← Quay lại trang sách

Chương 19 THẢM KỊCH TRÊN BỜ BIỂN

BẢN tâm Cam-Địa chưa muốn đi ngay đến chỗ quyết liệt cùng người Anh, song ông đã hứa cùng Đảng là thời hạn cảnh cáo qua, mà người Anh chưa chịu nhượng bộ, thì ông sẽ công nhận làm người thừa hành trung tín của phong trào độc lập.

Khi thi sĩ Tagore tới thăm ông. Vào khoảng trung tuần tháng giêng và hỏi ông đã quyết định gì chưa, thì ông thú thực là ông chưa nhận thấy « một tia sáng nào trong sự tối tăm u-ám bao phủ quanh ông ».

Nhưng đến cuối tháng, trong số Young India ngày 27-2, Cam-Địa chỉ trích những sự bất công của khoảng thuế muối. Trong số sau, Cam-Địa nghiên cứu về những hình phạt đã chỉ định trong đạo luật ban hành thuế đó. Và ngày 2 tháng 3 năm 1930 thì gửi cho Phó Vương Anh một bức thư dài báo trước rằng phong trào bất hợp tác sẽ phát khởi trong 9 ngày.

Ngày quyết liệt đã tới. Hàng chục phóng viên ngoại quốc đã chầu chực sẵn trong khu Asharam theo gót Cam-Địa từng bước để chờ xem ông hành động ra sao. Hàng ngàn dân chúng đã túc trực sẵn quanh khu. Và mỗi ngày, điện tín khuyến khích tự bốn phương thế giới bay đến tới tấp như bươm bướm. Giáo sĩ Jonh Hayes Holmes điện cho Cam-Địa: « Cầu xin Thượng-Đế che chở ông! »

Ngày 12 tháng 3, sau khi cầu nguyện, Cam-Địa chống gậy dẫn đầu 70 đồ đệ, cả nam lẫn nữ, từ giã Saharmati nhắm phía Nam thẳng tiến. Trong 24 ngày liền, ông đi được 200 dặm, tới đâu cũng được hàng ngàn vạn dân chúng quỳ sẵn ở dọc đường để đón tiếp. Chốc chốc, ông lại dừng bước, hội họp dân chúng khuyên nhủ mọi người, dùng vải nội hóa, chừa rượu và thuốc phiện, và nhất là khi nhận được hiệu lệnh ông thì nhất tề phản kháng không nộp thuế muối cho chính phủ. Bấy giờ ông đã 61 tuổi. Ông đi tới đâu thì các hương chức trong làng trả lại chức vụ cho người Anh, và thanh niên trai tráng thì theo nhập vào đoàn lữ hành, ngày 5 tháng 4, Cam-Địa tới ven biển thì đoàn 70 lữ khách buổi đầu đã thành một đạo quân « không bạo động » hàng chục chục ngàn người.

Suốt đêm hôm mồng 5, cả đoàn người cầu nguyện và đến sáng sớm thì họ theo Cam-Địa ra bãi biển. Ông lội xuống nước rồi trở lên bãi, mang theo một vốc muối mà sóng biển đã để lại ven bờ. Bà Saroyini Saidou đứng cạnh ông liền hô lớn: « Hoan hô người giải phóng »

Thế là ông đã tự ý phạm vào đạo luật muối của chính-phủ. xử phạt những ngưới nào có một hạt muối bằng bất cứ cách gì ngoài cách mua của chính-phủ. Cam-Địa tuyên bố rằng muối, cũng như nước không phải là của riêng ai mà đòi giữ độc quyền được. Đối với người dân quê xứ nóng, làm việc quần quật dưới ánh nắng thiêu đốt, mồ hội nhễ nhại, ruột gan khô héo thì hạt muối cũng cần như bát nước vậy. Sao người Anh lại nhẫn tâm… làm giầu riêng cho mình? Cam-Địa quả đã là một nhà dàn cảnh đại tài. Đi bộ ròng rã suốt 24 ngày, khiến cho cả thế giới và cả nước hướng cả về hành động của mình, tự hỏi không biết ông làm chi đây? Đôi lúc đi qua nơi nào, ông đều nói với dân chúng tụ họp bên đường:

« Xin các bạn hãy chú ý tới hiệu lệnh tôi ra cho toàn thể đồng bào khắp nước ».

