở Bengale trả miếng bằng sự khủng bố. Các vụ ám sát mỗi ngày một nhiều. Ở miền núi quê hương Tilak, nhà lãnh tụ này ngày đêm hô-hào, kích-thích những thanh-niên vạm vỡ và cương quyết, để biến đổi họ thành từng đội xung phong cuồng tín. Các lãnh-tụ quốc gia hô hào dân chúng ở hai tỉnh mới xứ Bengale tẩy chay hàng Anh. Và chính trong vụ tẩy chay hàng hóa đó mà Cam-Địa cùng Tilak trở nên những đối thủ công-kích nhau kịch liệt.

Cam-Địa chủ trương giữ vững thái-độ ôn hòa. Tilak đòi bạo động. Cam-Địa kêu gọi sự hợp tác giữa người Ấn và người Hồi. Tilak bênh-vực quyền-lợi của người Ấn. Cam-Địa chú trọng đến phương-pháp hành động hơn là kết quả. Tilak, trái lại, tin tưởng rằng chỉ có mục-đích là trọng.

Năm 1911, Tân vương nước Anh là George V cùng Hoàng Hậu qua thăm Ấn-Độ. Để an lòng dân, vua Anh tuyên bố hủy bỏ việc chia đôi tỉnh Bengale, và cho thiên đô nước Ấn về Delhi. Song hoạt động khủng bố cũng không vì thế mà giảm bớt.

Tilak lúc ấy đã bị buộc tội là xui dân khởi loạn và đang chịu án tù ở Mandalay, nhưng các đồ-đệ của ông ta vẫn tiếp tục hoạt động. Năm 1912, Phó Vương Ấn-Độ là Lord Hardinge bị một trái bom suýt chết.

Khi cuộc thế giới đại chiến thứ nhất bắt đầu thì những sự biến động giảm bớt nhiều. Nhiều người Ấn đầu quân trong hàng ngũ Anh. Hơn nửa triệu người Ấn chiến đấu dưới bóng cờ Anh trên khắp các mặt trận Pháp, Bỉ, Cận Đông và nhiều nơi khác.

Bấy giờ Tilak đã được tạm tha. Cam-Địa từ Nam-Phi, qua Anh, đáp tầu về. Ông sốt sắng đi các làng tuyển lính tình nguyện giúp Anh. Năm 1916, nhân việc dân Ái-Nhĩ-Lan khởi nghĩa, Tilak lại bắt đầu hoạt động ráo riết. Ông thu hút được rất nhiều chính-khách tên tuổi theo mình, như bà Annie, Besant, Sir C.P. Ramasouami Aiyer và Yinnah.

Nhưng sự hy sinh của người Ấn ở bãi chiến trường đã cảm hóa được phần nào các nhà cầm quyền Anh. Ngày 20 tháng 8 năm 1917, viên Bộ-Trưởng Ấn-Độ sự vụ là Edwin S. Montagu tuyên bố trước Hạ Nghị-Viện rằng Chính-phủ đang dự định cho phép người Ấn tham dự một cách chặt chẽ hơn vào tất cả mọi ngành cai trị, cùng là cho họ được hưởng những thực hiện dân chủ, để họ có thể lần lần đi tới sự tự trị.

Coi đó là một lời hứa hẹn đáng tin cẩn, người Ấn nán lòng chờ đợi.

Tháng 8 năm 1918, chiến-tranh chấm dứt. Và đến tháng giêng năm 1919 thì các cuộc biến động lại bắt đầu.

Tại sao?

Vì lời hứa của viên Bộ-Trưởng Ấn-Độ sự vụ, đã tiêu tan như mây khói không để lại một chút dấu vết.

Người Ấn cảm thấy những dòng máu họ rỏ khắp năm mặt trận để gìn giữ cho của cải người Anh được toàn vẹn, đã hoàn toàn là một sự phí phạm.

Tilak đã bị bắt lại ngay sau chiến-tranh chấm dứt. Bà Besant cũng thế. Hai anh em Chaoukat và Mohammed Ali, lãnh tụ Hồi cũng bị giam suốt thời hạn chiến-tranh. Khắp Ấn-Độ, những tòa án đặc biệt được thành lập để xử kín chính-trị phạm. Một số lớn báo chí bị đóng cửa hoặc khóa miệng bởi chế-độ kiểm duyệt nhà binh. Những cuộc đàn áp trên đây chỉ làm cho dân chúng thêm phẫn nộ, vì họ cho rằng những tự do bị thu hồi hay hạn chế trong thời chiến-tranh, thì nay phải trả lại cho họ chứ?

Nhất là khi một ủy ban đặc biệt cầm đầu bởi một viên chức cao cấp vừa ở Anh tới để xem xét về hoạt động tư-pháp ở Ấn quyết nghị nên giữ nguyên những sự hạn chế tự do trong thời chiến tranh thì Đảng Quốc-Hội công-kích kịch liệt quyết-nghị nói trên. Tháng 2 năm 1919, khi bản dự luật hạn chế các quyền tự do căn bản được thảo luận trước Hội-Đồng Lập Pháp thì các đại biểu Anh giữ đa số ở Hội-Đồng, đã chấp thuận ngay, không kể đến sự phản kháng của các đại biểu Ấn, trong số đó có Cam-Địa.

Ngày 18-3-1919, đạo luật Rowlat được ban bố trong dân chúng.

Người ta tự hỏi: « Đây là nền tự trị mà người Anh hứa hẹn đó chăng? »

Và dân chúng ngảnh về phía Cam-Địa, chờ đợi một mệnh-lệnh.

Ngay hôm sau, ông hô hào dân chúng mở cuộc tổng bãi thị bãi công trong toàn cõi. Ngày ấy, các hiệu đều đóng cửa, công chức không đi làm, thợ thuyền bỏ xưởng, các chợ không bán thức ăn, tầu xe không chạy, tại các bến tầu, phu không bốc hàng lên tầu, mà cũng không bốc hàng xuống.

Đó là miếng đòn đầu tiên Cam-Địa đánh vào Chính-Phủ Anh, mở đầu cho một cuộc tranh-đấu 28 năm. Khi cuộc tranh-đấu chấm dứt, thì chế độ của người Anh ở Ấn cũng đổ sụp, cùng với tiếng cồng cuối cùng.