← Quay lại trang sách

Chương 18 MỘT NĂM LẶNG TIẾNG

CUỐI năm 1924, tình trạng nước Ấn cũng giống như tình trạng thông thường của mọi nước sau cuộc chiến-tranh. Thời tranh-đấu sôi nổi đã qua, và người Ấn thả mình trôi theo những thú vui cùng danh lợi dễ dàng. Cuộc tuyệt thực thực 21 ngày cũng không đem lại kết quả khả quan. Các nhà lãnh-tụ dẫu đầy thiện chí, song cuộc xung đột vẫn âm-ỉ giữa hai khối Ấn, Hồi.

Đối với Cam-Địa, tình trạng đó không thuận tiện cho một cuộc thảo luận với người Anh. Ông bèn quay về một chương trình cũng cố lực lượng tinh thần của dân chúng, hòng dùng đến về sau. Ông vẫn chủ trương hòa giải Ấn, Hồi, giải-phóng giai-cấp triện-dân và cổ-võ phong-trào nội-hóa.

Ông vẫn không tán thành việc tham dự vào các hội đồng chấp-hành hay lập-pháp địa-phương. Ông thường nói:

« Nếu tự-trị sẽ đến, khi nào tất cả chúng ta đều có đủ khả năng chống lại cường quyền ».

Ông cũng biết là phái trí thức ái-quốc Ấn dù mến chuộng ông song không đồng ý cùng ông về đường lối tranh-đấu. Ông không lấy thế làm phật ý. Ông chỉ nói:

« Tôi nhận xét thế thôi. Để tỏ rằng sức cảm hóa đồng bào của tôi chỉ có hạn ».

Ông chê phái trí-thức hay chia bè phái. Vì họ tranh-đấu cho họ, để nắm được quyền-binh, hơn là tranh-đấu cho dân chúng. Ông thường nói:

« Họ hoạt-động từ trên xuống dưới. Tôi hoạt-động từ dưới lên trên ».

Ông lại trách họ không chịu ủng hộ phong-trào cổ động dùng hàng nội hóa của ông:

« Họ không hiểu rằng đó là một dây liên lạc vô hình nhưng độc nhất vô song sẽ làm cho đại chúng cảm thông được với họ ».

Một nhà tôn-giáo Mỹ một hôm hỏi ông điều gì thường làm ông lo lắng nhất cho tương-lai dân tộc? Ông trả lời: « Lòng khô-khan vụ lợi của những người trí-thức ».

Nhưng ông vẫn nuôi ý tưởng cảm hóa được phái trí thức Ấn, một ngày kia. Ông cho rằng chỗ của ông không phải là ở địa vị lãnh tụ Đảng Quốc-hội. Ông không muốn đánh vào lý trí của họ. Ông muốn đi thẳng vào trái tim của họ, mà ông đã cảm hóa được hồi năm 1915 và 1919. Bởi thế ông từ chức lãnh đạo chính trị của phong trào giải phóng.

Người ta muốn giữ ông ở lại, lấy cớ rằng rời bỏ trường chính trị thì ông không còn uy tín mạnh mẽ trong dân chúng nữa, vì ông không có lập trường hoạt động. Ông trả lời:

« Uy tín đâu có thể tìm cách gây được, và tự do giữ được? Nếu lấy được lòng dân, thì uy tín khắc đến với mình, và khi ấy thì không phải giữ, cũng tồn tại với mình mãi mãi ».

Thực vậy, ông không hoạt động gì về chính trị mà uy tín ông vang dậy khắp cõi Ấn. Suốt năm 1925, ông đi khắp nước, lặn lội tìm đến những nơi xa xôi hẻo lánh nhất để tiếp xúc với dân chúng. Nhưng lần này các đồ đệ ông nhất định không chịu để ông đi xe hỏa hạng cuối như ông muốn nữa. Họ ép ông lên toa hạng nhì. Ông cũng bằng lòng, không phải vì chỗ ngồi rộng rãi mát mẻ hơn, mà là vì trên toa hạng nhì ông có đủ chỗ ngồi viết lách ; Vì rằng, dù ở nơi nào, hàng tuần ông vẫn không quên gửi bài về đăng trên mấy tờ tạp chí của ông. Đi tới đâu, ông cũng bị hàng trăm ngàn người vây bọc chào đón tưng bừng. Ông than phiền là không lúc nào được dân chúng để yên, dù là khi tắm rửa. Chân tay ông xây xát vì dân chúng ôm lấy mà hôn. Ông phải bôi thuốc mỡ vào ống chân, Toàn thể một bộ lạc ở miền núi kia muốn xin ông cho một bức chân dung để tôn thờ làm tượng. Ông cho sự sùng bái ấy là thừa: « Tôi có phải ông Thánh đâu? » Nhưng dù ông muốn nói thế nào, dân chúng cũng coi ông như hiện thân của Đức Phật, của Thượng-Đế như thần Krichna. Từ những nơi làng mạc xa xôi, ở tận cùng những bãi cát khô khan, hay thẳm trong núi tuyết băng che phủ dân chúng ùn ùn kéo tới để sùng niệm ông như sùng niệm một vị Thánh giáng phàm. Nhiều khi, phải khó nhọc mới đưa được ông ra khỏi đám đông, vì sợ ông bị công chúng xô đẩy nhau mà dẫm chết.