Thì đây, hiệu lệnh đã ban ra, trong một cử chỉ tượng trưng hùng-hào: người Ấn sử dụng thổ-sản thiên nhiên Trời phú cho đất mình. Luật pháp người Anh ngăn cấm làm sao cho nổi? Và cử chỉ ấy đã làm được toàn dân từ kẻ quê mùa dốt nát cho đến những đối thủ chính-trị siêu quần nhất của ông, cảm thấy sôi nổi trong lòng mình sức sống mãnh liệt của đất nước. Soubhas Chandra Bose người đối lập của ông đã phải kêu lên một tiếng thán phục, mà ví « cuộc lữ hành đi vớt muối » của ông với cuộc « trẩy binh anh dũng của Nã-Phá-Luân từ đảo Elbe về nơi cố quốc ».

Sau khi Cam-Địa đã phát lệnh tẩy chay luật muối, thì phong-trào bùng lên như bão táp dọc một giải bờ biển từ vịnh Persique tới vịnh Bengale. Tất cả dân chúng các làng duyên hải đều mỗi người cầm một cái xoong ra biển lấy muối. Bắt hàng ngàn người cũng vô hiệu. Ramdas, con thứ ba của Thánh ở Ashram. Lãnh tụ Malaviya và một số lãnh-tụ ôn-hòa khác cũng bỏ nghị viện theo về phong-trào phản-kháng. Lính bắt đầu hành hung, song dân chúng cắn răng chịu đánh nhưng không bỏ dúm muối vừa vét được. Lắm người bị lính đánh nát cả tay mà cũng không bỏ. Trong các đô thị, những đảng viên Đảng Quốc-Hội công nhiên bán muối của chính-phủ ngoài phố. Kẻ này vào tù đã có kẻ khác theo.

Tại Delhi, chính lãnh-tụ Malaviya thân đứng bán muối không nộp thuế cho dân chúng tụ họp quanh ông. Cảnh binh tấn công xưởng làm muối của Đảng Quốc-hội đặt ngay trong trụ sở của Đảng Bombay. 60 ngàn người sắp hàng cho lính bắt. Tại Ahmedabad, Đảng bán muối cho 10 ngàn người. Người nghèo thì Đảng biếu không. Kẻ giàu muốn mua bao nhiêu thì trả. Nắm muối Cam-Địa đem từ bờ biển về đem bán đấu giá thu được một ngàn 6 trăm roupies. Yaouaharial Nehru bị xử 5 tháng tù. Thị-Trưởng thành phố Calcutta hội họp dân chúng để hô hào tẩy chay hàng ngoại quốc cũng bị xử 6 tháng tù.

Dân chúng bắt đầu canh phòng trước những tiệm bán rượu cùng những tiệm bán vải ngoại quốc không cho ai vào mua. Cảnh binh đàn áp mỗi lúc thêm dữ dội. Từ các nghị-sĩ tại hội-đồng lập pháp cho đến các học-sinh, ai nấy đều làm muối và bán muối. Tại Karachi, lính bắn vào đám biểu tình: hai người chết. Mahadev Desai, bí thư của Cam-Địa viết rằng:

« Các lãnh tụ, các viên chức, các thân hào ở Bihar đã bị bắt cả rồi. Bihar không còn người cầm đầu. Phong-trào đã hoàn toàn thắng lợi ».

