← Quay lại trang sách

Chương 17 BỆNH NÃO VÀ TUYỆT THỰC

ĐÊM hôm 12 tháng giêng năm 1924, Thánh Cam-Địa được chở từ nhà ngục Yeravda đến nhà thương Sasseon của thành phố Paona. Các thầy thuốc xem thấy ông mắc bệnh đau ruột thừa, và cần phải mổ ngay thì mới sống được.

Người ta chỉ còn nhờ các nhà giải-phẫu Ấn ở Bombay đến mổ cho ông. vì nhà đương cuộc Anh tỵ hiềm, không muốn để cho Anh mổ, e xẩy việc thì gây sự nghi ngờ trong trí óc quần chúng Ấn. Song vì bệnh cấp quá nên viên thầy thuốc Anh là Đại-tá Maddock nhận trách nhiệm mổ lấy cho ông vậy.

Trong khi đang mổ, thì trời nổi cơn giông bão, các đèn đều tắt. Còn chiếc đèn bấm, thì dùng một lúc lại hết điện. Về sau, phải nhờ đến ánh sáng một cây đèn bão, thầy thuốc mới làm xong được nhiệm vụ.

Cuộc cấp cứu đã có kết quả hoàn-toàn mỹ-mãn, và Cam-Địa nhiệt-thành cảm tạ viên thầy thuốc Anh đã cứu sống ông. Song vì ông yếu quá, nên vết mổ thành nhọt, mãi mới hàn khỏi, nên Chính-phủ Anh quyết-định tha ông, để khỏi mang trách nhiệm làm chết ông trong nhà giam.

Được trả trự do, Cam-Địa liền chọn một nơi bờ biển mát mẻ quang-đãng gần Bombay để làm nơi tĩnh dưỡng. Ở đây, ông vui chơi đàm-đạo cùng các đồng chí và các đồ-đệ quây quần tụ họp quanh ông. Từ xưa, ông vẫn thích nghề làm thuốc. Nay đang dưỡng bệnh, lại gặp lúc rỗi rãi, ông bèn đứng ra làm thầy lang chữa bệnh cho các đệ-tử ốm-yếu. Ông bắt họ đắp nước lạnh dán cao, và ăn những món kiêng khem kỳ cục. Những người ốm, và cả ông nữa, đều thấy sức lực trở lại dần dần, có lẽ không phải vì thuốc, mà là vì được ở nơi thoáng khí, tinh-thần sảng khoái bởi sự nói cười vui vẻ.

Ông lại dần dà trở về con đường tranh-đấu. Các lãnh-tụ Đảng Quốc-hội như C. R. Das và Matilal Nehru thường đến Yenhere luôn để thảo-luận với ông về tình hình trong thời gian 22 tháng ông vắng mặt. Bấy giờ tình thân mật giữa người Ấn và người Hồi, mà Cam-Địa đặt tất cả hy-vọng tương-lai, nay đã trở nên tình thù ghét. Trước kia, phong-trào nâng đỡ ngôi Thổ-nhĩ-kỳ làm hai bên kết, song phong-trào ấy đã tận chung bởi tay Mustapha Kemal Pacha đã bãi bỏ quốc-vương để làm người chủ mới của nước Thổ-nhĩ-kỳ. Kemal là một chính khách rất khôn ngoan. Ông phát động phong-trào duy-tân, để đế-quốc Thổ-nhĩ-kỳ thành một nước cộng-hòa tân-tiến theo kiểu mẫu các nước Tây-phương. Quốc-vương Thổ đã mất ngôi, thì phong trào cũng có ngôi-báu Thổ-nhĩ-kỳ cũng mất lý do tồn-tại. Và khi phong-trào đó thở hơi cuối cùng, thì sự liên kết giữa người Ấn và người Hồi cũng suy yếu dần, và không bao lâu thì sự tranh chấp cổ truyền giữa hai tôn-giáo lại bắt đầu xuất hiện.