Noi về việc cổ động canh cửi thì nhiều người cho đó là một sự ám ảnh đối với Cam-Địa. Ông cho việc canh cửi là hoạt động cổ truyền của người Ấn. Nước Ấn từ xưa vẫn sống đầy đủ về nghề trồng bông và dệt vải. Không ai thiếu ăn thiếu mặc. Vậy mà từ ngày văn minh vật chất xuất hiện trên đất Ấn, cùng với sự hiện diện của người Anh, thì nghề nghiệp của ông cha hình như bị dân gian sao nhãng. Mỗi năm, hàng vạn người chết đói, là vì người Ấn đã bỏ phí mất nguồn lợi thiên nhiên của mình.

Phái trí thức nhiều người chế giễu phong trào chấn hưng nghề dệt của Cam-Địa. Họ cho rằng vải dệt bằng tay thô thiển, mặc sao cho tiện. Có kẻ lại cho rằng vải đó chỉ nên dùng làm vải liệm.

Tuy công dụng của phong trào dệt cửi không có kết quả kinh tế rõ rệt, song ai cũng phải nhận rằng nhờ phong trào dệt mà Cam-Địa thức tỉnh được người dân Ấn. Có mặc những thứ vải thô do chính tay họ dệt nên, họ mới nhận thức được giá trị của những vật chính tay mình gây nên ; Đồng thời, họ sẽ công phẫn trước sự xa hoa phí phạm của những kẻ bám vào người Anh mà cầu bả vinh hoa phú-quý. Họ sẽ biết so sánh sự bần hàn hiện tại của người cùng dân Ấn với những lầu ngọc nhà vàng của bọn phong kiến, hiểu rằng tất cả những sự phù phiếm, mà trước đây họ nhìn ngắm với con mắt thèm thuồng kính phục, kỳ thực chỉ là loài ma quái đâm chồi nẩy rễ trên xương máu của đám dân đen.

Tất cả những sự hoạt động liên miên đó làm cho Cam-Địa ngày thêm suy yếu. Mỗi ngày ông họp dân chúng tại bốn, năm nơi khác nhau. Ông tiếp tất cả những người bốn phương kéo đến để hỏi han ông, từ những vấn đề chính trị lớn lao cho đến công chuyện riêng tây. Ông thức hàng đêm trắng để trả lời thư từ điện văn gửi đến chất thành từng đống. Lại thêm dầu dãi nắng mưa, khiến ông càng thêm mình hạc vác ve. Vậy mà đến tháng một năm 1925, ông còn nhịn ăn một tuần nữa.

Dân chúng lo âu, thường tự hỏi tại sao ông còn huỷ hoại thêm thân thể? Ông trả lời:

« Đồng bào đừng nên quá chú trọng vào những tuần nhịn ăn của tôi. Đối với tôi. sự nhịn ăn khiến cho tôi rũ sạch chất phàm, thanh sạch lâng lâng mà nhìn thấu đào vào tới ngách sâu thẳm của linh hồn. Sự nhịn ăn làm cho mắt nhờ đó trông rõ thâm tâm, cũng như đôi mắt thật cho tôi được trông thấy cảnh vật bên ngoài vậy ».

Ông lại so sánh người nhịn ăn với những nhà leo núi:

« Họ tìm cách leo lên đỉnh Hy-mã-lạp-sơn. Tôi tìm cách đưa linh hồn lên những thượng tầng trong sạch thanh cao, để vượt khỏi hàng rào của thể chất ».