Các nơi bán muối mọc ra như nấm không sao đóng cửa nổi. Đảng Quốc-hội phát không những tờ cáo bạch dạy cách làm muối rất giản tiện. Một số đông thành phố tự động tổng bãi công bãi thị để phản đối các vụ bát bớ những lãnh tụ Đảng Quốc-Hội. Tại Patna, một đám đông hàng mấy ngàn người ra khỏi thành phố để đi tới một nơi làm muối. Cảnh binh chặn các ngả đường không cho đi. Dân chúng ngủ ngay trên đường và ở các ruộng lân cận 40 giờ đồng hồ liền. Lính ra lệnh cho Rayendra Prassad bây giờ cũng có mặt trong dân chúng phải giải tán ngay đám đông. Ông không chịu. Lính bèn dọa cho kỵ binh đàn áp. Dân chúng mặc. Ngựa đến thì họ nằm giải cả xuống đường. Ngựa sợ lùi bước. Lính đành phải đem xe cam nhông đến tải người vào nhà giam. Tức thì đã có những nhóm khác thế vào các người bị bắt. Trong các làng, dân chúng tự làm lấy muối mà dùng. Người Anh bắt các thân hào lập lại trật tự thì họ từ chức. Chủ tịch Hội-nghị lập pháp toàn quốc là Vithalbhai Patel cũng đệ đơn từ chức. Tại Karachi. 60 ngàn người ra bể làm muối. Họ đông quá vây dọc cả lính. Lính đành chịu không dám bắt một người nào.

Bấy giờ phó vương Anh đã bắt tới 60 ngàn tù chính-tri. Các nhà giam chật ních không còn chỗ. Ông bèn quyết định cho bắt Cam-Địa. Đêm hôm 4 tháng 5 lính sộc vào khu Ashram của Thánh, điệu ông vào ngục. Ông rất sung sướng được vào tù. Họ đối đãi với ông rất tử tế. Mỗi ngày lại đem dê vào vắt sữa để ông uống.

Trước ngày ông bị bắt, ông có gửi thư cho Phó Vương Anh báo trước rằng ông sẽ tới xưởng làm muối ở Dharasana. Sau khi ông bị bắt các đồng chí ông cứ tiếp tục cuộc hành trình.

Bà Saroyini Naidou, nhà nữ thi sĩ kiêm cách mạng gia cầm đầu 2 ngàn 500 người tình nguyện đi tới địa điểm ở phía Bắc Bombay. Bà đã dặn trước rằng cả bọn sẽ bị đánh đập tàn nhẫn song đừng ai kháng cự.

Phái viên của hãng Thông Tấn United Press bấy giờ cũng đi theo bọn biểu tình và tả rõ tấn kịch nầy ra sao. Theo Manilal Cam-Địa dẫn đầu, họ lầm lũi tiến đến gần những nồi nấu muối của Chính-phủ, có chăng thép gai bao bọc và 400 lính cảnh sát bảo vệ. Cứ từng tốp một họ sắp hàng tiến lên, bất kể đến những lời hô đứng lại của lính, để nhận trên đầu những tay thước giáng xuống nặng nề. Họ không kêu, không đỡ, im lặng ngã gục. Một tốp khác lại tiến lên. Lính đánh chán thì thúc tay thước vào bụng cùng vào hạ bộ người biểu tình. Đẫy họ vướt xuống hào sâu cũng thế. Cứ hết toàn này đến toán khác lên cho mà đánh. Bà Naidon và Manilal Cam-Địa thì bị bắt. Đến 11 giờ rưởi sáng thì đã có 320 người bị thương khiêng vào bệnh viện và hai người chết vì thương tích quá nặng. Bên ngoài, bọn người tình nguyện cứ vào cho mà đánh. Một nhóm khác mấy nghìn người đã lên đường tiếp vào đám biểu tình đang giơ đầu ra nhận gậy.

Tới giờ phút ấy, là nước Ấn đã lấy lại được tự do rồi. Dẫu rằng trên lập trường giấy tờ luật pháp, chưa có gì thay đổi, song từ nay người Âu Châu không còn tự nhận được là mình đem lại cho các dân tộc khác mầu da những quan niệm cao siêu của đời sống nữa.

Năm 1930, Cam-Địa đã thực hiện được cùng một lúc hai điều lớn lao: ông đã tỏ cho người Anh biết rằng họ đang tàn nhẫn bóc lột người Ấn, và ông đã tỏ cho người Ấn biết rằng, nếu họ muốn, họ có thể dễ dàng ngẩng cổ, vươn lưng mà rũ bỏ chiếc gông đang đè nặng trên vai họ.