Một mặt khác, phong-trào bất hợp-tác cũng tàn lực mất rồi. Một nhóm luật-sư đã công nhiên mở cửa văn phòng của họ. Có kẻ lại tiếc là bị thiệt hại quá nhiều trong thời kỳ tự ý bỏ khách, về quê. Hàng trăm học sinh nam nữ ngày ngày trở lại xin tái nhập học đường. Ngay chính các đảng viên Đảng Quốc-hội, những người chủ xướng phong-trào, cũng tỏ vẻ muốn trở lại những ghế đại-biểu của của họ ở các hội đồng hành chính hay lập pháp, để có thể phá rối một cách công nhiên những đề án của chính-phủ đưa ra bàn cãi.

Bởi thế, cuối năm 1922, Das và Metilal Nehru khởi xướng một phong-trào chính-trị mới khác phong trào bất hợp-tác ở chỗ đòi hỏi chính-phủ Anh phải ban hành ngay nền tự-trị ở Ấn. Bị đặt trước sự đã rồi, Cam-Địa phải thỏa-thuận cùng với các lãnh-tụ nói trên về sự dung hòa các quan-điểm hành-động và bất-động. Ông không muốn trong hàng ngũ Đảng Quốc-hội có sự chia rẽ giữa những người bênh vực những quan-điểm khác nhau.

Nhưng Cam-Địa vẫn tin tưởng ở phong-trào bất hợp-tác. Trong báo Young India, ông vẫn khuyên dân chúng tẩy chay các trường học, các tòa án, các công sở, cùng các sự khen thưởng của người Anh. Song đồ đệ ông không còn hăng hái như xưa. Xa ông, chí khí họ đã nhụt. Mọi sự hy-sinh trở nên đau khổ. Trái lại, đường lối của phái Tự-trị do Matilal Nehru và C. R. Das cầm đầu có vẻ quyến rũ hơn nhiều. Họ được tự do tranh cử vào các hội-đồng. Họ được công nhiên bàn cãi và chỉ trích các đề án Chính-phủ đưa ra.

Thấy các lãnh-tụ chính-trị ra khỏi con đường đã cùng nhau thỏa-thuận, ông tự thấy không còn giúp ích được gì cho cuộc tranh-đấu hiện tại nữa, và ông quyết định tạm lánh khỏi trường chính-trị mấy năm để rảnh thì giờ ra dụ dân chúng tự hoán cải đời sống tinh thần, ngõ hầu đúc luyện được cái sức mạnh mà quốc gia trông đợi ở họ. Theo ông, hễ dân tộc Ấn mà trở nên mạnh mẽ mạnh mẽ vì những đức tính trong sạch thanh cao chứ không phải vì lực lượng vật chất thì tức khắc người Anh phải cởi mở cho họ tiến ra ánh sáng Tự-do.

Cam-Địa còn gắng sức hàn gắn lại tinh-thần đã rạn vỡ giữa hai dân tộc Ấn, Hồi. Tất cả số tạp-chí Young India ngày 29 tháng 5 ngày 1924 của ông dành cho vấn đề khẩn trọng đó.

Dưới nhan đề: « Tại sao có tình trạng căng thẳng giữa hai dân tộc Ấn, Hồi? Làm cách nào giải được sự hiểu lầm? », ông lần lượt trình bày những điều người Ấn trách ở người Hồi, và những điều trách móc của người Hồi đối với người Ấn. Rồi ông nhắc độc giả chú ý tới những cuộc xô xát giữa hai dân tộc. Ông cho là bởi dân chúng xa lìa phong-trào bất hợp-tác nên mới xẩy ra các việc đó. Phong-trào bất hợp-tác là sợi dây buộc giữa hai dân tộc. Nếu rứt bỏ nó đi thì làm chi mà chẳng sinh ra mâu-thuẫn. Tình trạng hiện tại là một triệu chứng tỏ rõ cho ta biết hễ xa phong-trào bất hợp tác dân chúng trở lại với bản ngã bạo động rồi. Rồi ông hỏi ; làm cách gì để dân chúng trở lại với lòng tin tưởng ở phong trào bất hợp tác? Và trả lời: Cứ hành động rồi sẽ tin. Dân chúng cứ bất hợp tác đi rồi sẽ thấy ngọn lửa thiêng của lòng tin tưởng lại nhóm cháy trong lòng.