Đến tháng chạp năm 1925 thì Cam-Địa mãn khoá Chủ-tịch đảng Quốc-hội. Ông bèn trao phó lại gia tài chính-trị cho bà Saroyini Naidu, một chính khách kiêm một nữ thi sĩ tài hoa. Rồi ông nguyện trong suốt năm tới sẽ không đả động một tí gì đến mọi vấn đề chính trị. Ông sẽ rút lui về khu Ashran trên bờ sông Yaharmati để di dưỡng linh hồn và thân thể. Theo ông, cuộc tranh đấu chính trị của Ấn bấy giờ đang trải qua một thời kỳ hư ruỗng. Đó là thời kỳ lý tưởng để không bận tâm về những vấn đề chính trị nữa.

Cam-Địa tổ chức một năm lặng tiếng. Cứ ngày thứ hai, thì ông hoàn toàn nín lặng. Ai nói thì ông nghe, hỏi lắm thì ông trả lời bằng một mẫu chữ nguệch ngoạc trên mảnh giấy con. Bởi thế, ngày thứ hai, ông đã được nghỉ ngơi một cách hoàn toàn, để đắm trí não vào sự trầm tư mặc tưởng.

Còn những ngày khác thì ông nói. Duy ông không đi mà cũng không nói trước công chúng, Song ông vẫn đàm luận cùng các khách khứa hoặc cùng các đồ đệ, trao đổi thư từ với hàng ngàn nhân vật ở bốn phương thế giới.

Ngày mồng 1 tháng 4 năm 1926, Lord Irwin (về sau là Ngoại-tướng Lord Halifax của Anh trong thời kỳ đại chiến thứ 2) sang Ấn làm Phó vương thay Lord Reading. Cam-Địa không đả động gì việc đổi đó. Ông hoạt động trong dân chúng, chứ không tiếp với nhà cầm quyền Anh. Tuy nhiên, ông cảm thấy người Anh đang sửa soạn chia rẽ một lần nữa tình hữu nghị giữa người Ấn và người Hồi. Hình như chính-phủ Anh có ý nâng đỡ người Hồi, để kéo dân Hồi về phe mình, làm cho họ nghịch với người Ấn.

Cam-Địa đi tới kết luận là ngày nào mà người Anh còn có mặt ở Ấn để xui nguyên dục bị, thì người Ấn và người Hồi còn chia rẽ nhau mãi mãi. Vậy thì, trái với điều ông vẫn thường tuyên bố, sự hoà giải Ấn-Hồi đáng lẽ phải là điều kiện thành công của nền tự trị, thì lại là kết quả của nền tự trị đó.

Cam-Địa vẫn thường khuyên người Ấn nên đối đãi với người Hồi thiểu số một cách nhân nhượng hơn, Vì thế nhiều người Ấn có ý trách ông là thân Hồi.

Năm 1925. ông cũng dự nhiều cuộc tranh biện về vấn đề sinh dục. Ông công nhận rằng một nguyên nhân sự nghèo khổ thảm thương của dân tộc Ấn là dân số hàng năm tăng gia quá nhiều (5 triệu một năm). Vậy phải kiểm soát sự sinh đẻ. Nhưng ông cực lực phản đối phương pháp khoa học của người Âu. Ông chỉ công nhận sự kiểm soát bởi chính mình, sự kiểm soát của tinh thần trên xác thịt.

Ông viết: « Chỉ có cách tập tự chủ được cõi lòng cùng xác thịt mình là kiểm soát được sự sinh đẻ theo ý muốn ».

Không có sự tự chủ ấy, loài người sẽ chẳng khác loài muông thú. Ông lại đoan quyết rằng sự hãm mình lâu ngày hay vĩnh viễn không có chi là hại cho sức khoẻ cùng tinh thần, mà chỉ có lợi thôi. Nhưng tự chủ được mình mà kim hãm dục tình không phải là không khó khăn.

« Tuy nhiên » – ông nói – « ích lợi thu được không phải là nhỏ. Tinh khí nếu đừng phí phạm đi, mà giữ lại được trong người sẽ biến thành ý chí kiên quyết và sức khang cường của thân thể ».

Và ông lại nói thêm:

« Ví dụ các phương pháp kìm hãm sự sinh nở cùng phá thai của người Âu-Tây mà có đem áp dụng ở bên Ấn ta cũng không được. Bởi vì dân ta hàng triệu người, lấy đâu ra nhà chuyên môn, máy móc, thuốc men cần thiết để phá thai ».