Người Anh dùng gậy bịt sắt và báng súng mà bỏ vào đầu, thúc bụng người Ấn, song người Ấn không lùi. Họ để cho mà đánh, không kháng cự cũng không thèm van lạy. Đánh chán là phải chịu khoanh tay mặc cho họ muốn làm chi thì làm. Chỉ điều ấy cũng đủ làm cho người Anh bó tay, và người Ấn trở nên mạnh mẽ, vô-địch trên đất nước họ.

Bấy giờ tin Cam-Địa bắt đã lan khắp Ấn như một làn thuốc súng bén dưới que diêm. Loạn khắp nơi. Dân chúng nhất định không chịu đóng thuế. Nguồn lợi của thuộc địa sút kém một cách đáng lo ngại. Thị trấn kỹ nghệ Cholapour cạnh tỉnh Bombay tước súng của Cảnh binh và tuyên bố Độc Lập. Ở Péchouar, cảnh binh đành phải nhượng tỉnh cho một tổ-chức tôn giáo « Đảng áo đỏ » một chi nhánh của phong trào kháng chiến tiêu cực. Mãi 3 hôm sau, quân đội đến mới lấy lại được thành phố. Nhưng một đội lính bản xứ trong quân đội ngũ Anh lại làm reo nhất quyết không chịu bắn vào dân Hồi.

Các nhà đương cục Anh biết rằng nếu không tha Cam-Địa thì phong trào người Ấn không biết sẽ phát triển tới đâu. Họ bèn nhờ phóng viên báo Daily Herald vào ngục làm trung gian hỏi dò những yêu sách của Cam-Địa. Ông nói những điều kiện của một cuộc hội thảo luận giữa ông và người Anh. Ông đòi trước hết người Anh phải cho ông được gặp những lãnh tụ Quốc-Hội đã bị giam để trao đổi ý kiến. Sau hai ngày thảo luận với Matilal và Yaouaharla Nehru cùng Sayed Mahmoud và bà Naidou cùng Vallabhbhai Patel, Cam-Địa tuyên bố rằng quan điểm của ông cùng quan điểm của chính-phủ Anh khác xa nhau, vậy không thể thảo luận được. Phải chờ đến khi Thủ-Tướng Anh là Ramsay Mac Donald công nhận nguyên tắc thuận cho các đại biểu Đảng Quốc-Hội dự Hội-nghị Bàn tròn lần thứ hai tới ông mới chịu thảo luận cùng phó vương Irwin. Khi ấy ông đã được tha cùng với hai cha con Nehru và hai chục lãnh tụ khác.

Cuộc thảo luận kết thúc bằng thỏa ước ký ngày 5 tháng 3. Ông đã rứt được của người Anh lời long trọng tuyên bố công nhận nguyên tắc Độc lập của dân tộc Ấn. Đối với ông thế là đủ, vì ông đã lập được một căn bản vững chắc để làm thế tiến trong những cuộc đàm luận về sau. Song chính thực ra, thắng lợi ấy chỉ có giá trị một nguyên tắc mà thể thức áp dụng sẽ ấn định sau. Còn hiện tại, nền tự trị chưa được hứa hẹn chứ đừng nói là ban bố. Chỉ có các đại biểu Đảng Quốc-Hội sẽ được tham gia Hội-nghị Bàn Tròn lần thứ hai này, cùng là những chính-trị phạm sẽ được tha, và nghề làm muối được tự do theo đuổi.

Sau khi đó, toàn thể Đảng Quốc-hội chấp thuận quyết-nghị cử Cam-Địa làm đại-biểu của Đảng trong Hội-nghị Bàn Tròn tới.

Ngày 29 tháng 8, ông xuống tầu ở Bombay. Một số đồng chí theo ông sang Anh. Lúc tầu nhổ neo, ông ngỏ cho họ biết theo ý ông, lần này đi, khó lòng thâu đoạt được thắng lợi nào trở về. Nhưng ông đã có ý định lợi dụng Hội-nghị Bàn Tròn để làm cho Thế giới biết thêm và hiểu thêm, và do đó có cảm tình nồng nhiệt hơn với dân tộc Ấn.

