← Quay lại trang sách

Chương 16 MỘT PHƯƠNG-PHÁP TRANH-ĐẤU MỚI : PHONG-TRÀO QUẦN-CHÚNG BẤT HỢP-TÁC

NGƯỜI ta có thể nói làm chính-trị là tìm cách để nắm chính-quyền. Muốn nắm được chính quyền, phải tìm cách làm suy yếu hay lật đổ kẻ nào đang giữ chính quyền. Trước kia, ở Nam-Phi, Cam-Địa không làm chính-trị, vì ông không có ý định làm suy yếu hay lật đổ Smuts. Ông chỉ theo đuổi một mục tiêu tinh thần là buộc nhà cầm quyền Nam-Phi phải trả lại cho kiều dân Ấn chững quyền lợi chính đáng của họ, mà chính-phủ Nam-Phi đã tước đi một cách bất công.

Bây giờ, quan niệm tranh-đấu của ông đã thiên về chính-trị hơn. Ông công nhận mục-tiêu của Đảng Quốc-hội là thay thế Chính-phủ hiện tại ở Ấn-Độ bằng một chính-phủ hoàn toàn bản xứ, nghĩa là thay hết những người cầm quyền Anh bằng người cầm quyền Ấn, nhưng không vì thế mà Ấn-Độ đòi thoát-ly khỏi khối Đế-quốc Anh. Tóm lại, người Ấn hồi bấy giờ đòi tự-trị chứ chưa đòi độc-lập.

Năm 1920, Cam-Địa được bầu làm Chủ-tịch Phong-trào Vận-động Tự-trị.

Nhưng suốt đời, ông vẫn không thành một chính-trị gia với những đức tính, những thủ-đoạn cần thiết mà ta thấy ở hầu hết mọi nhà chính-trị lão thành. Làm chính-trị, tức là tiên đoán… Điều này thì ông có. Chúng ta đã thấy ông sáng suốt biết bao, khi ông phản đối khuynh-hướng bạo động của Tilak, mà ông quyết là chỉ đưa đến kết quả tai hại. Tấn thảm-kịch ở Amritsar đã chứng tỏ lời tiên đoán của ông.

Nhiều người công-kích ông không chịu lợi dụng những lúc địch thủ bị suy yếu mà áp bức họ phải chấp thuận những yêu sách của mình. Điều đó quả có đúng, song ta nên nhớ là Cam-Địa không chú trọng đến sự thắng-lợi không mà thôi, ông muốn thắng một cách ngay thẳng và cao-thượng. Một người quân-tử không bao giờ đánh kẻ địch đã ngã.

Giờ vinh-quang của Cam-Địa đã điểm khi ông đi thăm tỉnh Pundjab, sau vụ tàn sát ở Yallianoulla. Tới đâu ông cũng được dân chúng hoan hô nhiệt liệt. Hàng triệu người xô đẩy nhau để tới chiêm ngưỡng ông, mỗi khi nghe tiếng ông đến tỉnh nào. Ông đã thành tượng trưng của phong-trào dân tộc quyết-tâm chống lại chính-sách độc ác của người Anh.

Tại Pundjab, không tin hẳn ở lòng vô tư của ủy-ban điều-tra Anh, ông giúp lãnh-tụ Quốc-hội địa-phương là Motilal Nehru mở một cuộc điều-tra riêng về vụ tàn sát Yallianoualla. Khắp trên đất Ấn, không ai còn nghi ngờ về những sự thực mà bản phúc-trình của đảng Quốc-hội đem ra ánh sáng, vì tên ông ký cùng với những nhân viên điều-tra ở dưới.

Rời xứ Pundjab, Cam-Địa tới Delhi để dự một cuộc hội họp của phong trào ủng hộ quốc-vương Thổ-nhĩ-kỳ, bấy giờ vừa thua trận bên cạnh các nước Trung-Âu. Ngồi trên bục cao, ông ngắm nhìn buổi họp sôi nổi dưới mắt, và đăm-chiêu ngẫm nghĩ. Một tia sáng vụt lóe trong trí não ông. Ông đã tìm thấy đường lối tranh-đấu mới. Đến lượt ông lên tiếng, thì cử tọa đang ồn ào bỗng nhiên im lặng để nghe ông buông rơi gọn lỏn một khẩu-hiệu tranh-đấu gồm 3 tiếng là: « Bất hợp-tác ». Người Ấn không thể chống lại người Anh về phương-diện này, mà còn hợp-tác với họ về phương-diện kia thì không thể được. Tẩy chay hàng hóa của người Anh chưa đủ, còn phải tẩy chay các học đường, các tòa án, các công sở, tư sở, các huy-chương khen tặng của người Anh ; tóm lại, bất hợp-tác trong tất cả mọi ngành.

Phong-trào bất hợp-tác vì không có tính cách tranh đấu tích cực, như hội họp và kích thích dân chúng công nhiên kháng Anh, nên không thể gây ra sự đổ máu được. Cùng lắm, chỉ tù tội hay bị hành hạ lén lút trong ngục thất thì có nghĩa gì đối với những kẻ đã coi thường danh lợi, và tinh thần khả dĩ đủ vững bền để coi khinh sự đau đớn của phần xác. Ngoài ra, theo Cam-Địa, dân chúng tập luyện tự kiểm-soát lấy mình tức là sửa soạn cho nền tự trị mai sau vậy.

Phong-trào bất hợp-tác mà Cam-Địa đe-dọa chính-phủ Anh đây chỉ là một phương sách bất đắc-dĩ. Ông hy vọng rằng người Anh sẽ nhượng bộ phong-trào Hồi-giáo cho xong đi, chứ ông không chủ trương bỏ hết mọi liên lạc giữa người Ấn và người Anh.