Cam-Địa còn hết sức công kích chế độ tảo hôn. Theo ông, nếu không thể bắt chước được những bậc thánh hiền cùng những người có một dũng lực tinh thần vô biên mà diệt được sức dục hòng giữ cho thân thể được hoàn toàn trinh sạch, thì tuổi tốt nhất để thành hôn phải là từ 25 trở đi đối với con trai, và 21 đối với con gái. Muốn tránh những sự kích thích về tình dục, ông khuyên nên tránh các thức ăn nhiều gia vị, những áo quần lộ liễu, những tranh ảnh cùng sách báo khiêu dâm. Trái lại, công việc chăm chú, thể thao, lòng sùng tín, những buổi đọc kinh, đó là những phương pháp công hiệu nhất để kiểm soát dục tình.

Tục tảo hôn bên Ấn còn gây ra một vấn đề xã hội đau thương là có những trẻ gái goá chồng từ thủa còn thơ, đến nỗi sớm bắt buộc phải gác bỏ cuộc đời trong khi còn tuổi xanh mơn mởn. Theo các bản thống kê của thời bấy giờ, thì khắp nước có tới 11.892 trẻ em gái goá chồng từ khi chưa đến 5 tuổi. Số « bà goá » từ lên 5 đến lên 10 là 83,057-329,147 thiếu nữ goá chồng từ khi chưa đến 16 tuổi. Theo tục lệ Ấn thì bọn con gái này bắt buộc phải ở vậy suốt đời. Cam-Địa cực lực phản đối thói tục dã man ấy. Ông cãi rằng: « Chúng có goá đâu, vì chúng đã bao giờ thành những người đàn bà có chồng? » Và ông dịu lời: « chúng đã biết thế nào là ái tình đâu? » Ông cho sự ở vậy là một giải pháp phải để người trong cuộc tự chọn lấy, sau khi cân nhắc kỹ càng, còn như bắt buộc những đứa trẻ thơ sau này lớn lên phải tự nén lòng mình thì thực là cả một phương pháp trái với đạo Trời.

Bấy giờ danh tiếng của Cam-Địa đã lan tràn ra khắp Ấn và vang động đến tận Mỹ-châu. Tại Pháp, văn sĩ Rolland xuất bản một cuốn sách nói về ông. Từ Mỹ, ông nhận được rất nhiều thư từ, cùng là lời mời sang thăm Mỹ-quốc. Nhưng ông đều từ chối.

Sau một năm im lặng, Cam-Địa trở lại chiến trường chính trị với những quan điểm cũ y nguyên không thay đổi.

Thường thường, nói trước khán đài, ông giơ bàn tay trái lên trước mặt xoè 5 ngón ra. Rồi dùng hai ngón tay phải nắm lấy ngón cái bên trái mà lắc lắc, ông nói: « Ngón này tức là: hãy đối đãi với bọn tiện nhân như người bình đẳng ». Rồi ông nắm lấy ngón trỏ: « Đây là ngón tay dệt cửi ». Đoạn đến ngón ba, có nghĩa là đoạn tuyệt với rượu và thuốc phiện. Ngón đeo nhẫn là tình thân mến giữa Ấn và Hồi. Ngón út chỉ sự bình đẳng giữa các phụ nữ mọi giai cấp. Năm ngón ấy nối liền với thân thể bởi cổ tay: đó là lời tự nguyện không dùng bạo lực. Năm điều tâm niệm ấy, nêu thực hành được trọn vẹn sẽ hoàn hảo được bản ngã tốt đẹp của mỗi người, và nhờ đó, sự giải phóng đất nước chỉ là kết quả dĩ nhiên.

Thường khi trước đám công chúng ồn ào đến vài chục vạn người, ông nín lặng không cất lời cho đến khi mọi người im phăng phắc như tờ. Ông vẫn im lặng. Mọi người liền ngồi cả xuống đất. Bấy giờ ông mới giơ hai bàn tay lên, để phủ dụ mọi người, rồi mỉm cười mà lui gót. Đó là một cách ông truyến bá luồng tư tưởng cho dân chúng. Chịu khó ngồi yên lặng để tiếp nhận ý nghĩ của ông, họ đã tập tự kiểm soát mình, và tìm đọc trong thâm tâm để tự hiểu. Đó cũng là một bước tập tành để đi dần đến tự lập.