Cam-Địa ở Anh từ ngày 12 tháng 9 tới ngày mồng 5 tháng chạp. Ông ở tại nhà người bạn quen, vừa là đệ tử của ông, mãi tận Kingsley Hall, cách trung tâm thành phố gần 5 dậm đường. Nhưng ông cũng đặt một nơi làm việc tại một căn phòng nhỏ số nhà 88 phố Knights bridge. Trong khu phố, ông gây được cảm tình mật thiết của người Anh. Các thợ thuyền gặp ông trên đường tới nhà máy buổi sáng đều chào ông kính cẩn. Các bà nội trợ, các em nhỏ thường được ông đứng lại hỏi han vui vẻ. Trẻ gọi ông là « Bác Cam-Địa ». Có đứa thấy ông quấn phá thì gọi mãi: « Ông Cam-Địa ơi! quần ông đâu mà ông mặc váy » làm ông cười mãi không thôi. Phóng viên các báo thi nhau kể những truyện kỳ thú về ông. Một tờ kể lại một ngày kia ông đã phủ phục rất cung kính để đón tiếp Thái-tử Anh. Lúc gặp những viên đó, ông liền cười mà cải chính:

« Ông bạn ơi! tất cả những điều ông kể đó tỏ ra ông giầu trí tưởng tượng lắm. Song, tôi cần cải chính rằng tôi có thể quỳ gối trước một kẻ cùng dân hạ tiện nhất trong nước tôi, để sớm hối cái tội đồng bào tôi đã hạnh hạ y trải bao thế hệ ; nhưng còn quỳ gối trước mặt thái-tử Anh thì thực quả không bao giờ, ngay đến Quốc-Vương Anh nữa chứ đừng nói Thái-tử không thôi. Bởi lẽ rất dản dị là Thái-Từ Anh là tượng trưng của cái uy quyền hỗn xược mà người Ấn đang muốn trút bỏ ».

Cam-Địa được mời đến Hoàng Cung để dùng trà với Vua và Hoàng Hậu. Cả nước Anh xôn xao chờ đợi xem ông ăn mặc ra sao, ông vận phá, đi dép gài, quàng một chiếc khăn san, và đeo lủng lẳng đồng hồ ở đầu một sợi dây mắc qua thắt lưng. Có người hỏi: « Ông mặc thế không thấy lạnh sao? » Ông trả lời: « Nhà Vua mặc nhiều áo, thế cũng đủ ấm lây sang tôi ».

Khi ông đến chơi nhà Cựu Thủ-Tướng Anh trong thời chiến-tranh là David Lloyd George thì không ai bảo ai, các tôi tớ kẻ hầu người hạ trong nhà đều nhất tề ra lạy chào ông. Ông rất lấy làm cảm động.

Charlie Chaplin cũng muốn đến thăm ông. Ông vốn không thích trò chiếu ảnh, từ chối không muốn tiếp, nhất là hề Charlot lại là một tài tử giầu có và sang trọng bậc nhất thế giới. Song nghe nói Charlot xuất thân tại một gia đình hàn tiện ở vùng ngoại ô kinh thành, ông có cảm tình ngay bèn mời đến chơi. Câu hỏi trước tiên của Chaplin là quan điểm của Thánh đối với máy móc ra sao. Có lẽ hai người hiểu nhau lắm, nên cùng nhau cười đùa thân mật. Phải chăng vì câu chuyện hôm ấy mà sau này Charlot thực hiện một cuốn phim chế giễu cuộc đời quá ư máy móc đó chăng?

Tại Luân-Đôn, Cam-Địa còn gặp cả nhà kịch-sĩ trứ danh Bernard Shaw, Lord Itwin, tướng Smits, các giáo sĩ ở Canturbery và hàng trăm nhân vật khác.

Smits nhắc lại chuyện cũ ở Nam-Phi: « Tôi chưa bao giờ gây cho ông những sự phiền nhiễu như ông đã gây cho tôi vậy ». Cam-Địa cười mà xin lỗi: « Tôi không ngờ lại đến nỗi thế ».

Trong 48 ngày ở Anh, ông gắng sức giải thích quan điểm của ông về nền độc lập mà người Ấn mong muốn.

