← Quay lại trang sách

Chương 3 Thằng tôi tuổi 22

Thời đại học trôi qua thật nhanh. Mới ngày nào tôi còn nghĩ cuối cùng đã vào đại học, loáng một cái giờ đã sắp đến ngày tốt nghiệp. Số lượng tiết học dần ít đi nhưng tôi vẫn bận rộn với bài báo cáo trước kì nghỉ hè cuối cùng của các thầy cô ở các buổi hội thảo

Tôi ra khỏi phòng nghiên cứu. Đang vào mùa mưa nhưng mặt trời cứ thiêu đốt chói chang giữa bầu trời trong trẻo. Mồ hôi tôi vã ra. Ra khỏi phòng sau tôi, Wataru hối hả chạy đến gọi với:

“Này, chờ mình với. Cậu về luôn à?”

“Ừ, giờ mình về.”

“Có nhất thiết phải về sớm thế không. Cậu có việc gì à?”

“Cũng không có gì mấy. Tại mình sắp về quê nên giờ định về nhà chuẩn bị thôi. Nhưng cũng không gấp lắm.”

“Thế thì ngồi với tôi tí đi. Lâu lắm rồi ha.”

Đúng là học năm bốn rồi thì số giờ học cũng ít đi, chẳng mấy khi gặp được Wataru. Từ giờ đến khi ra trường, một tuần tôi cũng đến trường một buổi. Nghĩ thế, tôi thấy kỳ cục: tài liệu của sinh viên năm nhất với sinh viên năm bốn giống hệt nhau. Ngay từ đầu, giá tiền của giáo trình học là do ai quy định và làm thế nào đưa ra quy định đó vậy? Trong bốn năm tôi đã tiêu tốn mấy triệu yên vào tiền sách. Chúng tôi bỏ ra số tiền lớn như thế là để nhận được cái gì nhỉ?

Cũng chẳng có lí do gì để từ chối, chúng tôi đi đến quán nước vẫn hay ngồi. Wataru gọi cà phê đá rồi ngay lập tức vào chuyện:

“Này Daisuke, vụ cậu với em Mizuho chia tay là thật đấy à?”

“Ừ, thật đấy. Cậu vẫn là thiên tài hóng chuyện như xưa nhỉ. Cậu nghe từ ai thế?”

“Từ chính Mizuho thôi, chẳng là, vào buổi định hướng tuần trước vì gộp nhóm nên cô ấy đã đi cùng mình trong buổi thực hành giảng dạy.”

Ra vậy.

Tôi đang học tại trường Đại học Sư phạm ở Tokyo. Điều đó có nghĩa là đương nhiên những bạn bè cùng lớp hầu hết hướng đến việc trở thành giáo viên. Vấn đề là với tình hình kinh tế suy thoái, công chức nhà nước, đặc biệt là nghề giáo trong các trường học ngày càng được nhiều người lựa chọn. Kết quả là tỉ lệ cạnh tranh khi tuyển dụng ngày càng tăng.

Trong lớp tôi có người đang than vãn là muốn về dạy môn xã hội tại trường trung học ở quê nhưng ở trường đó chỉ tiêu tuyển chỉ có ngần này ngần kia người. Vì thế, song song với mong muốn làm giáo viên, nhiều sinh viên cũng đi tìm việc ở các doanh nghiệp bình thường. Mizuho và Wataru đặt mục tiêu ra trường làm giáo viên nhưng đề phòng khi không được, họ vẫn tham gia các hoạt động tìm kiếm việc làm[13] bình thường.

Tuy nhiên, dù cố gắng thế nào thì hoạt động tìm việc cũng dễ thành ra nửa nạc nửa mỡ. Để trở thành giáo viên, mọi người vừa cần phải học ôn thi kì thi tuyển giáo viên, vừa phải đi thực tập. Tuy nhiên, vì tôi cũng không định trở thành giáo viên nên không tham gia những buổi thực tập đó.

“Mối quan hệ của hai người đã từng tốt đẹp lắm cơ mà, làm thế có ổn không?”

Có vẻ như Wataru cố sống cố chết muốn nói chuyện đó.