Vì thế cho nên mấy tháng sau, vừa gặp dịp Quốc-vương Anh ban hành chương trình cải cách Montagu-Chelmoford, ông cho là thế cũng đủ để làm dịu bớt dư luận dân chúng, và tuy ông biết rằng những sự cải cách mới chẳng có gì lợi cho người Ấn, ông cũng hô hào đồng bào ông chấp nhận, để lấy sự thắng lợi này làm căn cứ mà tiến tới thắng lợi khắc.

Chương-trình Montagu-Chelmoford định rằng từ nay Ấn sẽ có một chính-phủ liên-bang, để tự cai trị lấy mình, không phải bẩm báo gì về Luân-Đôn nữa. Nhưng người Ấn không có quyền gì trong cái chính-phủ trung-ương ấy. Còn về các chính-phủ địa phương thì người Ấn được giữ vài bộ không quan trọng như canh-nông, kỹ-nghệ, giáo-dục, y-tế, v.v… nhưng tài-chính và công-an thì lại hoàn toàn trong tay viên toàn-quyền địa-phương, và viên này có thể hủy bỏ bất cứ một quyết nghị nào của hành-pháp-viện hay của lập-pháp-viện Ấn địa-phương.

Sự tham-gia của người bản xứ vào các cơ quan hành chính cũng có tăng thêm đấy, song phàm những người hiểu biết, ai cũng cho là chương-trình trên đây chỉ nêu lên những danh từ suông để che lấp một chính sách không khác xa gì chính-sách trực trị.

Vì tán thành chương-trình cải-cách trên đây, Cam-Địa đã bị những phần tử thanh niên ái quốc phản đối kịch liệt. Họ không quên những lời hứa hẹn của Chính-phủ Anh năm 1916 trước Hạ-nghị-viện. Họ muốn một nền tự trị thực sự, chứ không như miếng bánh vẽ bầy ra trước mắt họ bây giờ. Ngoài ra, người Hồi cũng bất mãn. Họ thấy rõ người Anh không có ý định nới tay cho Thổ-nhĩ-Kỳ. Lại thêm tướng Kyer, người đã giết hại và làm nhục dân Ấn không những không bị trừng phạt, lại còn được dư luận chính quốc ngợi khen và tặng thưởng, khiến cho người ta cảm thấy ủy-ban điều-tra Hunt cũng chỉ là một trò ru ngủ.

Vì thế cho nên ba tháng sau, khi Chính-phủ Anh nhất quyết gác bỏ lời thỉnh nguyện của hơn trăm triệu dân Hồi, mà bắt Thổ-nhĩ-kỳ phải ký một bản hòa ước cực kỳ khắc nghiệt, đồng thời lại không giải quyết nổi nạn khan thực phẩm, khiến hàng triệu người Ấn lâm vào cảnh đói, thì những lời ôn hòa của Cam-Địa không còn hiệu lực gì nữa, và ông bị lôi cuốn theo phong trào phản kháng của dân chúng. Ngày mồng 1 tháng 8 năm 1920, ông phát động phong-trào bất hợp-tác.

Bấy giờ Tilak vừa mất, ông trở nên người cầm đầu độc nhất của Đảng Quốc-hội. Ngày 9 tháng 9 năm ấy, Đảng quyết-nghị ủng-hộ cuộc tranh-đấu của dân chúng, và tuyên-bố lấy sự đạt tới nền tự trị làm mục đích tối cao, dù phải thoát-ly khỏi Đế-quốc Anh cũng không quản ngại.

Đại hội thường niên của Đảng họp ở Nagpuor chấp thuận một quyết-nghị do Cam-Địa đưa ra, mục đích cải-tổ lại Đảng thành một tổ-chức có tính cách bình dân hơn, để lôi cuốn đại chúng vào phong-trào. Từ trước tới nay, Đảng chỉ là một Tòa nhà sang trọng, trong đó chỉ có một số trí thức cùng phú thương có quyền ngự tọa, còn dân chúng ít khi được bén gót tới. Bởi vậy, công cuộc của đảng Quốc-hội chưa có bề sâu cần thiết. Không ăn rễ trong những tầng lớp phong-phú của dân chúng, Đảng làm sao có được nguồn sinh lực dồi dào để theo đuổi một cuộc trường-kỳ tranh-đấu.

Lời khuyên nhủ của Cam-Địa có hiệu lực tức khắc. Trong những kỳ đại hội ở Calcutta mà Nugpour, trong hàng ngũ đảng viên chỉ còn thấy lác đác ít người bận Âu-phục, còn thì đa số đã trở về với cách phục sức cổ truyền. Cuộc bàn cãi cũng không mấy khi còn dùng tiếng Anh. Đại-biểu các giai-cấp trung lưu nhiều hơn mọi năm. Những đảng viên quý tộc hay phú hộ dù bị lấn át cũng không lấy làm phật ý: họ rất kính phục ông đã gây được ở dân chúng một sức mạnh họ chưa từng thấy bao giờ.

Điều đó không có gì khó giải. Cam-Địa thuộc về giai-cấp trung lưu. Ông dễ gần dân chúng hơn các vị lãnh tụ khác của Đảng Quốc-Hội. Dân chúng lâu dần coi ông như một người trong giai-cấp họ. Ngoài sự tôn sùng, họ còn luyến ái ông như ruột thịt. Họ nghe ông vì họ yêu ông, không muốn ông buồn phiền. Còn các lãnh tụ cùng ông chỉ dẫn phong trào thì ai cũng phải kính phục sức hoạt động không ngừng, đức tính yêu đời cùng lòng tin tưởng vô biên của ông ở chính mình và ở nơi dân chúng.