Bài báo của Cam-Địa dài 6.000 chữ, và chứa chấp tất cả lòng ông, Ông tin ở tình thân mật thiên nhiên của hai dân tộc đối với nhau. Họ không thể nào ghét bỏ nhau mãi được. Tại sao? Bởi vì họ cùng là người cả, mà giữa loài người và loài người, thì ghét nhau làm sao được. Chúng ta không thể giết nổi được một loài sinh vật nào, dù nhỏ bé đến đâu, thì ghét sao được người đồng loại của mình.

Tiếp tục xét nhận những điều có thể gây xích mích giữa hai bên, ông nhận thấy điều lỗi ở phía người Ấn nhiều hơn là ở phía người Hồi. Hai nguyên nhân mâu thuẫn lớn nhất là việc giết bò và vấn đề âm nhạc. Ông viết:

« Vẫn biết bò là một loài vật mà tôn giáo bắt buộc chúng ta (người Ấn) phải tôn thờ. song tôi thiết nghĩ can chi chỉ một việc người Hồi giết thịt một con bò cũng làm chúng ta điên cuồng sôi nổi? Các bạn chẳng hàng ngày thấy người Anh giết bò ăn thịt đó sao? Và sao các bạn không phản kháng? Như thế đủ hiểu lấy điều giết thịt một loài mục súc làm điều thù ghét dân Hồi, thì thực các bạn đã ngã vào sự phi lý. Vả chăng, bạn thấy ở các vùng quê ta, hàng đàn bò thả rông, không người chăm nom, trông thực thảm thương? Bạn sùng kính chúng mà lại để chúng đói đến thế ư? Rồi bạn lại đem bán cho người Anh giết thịt, thì có khác chi bạn sát sinh chúng bởi chính tay mình? »

Còn về vấn đề rước sách thì ông lấy làm công phẫn về nỗi người Ấn cứ nhè buổi trưa, trong lúc người Hồi làm lễ cầu nguyện Thánh Allah ở đền, là cố ý rước qua, đàn sáo chiêng trống inh ỏi, gây sự ngăn trở cho những người đang thành niệm.

Nhưng có điều ông quên, hay không muốn nói đến là những nguyên do kinh tế của vấn đề. Bấy giờ, cùng với sự trỗi dậy của mấy chục triệu người Hồi ở Thổ, dưới sự thúc đẩy của tướng Mustapha Kemal, khắp miền Nam-Á, một phong trào Hồi-giáo đang bành trướng, mục đích từ bỏ cuộc đời du mục trên các bãi sa-mạc héo hon, tìm lối len chân vào các tỉnh thành để làm ăn buôn bán, hay kiếm một chức vụ trong các công sở địa phương.

Chúng ta đừng nên quên rằng ở một xứ kinh tế phôi thai như Ấn, những chức vụ công được coi như những địa vị đem lại quyền thế cùng bảo đảm tương lai cho người giữ chức. Lẽ dĩ nhiên người Ấn không ưa gì sự cạnh tranh chớm nở của người Hồi. Lại thêm, và đó là sự thực. họ có một trình độ học thức cao hơn người Hồi, nên thường được ưu thế trong việc tuyển chọn người vào công sở.

Chính Cam-Địa cũng công nhận rằng người Ấn phải được coi trọng hơn người Hồi trong phạm vi này. Ông nói:

« Muốn làm trọn các nhiệm vụ người dân trông cậy ở họ, các ngành hành chính phải do những người tài năng học thức đảm đương. Không có thể có sự nâng đỡ riêng tây, hay sự mặc cả phân chia trong việc tuyển bổ công chức. Nếu chúng ta cần 5 kỹ sư lành nghề, chúng ta không thể lấy ở mỗi phái một người, để làm vừa lòng toàn thể. Chúng ta có thể lấy cả 5 người Hồi, nếu trong số người Ấn và người Parsi không có ai tài giỏi ».