“À thì cũng chẳng còn cách nào khác. Dù có ở bên nhau thì cũng toàn cãi nhau. Nếu cứ thế thì cả hai sẽ chỉ bất hạnh mà thôi.” - Tôi nói thẳng luôn.

“Dù thế thì Mizuho cũng nói là cô ấy không muốn chia tay. Cô ấy bảo chỉ cần cậu suy nghĩ kĩ về tương lai thì vẫn có thể làm lại từ đầu được…”

Tôi làm mặt chán nản nhìn Wataru.

“Mình thì chả biết Mizuho nói gì nhưng chắc chắn mình suy tính rất kỹ chuyện tương lai.”

“Chẳng phải là cậu chẳng tham gia kì thi tuyển dụng cũng không tham gia hoạt động tìm việc hay sao?”

“Ừ.”

“Đấy, chính thế đấy. Chẳng phải là cậu đang không nghĩ gì sao? Vậy thì có nói là cậu chẳng thể ở cùng cô ấy cũng là đúng.”

“Mình cũng nói với Mizuho rồi, không phải là mình sẽ không làm việc. Dù không định làm giáo viên dạy ở trường học nhưng mình cũng đã có sẵn việc muốn làm sau khi tốt nghiệp. Vì thế nên mình không tham gia hoạt động tìm việc thôi.”

“Rồi, mình cũng đã nghe những cái đó từ Mizuho. Mình chỉ nói điều tốt cho cậu thôi, cậu nên nghĩ lại đi!”

Tôi cũng hay bị Mizuho nói vậy: “Đừng có nói toàn những điều như trong mơ nữa, hãy nghĩ về tương lai thực tế một chút đi.”

Mơ quả là một từ khó dùng.

Tôi cứ nói về ước mơ một cái là cả Wataru và Mizuho sẽ nói rằng: “Mình chỉ nói điều tốt cho cậu thôi, nghĩ lại đi.”

Trên thực tế đó là phản ứng quá đỗi bình thường.

Hồi tiểu học, trong bài văn tốt nghiệp, mọi người đều viết về “Ước mơ trong tương lai” một cách ngây thơ. Có nhưng đứa viết là muốn trở thành cầu thủ bóng chày, cầu thủ bóng đá và cả phi hành gia vũ trụ nữa. Lên trung học, mọi người quên luôn rằng mình đã viết ra những ước mơ như thế, và rồi họ không còn nói ra ước mơ của mình trước mặt người khác nữa.

Đỉnh điểm là thời phổ thông. Cái thứ “tương lai” mà họ vẫn nghĩ là còn ở xa tít bỗng sắp đuổi đến nơi, và số lượng những kẻ uể oải chẳng còn biết “ước mơ” là gì nữa lại tăng lên.

Khi mọi sự thành ra như thế, các thầy cô lại nói:

“Các cô các cậu không có ước mơ à? Không mơ nên mới không muốn làm gì đấy.”

Và cái thứ có thể ngay lập tức đẩy cái “tương lai” đã sát nút kia ra xa thêm bốn năm nữa là một nơi được gọi là “trường đại học”. Hẳn là vì không còn cách nào khác nên rất nhiều người trẻ từng đánh mất ước mơ đã vào trường đại học để kiếm “ước mơ”.

Vậy mà khi vào đại học, chỉ cần nhắc đến “ước mơ” thì sẽ ngay lập tức bị nói là: “Đừng có mơ mộng nữa, hãy nhìn vào sự thật đi”.

Cả thời phổ thông thì bị nói rằng không có ước mơ thì không được, bước chân vào ngưỡng cửa đại học một cái thì lại bị nói rằng cứ toàn nhìn vào giấc mơ là không được. Nếu Mizuho và Wataru - những người nói với tôi rằng “Đừng có nói những điều như mơ nữa, hãy nghĩ về tương lai một cách thực tế đi!” - mà trở thành giáo viên trong trường phổ thông, họ có nói với học sinh những điều như là “hãy sống có ước mơ” không?