Trong một quốc gia đã bị kẻ ngoại xâm tước hết quyền hành chính trị, ông tượng trưng cho sức mạnh quần chúng, tượng trưng của hoài bão Tự-do. Dân chúng tôn sùng ông như Trời như Thánh.

Danh từ « bất hợp tác » mới mẻ và giản-dị đã đập mạnh vào trí não dân. Dân chúng đã chán những luận điệu tràng giang đại hải, những danh từ bí hiểm, những cuộc cãi vã không đâu. Trái lại họ hiểu Cam-Địa muốn khuyên họ làm gì. Khi tự ý từ bỏ hết mọi tiện nghi, danh lợi, họ cảm thấy điều họ làm đây là tự ý hy sinh giúp nước, chứ không phải đã bị ai lợi dụng để làm bước tiến thân.

Cam-Địa rất tin tưởng ở khả năng tranh-đấu của người dân, một khi họ muốn. Trong kỳ đại-hội ở Nagpour, ông đoan quyết với đại biểu các địa phương là nếu dân chúng biết áp dụng phong-trào bất hợp-tác, trong vòng kỷ luật, khiến cho người Anh không còn cớ gì đàn áp, thì chỉ trong một năm, sẽ lấy lại được quyền tự trị. Ông nói một cách thiết-tha, đến nỗi ai nấy đều có cảm tưởng rằng nếu không gia nhập phong trào, thì sẽ mang suốt đời cái trách-nhiệm đã làm chậm giờ giải-phóng của quốc-gia. Tự mình nêu gương trước, Cam-Địa gửi trả Phó-vương Ấn-Độ hai tấm huy-chương cùng là tấm bài vàng mà Chính-phủ Anh tặng ông để khen thưởng công cuộc nhân đạo ông đã thực hiện ở Nam-Phi. Một số lớn người Ấn trả lại văn bằng, chức sắc. Motilal-Nehru, một trạng sư danh tiếng, cũng tự ý đóng cửa văn phòng, không quản thiệt hại, vì không muốn biện luận trước các toà án Anh.

Con ông là Yaouaharla, C.R.Das, trạng sư ở Calcutta, Vallabhbhai Petel cùng hàng ngàn luật sư khác cũng thề không bước chân vào những Toà-án của người Anh nữa.

Vô số sinh-viên bỏ học, dù phần lớn đang học những trường chuyên nghiệp. Họ đã hy-sinh cả nghề nghiệp sau này. Nhưng người Ấn mở trường riêng để dạy lẫn cho nhau học. Tilak chết chưa bao lâu, thì một Cao-đẳng học-hiệu mang tên ông đã mở cửa đón tiếp hết thảy những sinh-viên vừa tẩy chay các học đường Anh. Kẻ giầu, người nghèo thi nhau giúp tiền vào công cuộc ấy.

Đồng thời những người đang theo đuổi các nghề nghiệp tự do ở tỉnh thành cũng bỏ nghề, trở về sống lẫn lộn với dân quê, tập sống lầm than như họ, và dạy lại họ những điều hiểu biết của mình. Mỗi người là một cán-bộ tuyên-truyền không tiếc sức. Người dân quê chất-phác không đi sâu vào lý-thuyết, nhưng họ ưa cuộc sống mới lạ, từ nay không đóng thuế, và nhất là không uống rượu để khỏi làm giầu cho túi tiền người Anh, và khỏi làm suy yếu giống nòi.

Về phần Cam-Địa, ông cũng đi khắp mọi nơi hang cùng ngõ hẻm đem tới cho dân quê những lời nồng nhiệt cùng tấm lòng tin-tưởng vô biên của ông. Mỗi ngày, hàng vạn người chẳng quản nắng mưa, im lặng-tụ họp quanh ông để cố nghe cho được một lời ông nói. Hồi ấy làm gì có máy phóng thanh. Song mắt họ chỉ cần in kỹ hình ảnh của ông, là cái nụ cười nhân hậu của ông sẽ mãi mãi phảng phất bên mình họ, truyền nhập cho họ đức tính yêu đời, lòng hy vọng và gan chịu đựng không hề than thở. Những người bị đám đông dồn ra xa, tuy không trông rõ dung nhan ông, song trí óc họ cũng đã thâu nhận được luồng tư tưởng của ông. Vì ông là một bậc Thánh kia mà? Ví dù ông có là một bức thần-tượng bất-động chăng nữa, họ cũng còn đến được gần ông với một lòng tin kia mà! Huống hồ chính ông lại không quản ngại nắng mưa, lầm lũi đến tận nơi xóm thôn hẻo lánh của họ, mà an ủi vỗ về, hơn nữa, dạy cho họ một đạo sống cao-siêu sẽ giải thoát họ khỏi kiếp trâu ngựa kéo dài từ đời này sang kiếp khác. Bẩy tháng trời đằng đẵng, ông đi khắp nước, trên đoàn tàu đầy than bụi, chốc chốc lại phải dừng bánh để cho hàng đoàn người đông như kiến cỏ bám quanh các toa, trèo lên nóc, chui qua cửa sổ để vào nhìn mặt Thánh, hôn chân Thánh. Có nơi, dân chúng nằm ngang đường sắt để buộc Thánh phải dừng gót lại, cho họ được chiêm ngưỡng dung nhan. Có hôm, giữa nửa đêm, tiếng bánh xe hãm ghê rợn trên đường sắt đánh thức Cam-Địa dậy thì ông nghe thấy muôn vạn tiếng hô. Chưa hiểu việc gì xẩy ra, ông vừa ló đầu khỏi cửa toa thì cả đám đông đang ồn-ào hỗn-độn ấy bỗng im lặng, và quỳ xuống trước mặt Thánh. Có tiếng nức nở của những người không cầm được lòng cảm xúc.