Ngoài ra, ở cái xứ mà ánh nắng thiêu đốt kích thích mọi tâm trí đến cực điểm, nhất là những thành phố lớn như Bombay, Calcutta mà hàng triệu người chen chúc trong mọi kẽ ngách, chỉ bé cũng đủ xé ra to. Xem những vụ biến động luôn luôn xảy ra trong mấy năm vừa đây, thì ta rõ ảnh hưởng của khí hậu cùng với lòng bực dọc do sự sinh sống khó khăn đã biến mỗi đô-thị Ấn thành một chảo dầu sôi.

Đã quyết định tìm đủ mọi phương sách để giải quyết tình trạng bất hòa giữa hai dân tộc Ấn và Hồi, ông liền nhịn ăn luôn 21 hôm.

Ông biết rằng nhịn như thế không khác gì tự vẫn. Vì năm nay ông đã 55 tuổi rồi. Ông vừa khỏi vết mổ trong người. Và mấy chục năm trời làm việc không tiếc sức, nay dấu hiệu mệt mỏi đã in trên nét mặt khổ hạnh của ông. Và tinh thần ông cũng chẳng được yên vui.

Tháng 6 vừa qua, khi đa số đảng viên nghiêng về thuyết tích cực hành động, mà gác bỏ những lời ôn hòa ông khuyên nhủ, ông đã mủi lòng khóc ngay tại hội-nghị trước mặt họ. Những vụ đổ máu liên tiếp giữa người Ấn và người Hồi càng làm ông thêm buồn phiền. Ông biết rằng lần này tuyệt thực, ông không còn hơi sức đâu chống với Thần Chết được nữa. Và mặc dầu ông không muốn chết – chết làm sao được khi ông còn bỏ dở bao nhiêu việc phải làm – ông cũng phải cực lòng nhìn nhận rằng bổn phận của ông là phải hy-sinh hết thẩy cho nhân loại mà ông yêu quý.

Bởi vậy, ngày 18 tháng 9 năm 1924, ông nhất quyết nhịn ăn đủ 21 ngày để hòa giải người Ấn và người Hồi.

Vốn tính thực-tế, ông dàn cảnh thực là khéo léo. Ông nhịn ăn ngay tại nhà một đồng chí người Hồi là Mohammed Ali, em ruột lãnh tụ Chaoukat Ali. Mohammed Ali cũng như ông, là một trong những lãnh-tụ nồng-nhiệt nhất bênh vực tình thân-ái giữa người Ấn và người Hồi. Cam-Địa đã viết rằng tình-trạng hiện nay phần lớn do ở lỗi của người Ấn, song trong thâm tâm ông, ông tin rằng chính những người Hồi cũng chẳng rộng rãi gì hơn các đồng bào ông. Ông thấy có bổn phận phải cảm hóa cả người Ấn lẫn người Hồi để họ có thể cởi mở cỏi lòng để đón chào những tư tưởng rộng rãi cao siêu hơn là lòng tự ái hay danh lợi thường ngày.

Khi bắt đầu tuyệt thực, ông có nói mấy lời tâm huyết sau đây:

« Từ trước tới nay, cả người Ấn lẫn người Hồi đều không thèm đếm xỉa đến những lời tôi kêu gọi họ hãy dẹp bỏ bất bình để cùng nhau sát cánh chiến đấu cho lý tưởng chung. Bởi vậy, tôi nhất quyết nhịn ăn 21 hôm, bắt đầu từ hôm nay. Tôi sẽ chỉ uống nước lạnh hay nước muối. Tôi tha thiết cầu xin các lãnh tụ hãy gặp nhau, và nhường nhịn lẫn nhau để sớm chấm dứt cuộc tranh chấp, để tránh một tội ác đối với tôn giáo và đối với toàn thể nhân loại. Chúng ta đã xua đuổi Thượng-Đế khỏi trái tim ta. Vậy ta hãy mở rộng tấm lòng thành kính đón ngài trở lại, để dọn bóng soi đường cho những bước đi lầm lỗi của chúng ta ».