Trong mọi điều Cam-Địa giáo huấn, duy có lời khuyên nhủ của ông đối với hai phái Ấn, Hồi là không được ai nghe.

Bấy giờ Lord Irwin đã thay Lord Reading làm Phó-vương Ấn-Độ. Ông là cháu một viên quan Anh tại Ấn-Độ, từ hồi thuộc địa mới khai phá, nên ông tỏ ra rất am hiểu dân tình. Ngay hôm đầu tới Bombay, nhằm ngày thứ sáu, ngày lễ của dân Ấn, ông đã cho xếp dọn hết các nghi trương tiếp đón dàn ra, để một mình vào cầu kinh trong đền. Tuy nhiên, ông không chịu gặp Cam-Địa, lãnh-tụ độc nhất được dân Ấn tôn-sùng hồi bấy giờ. Chỉ 19 tháng sau, giữa khi đang hô-hào dân chúng ở Bengalore, Cam-Địa mới nhận được điện văn của Phó-vương ngỏ ý muốn gặp ông ngày 5 tháng 11 tới. Ông vội vã vượt hơn 2 ngàn dặm đường về Delhi, để được gặp Phó-vương vừa vặn một phút rưỡi đồng hồ. Vị quan Anh này chỉ trao cho ông một bức điện văn báo tin một uỷ-ban Anh điều khiển bởi Sir Johu Simon sắp tới Ấn nay mai để điều-tra về những điều-kiện áp-dụng một vài điều cải cách.

Sau khi đọc xong bức điện, Cam-Địa ngước mắt trông lên, chờ đợi. Phó-vương vẫn im lặng:

- Ngài muốn gặp tôi chỉ để báo tin ấy thôi sao?

- Chính vậy.

Cuộc tiếp xúc thế là chấm dứt. Không nói một lời, Cam-Địa tiếp tục cuộc hành trình đi khắp miền Nam Ấn-Độ để cổ võ phong-trào dùng hàng nội hoá.

Phái đoàn Simon là một sáng kiến của viên Bộ-trưởng Ấn-Độ-Vụ trong chính-phủ Anh, tức là Lord Birkenhead, một khối óc lạc hậu. Hãy nghe ông tuyên bố trước Thượng nghị viện năm 1929:

« Tôi dám đoan quyết rằng hàng thế kỷ nữa, người Ấn cũng chưa đủ sức đảm nhiệm lấy được việc cai trị, việc quốc phòng trong nước họ ».

Bởi vậy, phải đoàn Simon tới Ấn đã bị tẩy chay tàn tệ. Nhất là phái đoàn định tìm một giải pháp về chính thể tương-lai sẽ ban cho người Ấn mà không có lấy một người Ấn nào ở trong. Tức thì một mệnh lệnh ban ra toàn cõi: không ai được giúp đỡ phái đoàn bất cứ về phương diện nào. Tại Bombay, phái đoàn Simon được tiếp đón bằng những hàng cờ đen, và những tiếng: « Simon! Hãy cút về ».

Không một lãnh-tụ chính-trị nào tiếp xúc với phái đoàn. Cam-Địa còn quyết liệt hơn nữa. Suốt trong thời gian phái đoàn ở trên đất Ấn, ông không thèm biết đến họ. Song dân Ấn không bình tĩnh như ông. Cuộc tẩy chay dữ dội đến nỗi nhiều khi lính tuần Anh phải đàn áp. Lãnh-tụ xứ Pundjab là Laypat Rai, một người được dân tình cảm mến, bị một viên cảnh binh dùng gậy bịt sắt đánh tử thương trong một cuộc biểu tình phản đối tại Lahore. Lại Lucknow, Yaouaharlal Nehru cũng bị hành hung. Dân chúng trả miếng tức thì. Ngay hai tuần sau khi Laypat Rai chết, viên Cảnh-sát-trưởng Lahore là Saunders đã đền mạng dưới làn đạn của một người Sikh là Bhagat Singh, mà từ đó chúng coi như một vị anh hùng dân tộc.

Chính-phủ Ấn lợi dụng dịp để đàn áp luôn các phong-trào chính-trị khác phong-trào quốc-gia như các nhóm Tổng công-đoàn, Xã-hội, cùng Cộng-sản.