Suốt bẩy tháng trời vất vả nay đây mai đó mà mỗi ngày Thánh chỉ dùng 3 bữa cơm, mỗi bữa một tách sữa dê, ba khoanh bánh khô, 2 trái cam và chừng vài chục quả nho.

Bạn đồng hành của Thánh là Mohammed Ali, lãnh tụ Hồi. Tới đâu, hai ông cũng hô hào rằng muốn giải phóng nước nhà, trước hết hãy tập giải-phóng mình khỏi những tục lệ của người Anh đã. Các ông khuyên dân chúng nên bỏ tục-lệ mặc Âu-phục như người Anh. Mọi người vỗ tay tán thưởng, thì Cam-Địa yêu cầu cử toạ hãy thực hành ngay ý định mà trút hết quần áo tây vứt ra để ông tiêu huỷ. Chỉ nháy mắt, áo quần, giầy mũ, bít-tất, quần đùi, cà-vạt đã chất thành đống cao như núi. Cam-Địa thân vứt vào đống tàn tích ấy một que diêm. Rồi trong khi ngọn lửa lem lém thiêu hoá những thứ hàng len dạ ấy, Cam-Địa khuyên nhủ mọi người hãy tỏ ý định tự-lập, tự-cường, mà bỏ hết bất cứ một thứ hàng ngoại quốc nào trong việc ăn mặc. Các bạn hãy tự dệt lấy vải, tự may lấy áo mà mặc! Ông cũng đã dệt thạo rồi. Mọi người hãy theo ông, mỗi ngày bỏ ra nửa giờ trước bữa ăn, để tập dệt. Chỉ ít lâu sau, nơi nào ông đi qua thì không còn bóng dáng người Ấn nào vận Âu-phục. Lâu dần, không ai dám đến trước mắt ông với bộ quần áo người Âu nữa.

Nhưng trong khi đi hô hào người Ấn tẩy chay hàng Anh, ông không quên mục-đích thiết-thực đang theo đuổi là tuyên-truyền sâu rộng ảnh hưởng của Đảng Quốc-hội vào mọi tầng lớp dân chúng, nhất là nông dân. Đi đến đâu, ông cũng hội họp những người tiếng tăm trong vùng, giảng giải cho họ sự cần-thiết phải lập những chi-nhánh địa-phương, để hoạt-động theo mệnh lệnh từ Trung-ương phát ra, để phong-trào tiến hành một cách duy nhất và lâu dài. Ông tuyển những thiếu niên hăng hái từ 13 đến 19 tuổi, cho ăn mặc y phục ngắn đồng mầu, họp thành từng tốp, kỷ luật nghiêm minh để giữ gìn trật-tự trong các cuộc hội họp dân chúng. Ông vẽ cho chúng một huy hiệu: lá cờ của Đảng Quốc-hội, trung tâm mang hình một khung dệt. Đồng thời, ông vẫn viết báo tuyên-truyền. Dù ở nơi nào cũng thế, mỗi tuần ông theo lệ viết hai bài, một bằng tiếng Anh, một bằng tiếng Ấn, để đăng trong hai tờ tạp chí ông xuất-bản, là tờ India, viết bằng Anh-văn, và tờ Navayivan, viết bằng tiếng bản xứ. Hai tờ báo đó, xuất bản năm 1919, là những cơ quan riêng, ông dùng để truyền-bá tư-tưởng.

Bấy giờ, năm đã hầu tàn, mà nền tự-trị ông hứa cùng quốc dân chưa thấy dấu hiệu gì chứng tỏ là thực hiện tới nơi.

Một buổi chiều tháng chín, Cam-Địa đang cùng người bạn tranh đấu là Mohammed Ali tới nơi hội họp dân chúng, thì một tốp cảnh-sát Anh bắt Mohammed Ali điệu đi. Mấy hôm sau, người anh nhà lãnh-tụ Hồi-Hồi là Chaoukat cũng bị bắt nốt. Cả hai đều bị tuyên án 2 năm tù, vì tội hô hào dân Hồi-giáo tẩy chay việc đi lính cho Anh.

Tại sao người Anh cho bắt anh em Ali? Vì lúc bấy giờ ở miền duyên hải xứ Ma-La-Bà, dân Hồi bản xứ đang ra mặt chống lại chính-phủ địa phương Anh, và người Anh thì xui bẩy người Ấn chống lại người Hồi, nên giữa Ấn và Hồi đã xẩy ra nhiều vụ xung đột. Hai anh em nhà lãnh tụ Hồi đang định thân đến hoà giải hai dân tộc, để họ khỏi mắc mưu người Anh mà đánh lẫn nhau khiến bỏ lãng cả công cuộc chung đang theo đuổi, thì người Anh cho bắt anh em Ali để ngăn trở không cho họ đến Ma-La-Bà.

Những việc xẩy ra làm Cam-Địa rất lo âu, vì ông cho rằng nếu hai dân tộc Ấn và Hồi mà chia rẽ, thì không sao chống lại được với người Anh. Để lãng quên, ông đặt hết tâm trí vào công cuộc thúc đẩy dân chúng tẩy chay hàng ngoại hoá. Việc đó trở nên một ám ảnh với ông. Ông muốn rằng trong sự ăn mặc, người Ấn chỉ dùng toàn đồ nội hoá may lối cổ truyền. Nêu gương trước tiên, ông trút bộ quần áo vải thô ông còn mặc, để khoác một tấm phá độc nhất bằng vải thô dệt lấy, quần ngang hông ; Rồi ông ở trần, đầu không mũ, vác trên vai một cái đẫy đựng bút mực giấy má, chuỗi tràng hạt, vài thứ đồ cần dùng cùng vài món lương khô. Cứ thế ông đi lang thang cổ võ cho phong trào bất hợp tác. Ông vui vẻ tự ví với kẻ ăn xin, tay chống gậy, vai vác bị, lê gót trên đường.