Mười hai ngày sau khi tuyệt thực, Cam-Địa trao mấy lời ông gượng viết sau đây cho báo chí:

« Từ trước tới nay, chúng ta đã chịu bao nhẫn nhục đau thương để tranh đấu, hòng cảm hóa tấm lòng người Anh đang cầm vận mệnh Tổ quốc chúng ta. Chúng ta đã thất bại. Thì nay, chúng ta hãy cố gắng để tự cảm hóa mình. Trước khi đòi hỏi Tự-do, chúng ta hãy tự hỏi lòng đã đủ cao thượng chưa, hiểu biết lẫn nhau để gợi lẫn ở nhau tấm lòng tin cẩn mà nếu thiếu thì loài người chỉ là những thú vật gầm ghè làm hại lẫn nhau ».

Ngày thứ 20, ông đọc tội nguyện sau đây:

« Không bao lâu nữa, tôi sẽ từ giã cái thế giới bình lặng của tâm hồn để trở lại cuộc xâu xé. Càng nghĩ tới, tôi càng thất vọng. Tôi tự cảm thấy đến lúc phải bó tay. Chỉ có Đức-Thượng-Đế là có thể ban phép cảm hóa được người đời thôi. Hỡi Đấng cao xa, hãy làm tôi trở nên vật hữu dụng của người và cho tôi linh cảm được ý của người, ngỏ hầu tìm được phương-châm hành động, Thế nhân thực là nhỏ bé. Vị vương anh dũng kia, đã làm rung động cõi Âu-châu dưới gót ngựa của mình, mà một sáng đã thấy đang sống số phận kẻ tù đồ trên hoang đảo. Đó là ý muốn của Trời. Ta hãy lấy đó làm gương sáng, mà đừng bỏ thái độ nhún nhường tự hạ ».

Tối hôm đó, theo lời một người thân cận, Thánh Cam-Địa rất tỉnh táo và vui vẻ. Thánh nằm trên tấm ghế ngựa kê trên sân thượng, lúc ấy sáng loáng ánh trăng. Chung quanh quây quần bạn bè thân tín. Họ cúi đầu lâm râm cầu nguyện. Rồi từng người một, im lặng lui ra để Thánh nằm một mình, y nguyện tại chỗ.

Ngày thứ 21, và là ngày cuối cùng của thời gian tuyệt thực:

« Gần 4 giờ sáng, chúng tôi được đánh thức dậy để cầu kinh – vẫn lời người thân tín – trăng đã lặn, và trời tối sầm. Gió rét căm căm. Thánh nằm một mình trong tấm chiên ấm áp. Tôi hỏi người có được an giấc chăng? »

Thánh trả lời: « An lắm ». Chúng tôi sung sướng thấy tiếng Thánh đã mạnh mẽ chứ không yếu ớt như sáng qua. Buổi cầu kinh sáng hôm đó vô cùng cảm động. Lúc cuộc tuyệt thực chấm dứt, nghĩa là đúng 12 giờ trưa, Thánh gọi chúng tôi lại quanh giường. Người bảo:

« Ta muốn bạn Iman (một người Hồi) đọc cho ta nghe một đoạn kinh Coran. Rồi bạn Andrews hát cho ta nghe một bản Thánh Ca, bản mà ta vẫn thường ưa thích. Sau rốt, Vinoba sẽ đọc kinh Oupanichads và bạn Balkrichna hát bản Vaichnava… »

Đúng ngọ thì trước mặt đông đủ các lãnh tụ chính trị Ấn và Hồi, cùng mọi người trong nhà, từ các vị thầy thuốc cho đến các gia nhân, Thánh Cam-Địa cất giọng khuyên nhủ mọi người. Tiếng người yếu quá đến nỗi chỉ ai quỳ sát bên giường mới nghe thoảng được đôi lời. Thánh muốn rằng mọi người hãy hy sinh hết thảy cho lý tưởng nhân đạo, dù phải dâng cả tính mạng cũng chẳng nề hà. Các lãnh tụ Hồi cảm động nhắc lại những lời họ đã hứa cùng Người. Rồi ai nấy đều hát khúc Thánh ca xưng tụng tình nhân loại. Cuối cùng thì bác sĩ Ansari đem lại một tách nước cam tươi. Khi Thánh nhấp môi vào miệng tách nước cam tươi. Khi Thánh nhấp môi vào miệng tách thì mọi người biết rằng tuần 21 ngày tuyệt thực của Người đã chấm dứt.