Cam-Địa chú trọng vào mục-đích làm cho người Anh hiểu thấu và cảm mến người dân Ấn, hơn là bàn cãi với chính-phủ Anh trong Hội-nghị Bàn tròn. Và trong phạm vi ấy ông đã hoàn toàn mãn nguyện. Đi đến đâu, ông cũng chinh phục được lòng mến phục của mọi người, vì đức tính giản dị và niềm nở của ông, nụ cười tươi tắn của ông, cùng là những tư tưởng bác ái cao siêu phản ánh ra lời nói. Chính-phủ Anh cử hai viên thám tử làm hộ vệ cho ông. Hai viên này vẫn thường được cắt đi bảo vệ cho các vua chúa, hoặc nhân vật quan trọng ngoại quốc trong thời gian họ trú ngụ tại Anh. Trái với thói thường hách dịch của những người bao giờ cũng làm như không biết đến sự hiện diện của những người phận sự phải theo gót mình, Cam-Địa rất niềm nở và thân mật với hai người vệ sĩ của ông. Ông đến thăm cả gia-đình họ nữa. Và khi ông về thì mời cả họ sang Ấn chơi với ông.

Hàng ngày ông vẫn phải đi dự đều Hội-nghị Bàn tròn. Mục đích của hội-nghị này là ấn-định một biện pháp « sẽ ban hành ở Ấn ». Hội-nghị đã đi đến thất-bại, bởi lẽ đã làm tăng những sự xung đột giữa người Ấn cùng người Hồi, và do đó, gây ra những kết quả tai-hại vô chừng.

Phái đoàn Ấn thuộc Anh có đủ các đại diện các nghề nghiệp cùng các đoàn thể tôn giáo. Người nào cũng đòi cho mình một thể thức bầu cử riêng, một số nghề nhất định tại các hội-nghị lập pháp, v.v… Các nhà cầm quyền Anh đã nâng đỡ cho những khuynh hướng chia rẽ vậy.

Ngay trong hội-nghị, sự xung đột giữa người Ấn và người Hồi đã phát hiện rồi.

Đại biểu Hồi nói rằng Ấn và Hồi bất đồng ý-kiến bởi vì họ theo hai tôn giáo khác nhau, và thờ những vị Thần khác nhau. Đại biểu Ấn vừa đáp lại rằng Ấn và Hồi đều thờ cùng một Đấng Thượng-Đế, thì đại-biểu Hồi vắn tắt trả lời:

« Không. Vì Thượng-Đế của tôi thiên về chính-sách bầu cử riêng biệt, còn Thượng-Đế của vị đại biểu Ấn đây lại ngả về chính-sách bầu cử chung ».

Cam-Địa tuyên bố phản đối mọi cuộc bầu cử riêng biệt. Trong một xứ Ấn tự trị, chỉ có người Ấn chứ không có phân biệt nghề nghiệp cùng tôn giáo chi hết.

Bây giờ lại thêm có đại biểu giai cấp Tiện dân cũng được người Anh cho dự Hội-nghị Bàn-tròn. Ông ta cũng đòi một chính-sách bầu cử riêng biệt hoặc ít nhất cũng một số ghế đã định trước ở các hội-nghị lập pháp.

Thực là mỉa mai đối với Cam-Địa, với cái mộng tưởng quy hợp tất cả người Ấn, người Hồi, lẫn các giai cấp cùng định vào một khối dân tộc duy nhất trong đó tất cả mọi người đều là người Ấn-Độ, chứ không có phân biệt người Ấn, người Hồi hay người Bà-La-Môn, người tiện dân chi cả. Ông đã khản cổ kêu gào người Ấn và người Hồi hãy trở lại tình thân mật trong cuộc tranh đấu chung ngày xưa. Ông đã chịu những cơn bão táp phản kháng của giai cấp ông đã bênh vực những người cùng dân bị Xã-hội khinh rẻ một cách bất công. Vậy mà ngày nay, trong giờ phút quyết liệt mà số phận của Tổ Quốc đang ấn định, thì họ lại mắc mưu chia rẽ mà quên hẳn nghĩa lớn, bo bo giữ lấy lợi riêng.

Bởi thế cho nên Hội-nghị Bàn-tròn thất bại. Vì người Anh chủ tâm bám vững vào đất Ấn, chưa chịu nhả.