Cách phục sức của ông làm cho các đồ đệ vừa tức cười vừa giận. Nhưng nào ông có chú ý. Ông quấn phá đến Bombay dự cuộc hội họp sôi nổi của các lãnh tụ chính trị toàn cõi, để ấn định phương-sách đối phó với Anh. Ngày 5 tháng 10, Uỷ-ban chấp hành Đảng Quốc-hội quyết nghị rằng:

« Bổn phận mỗi người Ấn, dù quân nhân hay tư nhân, là phải tức khắc thôi hợp tác với người Anh để về tìm cách khác sinh nhai ».

Đó là một lời kêu gọi đào ngũ không hơn, không kém. Chính anh em Ali cũng bị bắt vì những lời tương tự.

Thi hành luôn điều quyết định, các lãnh-tụ Đảng Quốc-hội trả lại chức tước cho người Anh rồi ai về địa phận người ấy, cầm đầu phong-trào không hợp-tác.

Giữa lúc tinh thần đôi bên cùng căng thẳng, thì Thái tử Anh sang Ấn. Nhà cầm quyền người Anh bẽ bàng tức giận, về nỗi dân Ấn không chịu tham dự cuộc đón tiếp. Không có một bóng dân trên con đường Thái tử đi qua. Họ rút vào trong nhà đóng cửa kín mít. Các cửa hiệu không bán hàng. Chợ không họp. Tại Bombay, những người Ấn xu nịnh, chờ nghênh đón Thái-tử Anh, bị dân chúng đánh dừ tử. Cam-Địa khản tiếng kêu gào dân chúng bình tĩnh đừng đổ máu. Ông nhịn ăn cho đến khi những cuộc bạo động chấm dứt mới thôi.

Chính-phủ người Anh bấy giờ nhất quyết ra tay hành động. C.R.Das, Motilal Nehru, Laypat Rai và hàng trăm đảng viên cao cấp khác của đảng Quốc-hội bị đem đi an trí. Tháng chạp năm 1921, Đảng Quốc-hội nhóm đại hội thường niên ở Ahméhabad trước những hàng ghế thưa thớt. Tính đến hôm ấy, 20 ngàn đảng viên đã bị cầm tù vì tội bất hợp tác, hay là xui dân làm phản. Khoá ấy Cam-Địa được bầu làm Uỷ-viên chấp hành độc nhất của Đảng.

Tới tháng sau, thêm 10 ngàn người Ấn bị tống giam về tội chính trị. Tại nhiều tỉnh, người cầm đầu phong trào đã bị bắt mà dân quê vẫn tiếp tục không nộp thuế. Công chức Ấn bỏ việc không kể xiết.

Chính phủ tức thì tăng thêm sự đàn áp. Cam-Địa cực lực phản đối những vụ bắt bớ giam cầm.

Thế là dân chúng lại trải qua một năm 1921 với những sự khổ cực vô biên, mà chưa thấy bóng hình nền tự-trị. Lại thêm sự chia rẽ đã phát hiện trong hàng ngũ Đảng Quốc-hội. Khuynh-hướng bạo-động dần dần lấn bước. Người ta ra mặt chế riễu đường lối tranh-đấu của Thánh. Họ cười Thánh hãy còn mải thú vui dệt vải, và chỉ chăm lo vào việc ăn uống tiết-độ thế nào cho bộ máy tiêu-hoá được khoẻ mạnh. Nghi ngờ sự hiệu quả của những cuộc khẩu chiến cùng bút chiến của Thánh, họ đòi phải thay chính-sách, vì thái-độ ôn hoà không đưa đến đâu. Cam-Địa cố can ngăn.

Ông nói: « Người bất hợp-tác còn can-đảm hơn người bạo-động nhiều », hoặc « Người Ấn còn nhiều sứ-mệnh cao cả khác phải theo đuổi, chứ đâu chỉ có mục-đích trừng-trị những kẻ độc-ác trên đất này? »

Ông còn viết: « Bản ngã con người là sự ôn-hoà mực thước, còn hung-bạo chỉ là bản năng của con vật. Nếu bắt buộc phải dùng đến khí giới, thì ví dù chúng ta có thắng chăng nữa, lòng tôi cũng không thoả nguyện. Tôn-giáo không dạy ta ghét bỏ người ngoại quốc. Tôi còn để lòng nhân lên trên lòng yêu nước của tôi ».

Xem thế, ông thực đã trái hẳn với những người yêu nước thiển cận.

Muốn hiểu Cam-Địa đức độ là dường nào, ta đừng quên rằng nếu người Anh giữ trong tay Công-an và quân-đội, thì Cam-Địa lại có một thứ khí-giới ghê gớm hơn nữa, là hơn ba trăm triệu người, lòng tức giận đang sủi như chảo dầu sôi, chỉ một hiệu lệnh phát ra là lao đầu vào vòng chiến. Liệu một nhóm người Anh trong cái bể lửa ấy sẽ chống cự được bao lâu?