Năm ấy, Đảng Quốc-hội họp đại hội thường nhiên ở Nagpour. Toàn thể đảng viên đòi phải hành động ngay. Soubhas Chandra Bose và Yaouaharlal Nehru, hai lãnh tụ thanh-niên, đòi tuyên-bố ngay Độc-lập, và khởi sự ngay sau đó Cam-Địa yêu cầu hãy gửi tối hậu thư cho người Anh một hạn là hai năm để từ giã đất Ấn. Đảng không chịu. Ông phải hạ kỳ hạn ấy một năm. Ông phát thệ rằng tới ngày 31 tháng chạp năm 1929, nếu Ấn không thành một tự trị lãnh, thì ông sẽ tình nguyện đi khắp nước để cổ võ phong-trào độc-lập.

Để dự bị cuộc hành-động sau này, ông dùng suốt năm 1929 để đi khắp nơi hô hào dân chúng.

Trong khi ấy thì dân chúng tiếp tục tẩy chay phái đoàn Simon. Ngày mồng 8 tháng 4, Bhafhat Singh, người Sikh đã giết viên Cảnh-sát-trưởng Lahore để báo thù cho Laypat Rai đàng hoàng tiến vào Lập-pháp-viện bấy giờ đang họp ở New Delhi, ném 2 trái bom vào các hàng đại-biểu rồi lăm lăm tay súng mà rút lui. May không ai bị chết, trừ một đại biểu bị thương khá nặng. Sir John Simon chính mắt chứng kiến vụ bạo động trên hàng ghế thính giả. Đó là kỷ niệm cuối cùng của ông trên đất Ấn, vì phái đoàn vội vã về nước ngay trong tháng ấy.

Tháng 6 năm 1929, cuộc Tổng tuyển cử Anh kết liễu với sự đắc thắng của Đảng Lao-động. Ông Ramsay Madonald lên cầm quyền chính. Cam-Địa hy vọng sự thay đổi này sẽ đem lại một giải pháp để ổn định tình thế mỗi lúc một khẩn cấp.

Lord Irwin vội vã về ngay Anh để xin huấn lệnh mới. Đến khi ông về Ấn với lời hứa sẽ triệu tập một hội nghị Bàn Tròn để quyết định về chính thể tương lai của Ấn, thì các lãnh tụ ôn hoà như Cam-Địa, Matilal Nehru, Besant buộc trước hết hãy vỗ an dân tình bằng cách ân xá cho phạm nhân chính trị cùng là hứa sẽ nhận cho Đảng Quốc hội được hưởng một thành phần rộng rãi trong Hội nghị Bàn Tròn. Nhưng các lãnh tụ quá khích như Soubhas Chandra Bose và Yaouaharl Nehru, bấy giờ đang là chủ tịch đảng Quốc hội. phản kháng kịch liệt việc hoà giải với người Anh. Mặc, các lãnh tụ ôn hoà cứ việc tự ý quyết định thảo luận với Lord Irwin ngày 23 tháng chạp.

Ngày đó, Phó vương Anh vừa đi kinh lý miền Nam nước Ấn, về đến ga New Delhi thì bị một quả bom gài sẵn trên đường sắt nổ ngay dưới toa ông. May không ai việc gì. Nhưng một tin khác đánh đổ hết mọi xây dựng của ông ta. Quốc hội Anh đã biểu quyết phản đối nguyên tắc thiết lập một hội nghị bàn tròn mà Phó vương đã hứa cùng người Ấn. Cho nên cuộc thảo luận không đưa đến kết quả nào. Khi các lãnh tụ Ấn xin ông nhắc lại một cách rõ rệt lời hứa trước kia thì ông đành trả lời thoái thác.

Thế là một năm đã qua, mà người Anh chưa chịu trả lại tự do cho Ấn-Độ. Đúng như đã sửa soạn từ trước, Đảng Quốc hội, dưới quyền chỉ đạo của Yaouaharlal Nehru, năm ấy vừa 40 tuổi, trong phiên đại hội lịch sử ở Lahore, đã công nhận tuyên bố Ấn-Độ hoàn toàn độc lập, và quyết nghị bắt buộc hết thảy mọi đảng viên đều phải rút lui khỏi hết các hội đồng chính-phủ, phát động phong trào bất hợp tác trong dân chúng, và thi hành ngay việc không đóng thuế. Ban chấp uỷ lại giao cho Cam-Địa toàn quyền quyết định ngày giờ cùng nơi khởi sự.