Cũng như Cam-Địa, Reading, Phó-vương Ấn là người đã tự tạo lấy đời mình. Lăn lộn đã nhiều, nên kiến-thức ông rộng-rãi, chứ không bo bo một mớ thành-kiến lạc-hậu như những nhà cầm quyền trước. Sinh ra trong một gia đình nghèo người Do-Thái, ông ta đã từ một chân bồi tầu lên đến chức Tổng-trưởng, rồi Phó-vương, trong triều đình Anh, mà hoàn toàn chỉ nhờ vào sức vóc của đôi tay và khối óc.

Bởi thế, các viên thuộc quan người Anh đã ngạc nhiên xiết bao khi thấy ông mời Cam-Địa gặp ông để trao đổi ý kiến.

Mọi người có ý không muốn cho Cam-Địa gặp Phó-vương, e rằng ông có thể bị Reading lung-lạc chăng? Nhưng ông không ngần ngại.

« Chúng ta có thể chống lại những biện-pháp, những chính-sách, nhưng không bao giờ nên công-kích cá-nhân. Chúng ta đã phải là những người gương mẫu chưa mà dám khắt-khe suy xét người ngoài? Nhất là lý do hành-động của người, dân ta đã biết? » Ông trả lời họ thế.

Reading từ lúc mới sang nhậm chức, vẫn ước ao có dịp được gặp Cam-Địa, mà ông cho rằng: « Có lẽ là một tay kiệt liệt lắm ».

Gặp Cam-Địa rồi, ông viết cho con:

« Cha đã gặp Cam-Địa cả thảy 6 lần. Bề ngoài ông không có gì là đặc biệt. Ông ta đến, chỉ vận… độc một chiếc phá bằng vải thô quấn ngang người, và đội một chiếc mũ dệt bằng tay, còn thì mình để trần và chân dẫm đất. Nhưng đến khi ông ta nói, thì khác hẳn. Ông ta dùng tiếng Anh rất đúng mẹo, và cân nhắc từng câu từng chữ ý nhị vô cùng. Ý kiến tỏ bầy có vẻ rất thành thực. Nhất là khi bàn về những vấn đề tôn-giáo, ông ta tin tưởng một cách gần như cuồng dại rằng phong-trào bất hợp-tác cùng với bác-ái của quần chúng chắc chắn sẽ giải-phóng được nước Ấn. Những ý kiến về tôn-giáo và luân-lý của ông rất siêu-việt, song cha không hiểu cách thức ông ta sẽ áp dụng vào việc tranh-đấu chánh trị ra sao? Chúng ta đã đàm đạo với nhau một cách rất cởi mở. Cam-Địa tỏ ra có lễ-độ lắm, và dáng-dấp quả là con người lịch-sự ».

Reading không hiểu đường lối chính-trị của Cam-Địa, điều đó không có chi là lạ. Thánh Cam-Địa bầy giải với Phó-vương những phương sách ông sẽ dùng để thắng người Anh:

« Phong-trào chúng tôi đang theo đuổi – lời Cam-Địa – là một phong-trào tôn-giáo, có mục-đích tẩy-trừ ở người Ấn tất cả những sự thoái hoá đáng khinh, như sự lọc lừa, khủng-bố và cái tâm-lý kém hèn của dân quê trước người da trắng ».

Vậy Cam-Địa quy hết khả-năng tranh-đấu của dân tộc vào công cuộc cải-tạo tinh-thần ; Việc xua đuổi người Anh đi không còn là mục-phiêu tối-cao nữa vì tự nó sẽ xẩy đến một khi dân tộc Ấn thực hiện được cuộc cách-mạng tinh-thần. Bởi thế, người Ấn sẽ từ chối không hợp-tác với người Anh, song sẽ tránh không dùng bạo-lực.

Nhiều người Ấn không tán thành chính-sách của Cam-Địa, song họ phục ông và quý ông, lại phải công nhận ảnh-hưởng lớn lao của ông trên quần chúng, nên đành khuất-phục trước ý kiến ông. Song, họ lấy làm lạ là tại sao ông chưa ra lệnh phát-động phong-trào bất hợp-tác trên toàn cõi? Ngày 4 tháng 11 năm 1921, ban chấp-uỷ Đảng Quốc-hội chẳng đã chấp-thuận một bản kiến-nghị yêu cầu áp-dụng một phương-sách tương tự đó sao? Nhưng Cam-Địa buộc các lãnh-tụ phải cam đoan không được hành-động gì trước khi có sự thoả thuận của ông.

Cam-Địa định thí-nghiệm phong-trào bất hợp-tác toàn thể ở từng vùng một. Ông chọn vùng Bardoli, một quận độ 87.000 dân, ở gần Bombay. Trước hết, ông muốn tự mình chỉ-huy và kiểm-soát được phong trào vì e rời mình ra thì lại xẩy những sự bạo động đáng tiếc. Ngày 1 tháng 2 năm 1922, ông báo cho Reading biết trước ngày phong-trào sẽ nổi.

Tại sao ông chỉ quy hẹp phong-trào vào một vùng nhỏ bé như Bardoli?

Vì Cam-Địa tin tưởng rằng phong-trào bất hợp tác sẽ thắng nếu được chỉ huy và coi sóc cẩn thận, chứ quy mô của phong-trào chỉ là điều phụ. Phong-trào chỉ làm cho người Anh lo sợ, nếu có một sự thuần nhất đặc biệt, phản-chiếu ý chí đoàn-kết của dân chúng. Ngoài ra, dù chỉ có 100 ngàn người tham dự phong-trào, liệu người Anh có dám giết hết 100 ngàn người một lúc, hoặc có đủ nhà lao để giam hết lại chăng?

Vả lại, mục đích cuộc tranh đấu của Cam-Địa đâu phải là đánh quỵ Đế quốc Anh. Ông biết rằng muốn đạt mục đích ấy, phải dùng đến máu và sắt, tức là làm khổ dân Ấn một cách vô ích. Lại còn tai hại về sau nữa. Lẽ dĩ nhiên bên nào cũng phải đưa ra những kẻ cầm đầu quyết liệt, nghĩa là không bận tâm về những ý tưởng danh-dự và nhân-đạo, và không ngần ngại áp-dụng những phương-sách vô nhân-đạo. Như thế, dù bên nào thắng, cả hai dân tộc và cả thế giới đều phải chịu một sự thiệt hại thảm khốc vô cùng.

Bởi thế Cam-Địa chọn quận Bardoli làm trung tâm thí-nghiệm để tỏ cho người Anh biết rằng họ không thể vì cớ bất hợp tác mà bắn giết những dân cư hiền lành, lương-thiện, biết trọng kỷ-luật như dân Bardoli. Bao giờ Cam-Địa cũng muốn dẫn-dụ địch, đánh vào lương tâm cùng tình cảm họ. Ông không thích trông thấy cảnh máu chảy thịt rơi giữa hai địch thủ.

Vậy Bardoli đã sẵn sàng phát động phong-trào vào nhật kỳ đã định, thì việc xẩy ra làm đảo lộn cả chương trình hành động của Cam-Địa. Ngày 5 tháng 2, tại Chaouri Chaoura, cách Bardoli 800 dặm, máu lại chảy giữa người Anh và người Ấn. Cam-Địa thuật lại việc đó trong tờ Young India ngày 16 tháng 2:

« Dân chúng đang đi rước trong thành phố thì bất chợt cảnh sát ngăn những kẻ chậm chạp chưa theo kịp đám đông lại mà hành hung. Họ kêu cứu rầm rĩ. Dân chúng tức thì quay lại. Bọn cảnh sát Anh liền nổ súng. Dân phát điên, cứ tiến bừa lên. Hết đạn, lính trốn vào Tòa Thị-sảnh. Dân đốt nhà Thị-sảnh. Lính bị hun, chạy ra người nào thì bắt giết người đó, và dân chúng ném xác vào đống lửa ».

Cam-Địa rất dỗi buồn phiền về cuộc đổ máu. Ông kêu lớn:

« Không một lý do gì có thể rửa sạch vết nhơ trong lương tâm dân chúng đã đang tâm giết một nhóm người không còn khí giới ».

Theo ông, đó là một điềm gở cho phong-trào sắp phát động.

Ông liền ra lệnh bãi bỏ phong-trào bất hợp-tác ở Bardoli:

« Thà rằng bị chê cười hèn nhát, cũng còn hơn là phạm vào lời chúng ta đã thề nguyện với lương tâm là không bao giờ làm trái đạo Trời ».

Mấy nhân viên Ủy-ban Chấp hành Đảng không đồng ý với ông, Ông cũng nhất định với họ rằng sự đảo lộn bất ngờ đó rất hại cho uy-tín của Đảng, song ông tin rằng ông đã làm phải, trên lập-trường tôn-giáo. Theo ông, vụ Chaouri Chaoura đã cho ta thấy rõ con đường mà Ấn-Độ sẽ theo (nghĩa là con đường bạo động), nếu ta huy động những khối lớn dân chúng mà chưa đủ phương sách ngăn ngừa những phần tử vô trách nhiệm lẩn lút trong đám đông xui bẩy quần chúng làm điều tai hại. Đảng Quốc-hội có bổn phận hãy tự dạy dỗ mình dạy dỗ quần chúng trước đã.

« Riêng tôi – Cam-Địa – tôi phải nhịn ăn để sám hối những điều xảy ra mà tôi đã không biết liệu định, ngăn ngừa nổi. Tôi cần phải thanh sạch trong mình để lập được cho linh hồn những sợi dây cảm thông với linh hồn quần chúng, ngõ hầu linh cảm được mọi điều biến đổi trong linh hồn đó để liệu trước mà ngăn ngừa ».

Giữa lúc ấy, bên phía người Anh, cũng có sự bất đồng ý kiến giữa các nhà cầm quyền về việc đối phó với phong trào bất hợp tác sắp phát động tại Bardoli. Nhiều người đòi bắt giam ngay Cam-Địa vì họ cho rằng sự bất hợp tác chỉ là mưu gian che đậy một vụ nổi loạn toàn thể. Nhưng Phó-vương Ấn thận trọng hơn. Những bài diễn văn nẩy lửa của Cam-Địa chưa làm ông quan tâm. Ông đợi khi nào Cam-Địa hành động, nghĩa là khởi phong trào bất hợp tác, mới liệu định ; Nhưng ông không vì thế mà tỏ ra kém cương quyết. Ông tuyên bố là nếu cần, ông sẽ sẵn sàng chịu trách nhiệm về việc bắt Cam-Địa.

Tuy nhiên, dưới áp lực của viên Bộ-trưởng Ấn-Độ vụ, Reading đành phải hạ lệnh bắt Cam-Địa. Cam-Địa vui vẻ theo nhân viên Cảnh sát vào nhà ngục tỉnh Sabarmati. Về phần Lord Reading, ông cũng được yên lòng vì không thấy dân chúng tỏ phản động lực gì về việc Cam-Địa bị bắt. Thực ra, về phương diện chính-trị, Cam-Địa đã hớ khi bãi bỏ phong trào bất hợp tác ở Bardoli. Ông đã hạ khí giới để cho người Anh được tự do bắt mình. Nhưng đã từ lâu ông biết thế nào cũng có ngày này, nên ông đã sửa soạn dân chúng trong nhiều bài báo. Ông khuyên họ nên nhẫn nại. Trong số báo ngày 9 tháng 3 của tờ Young India, ông viết:

« Những suối máu chính-phủ khơi ra không làm tôi sợ hãi, nhưng tôi sẽ buồn phiền biết bao, nếu dân chúng vì cảm tình với tôi mà nổi loạn chống lại chính-phủ. Tôi không muốn thấy dân chúng mất bình tĩnh chỉ vì tôi bị bắt ».

Ra trước Tòa án, ông bị buộc tội đã viết 3 bài báo xúi gục dân chúng nổi loạn. Vì thế ông S. G. Banker, chủ nhà in, người ấn loát tờ Young India, cũng bị buộc tội đồng lõa với Cam-Địa. Phiên tòa cực kỳ sôi nổi. Quân lính được lệnh canh phòng nghiêm mật khắp nơi. Sau khi đọc bản cáo trạng, quan Tòa hỏi Cam-Địa có muốn tuyên bố gì không? Ông bèn đứng lên dõng dạc tố cáo lại những người vừa buộc tội ông. Ông nói rõ nguyên do làm sao đặng là một công dân trung thành, đầy lòng tin tưởng ở tình thân Anh-Ấn mà đến nỗi phải chủ trương bỏ hết mọi sự hợp tác với người Anh. Ông nhắc lại những hành vi của người Anh ở Nam-Phi. Hành vi đó đã làm ông phải nghĩ. Phải chăng chỉ vì ông là người Ấn nên không được hưởng một quyền lợi nào của người dân tự do chăng?

Tuy nhiên, không vì thế mà ông thôi hợp tác với người Anh, hai lần ông tình nguyện đầu quân và mộ lính cho Anh. Ông tin tưởng rằng làm như vậy sẽ cảm hóa được lòng người Anh, khiến họ sẽ tự ý cởi mở gông cùm cho đồng bào ông vậy. Song từ năm 1919 trở đi thì luôn luôn có sự đụng chạm giữa hai dân tộc. Tại sao? Vì người Anh càng ngày càng có cử chỉ khinh miệt người Ấn nào là vụ tàn sát ở Yallianoualla, nào là những đạo luật phản dân chủ Rowlatt, nào là cách báo thù hèn nhát của Dyer, v.v… Tuy nhiên, ông vẫn cố tin tưởng ở sự thức tỉnh của lương tâm người Anh, một ngày sẽ tới. Vì thế ông mới khuyên dân chúng chấp nhận các đạo luật cải cách Montagu Chelmoford. Nhưng ông đã tốn công vô ích. Và nay ông đã phải đi tới kết luận là sự hợp tác với người Anh chỉ đem lại cho dân tộc Ấn những mầm thất vọng sâu cay, người đã làm cho Ấn suy nhược, đến nỗi một xứ đất đai rộng lớn phì nhiêu, dân cư chăm chỉ hiền lành như Ấn mà mỗi năm phải hiến cho Thần Đói hàng triệu sinh linh. Những việc người Anh đã làm tại Ấn là những tội phạm đối với nhân loại. Rồi ông tiếp:

« Tôi vinh dự vì được kết án về tội đã viết những bài báo đó. Và tôi nhắc lại rằng tôi nhận hết tội lỗi, cái tội đã đoan quyết với dân tộc tôi rằng sự bất hợp tác với kẻ ác còn là một bổn phận ngặt nghèo hơn là hợp tác với người ngay ».

Kết luận, ông đòi được xử với tất cả nghiêm ngặt của luật pháp.

Sau khi ông ngồi xuống thì thẩm phán Anh đứng lên, nghiêng mình về phía ông mà nói:

« Mặc dầu luật pháp không biết phân biệt cá nhân những kẻ tội phạm, tôi cũng xin nói với ông rằng tôi không thể nào không nhận thấy ông đã được hàng triệu đồng bào ông coi như một nhà ái quốc nồng nhiệt, và một vị lãnh đạo siêu quần. Và chính những người không đồng quan điểm với ông như chúng tôi đây, cũng phải nhìn nhận rằng ông đã phụng sự những tư tưởng cao siêu, và đã có một quan niệm trác việt về đạo nhân sinh ».

Rồi ông tuyên án phạt Cam-Địa 6 năm tù giam. Ông Banke, ấn loát tờ Young India, cũng bị phạt 1 năm tù và một ngàn đồng Roupies tiền vạ.

Sau khi nghe tuyên án, Thánh Cam-Địa đứng dậy, và nói rằng ông rất vui mừng thấy pháp-luật người Anh đối với ông ôn hòa đến thế, Ông lại trân trọng cảm ơn thái độ hòa nhã của quan Tòa.

Khi các viên thẩm phán rời khỏi phòng án, thì dân chúng đổ xô lại phục dưới chân ông. Có người bíu gấu áo ông mà khóc nức nở. Sau khi an ủi mọi người, ông theo lính gác xuống nhà giam, trên môi vẫn không rứt nụ cười hiền hậu.

Vì ông coi thường sự giam cầm. Ông còn yêu thích nhà giam là đàng khác nữa. Tù tội là một trong những căn bản nền móng của thuyết bất hợp tác. Ông thường nói:

« Chúng ta hãy yêu cầu mở rộng cửa nhà giam, để chúng ta bước vào với tất cả tấm lòng hân hoan của chàng trai vén rèm bước vào buồng cưới. Nhà giam chính là nơi mà dân tộc chúng ta hun đúc rèn luyện ý chí để đấu tranh ».

Cho nên người Anh càng làm tù ông bao nhiêu, ông càng vỗ đùi khoái chí bấy nhiêu.