Nghĩ kĩ ra thì trong từ “ước mơ” vốn đã có chút gì đó như giễu cợt chúng ta. Đó là thứ mà thầy cô bảo là không có thì không được, người thành công bảo là nếu không từ bỏ thì sẽ đạt được, và người xung quanh lại bảo là nếu mãi mãi nhìn vào thì sẽ không thế sống được.

Nếu tôi cũng cứ mãi đem cái từ gọi là “ước mơ” ấy ra làm trò chơi, mãi mãi không hiểu ước mơ là gì, có thể lúc nào đó tôi sẽ nói với người yêu là “đừng nói những thứ suốt đời chỉ là mơ ước nữa”, rồi sẽ nói với những người trẻ là “vì cậu chẳng có ước mơ nên cậu đang sống những ngày vật vờ”, và sẽ nói với chính con trai mình rằng “nếu con không từ bỏ thì ước mơ sẽ trở thành hiện thực” mất.

Tôi sẽ đứng về phía những kẻ “gió chiều nào che chiều ấy” mất.

Tôi đã chọn “ước mơ” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp của mình. Ấy là quyết định đã luôn luôn có trong tim tôi từ khi vào đại học.

Đương nhiên, để nó được chấp nhận với tư cách một đề tài luận văn tốt nghiệp, tôi đã phải lấy một cái tên thật “hàn lâm”: “Sự thay đổi ước mơ của trẻ em từ thời ấu thơ cho đến tuổi dậy thì và vai trò của giáo viên trong việc hướng học sinh đến hiện thực hóa ước mơ”.

Ngay cái tiêu đề ấy cũng chỉ được giáo sư hướng dẫn chấp nhận một cách vô cùng miễn cưỡng: “Chà, nếu em cứ nhất quyết chọn đề tài này thì…”

Đã không ít lần tôi bị thầy nói với vẻ không đồng ý: “Nếu bản chất của nghiên cứu không sát hơn với nội dung giáo trình, chủ đề không cụ thể và hợp hơn thì tôi khó lòng đồng ý…”

Chỉ cần nghĩ sâu hơn một chút về “ước mơ”, chúng ta có thể lập tức nhận ra cái “ước mơ” mà chúng ta ôm ấp hồi nhỏ không phải ước mơ mà chỉ là “nghề nghiệp”. Thực ra hồi học lớp Năm, tôi cũng từng viết trong bài văn của mình rằng “ước mơ của tôi là trở thành cầu thủ bóng chày chuyên nghiệp”. Tuy nhiên, cầu thủ bóng chày chuyên nghiệp chẳng qua cũng chỉ là một nghề. Thật ra thì đó không phải ước mơ. Bởi vì đó thật ra là mong muốn được hoạt động trong giới chuyên nghiệp, trông bảnh, và mong muốn được trở thành cầu thủ hàng đầu trong số ít các cầu thủ hàng đầu. Chẳng có gì hay ho khi biết có rất nhiều cầu thủ vô danh đang vật vã chất chồng những nỗ lực của mình ở hàng dưới, và họ sẽ luôn phải bất an vì không biết mai nay sẽ ra sao.

Không chỉ cầu thủ bóng chày, cả bác sĩ, luật sư, cả giáo viên nữa, việc làm những công việc đó không phải là “ước mơ” - sau khi làm tất cả những công việc đó, nhờ chúng ta đã làm mà có “thứ gì đó” được hiện thực hóa. Chính cái “thứ gì đó” ấy mới là “ước mơ”. Còn nghề nghiệp chỉ là một “công cụ” để chúng ta biến ước mơ đó thành sự thật.

Có người mất ba mẹ vì bệnh tật mong muốn cứu giúp nhiều sinh mạng của những người bị bệnh tương tự và xoa dịu được nỗi đau của gia đình người bệnh. Khi họ quyết tâm nhất định sẽ sống để làm điều đó, thì quyết tâm đấy sẽ trở thành “ước mơ của cuộc đời”. Có một nghề gọi là “bác sĩ” tồn tại như một “cách” để biến ước mơ kia thành sự thật.

Hơn nữa để hiện thực hóa ước mơ đó, không chỉ có duy nhất một cách. Việc phát triển thuốc chữa bệnh trong công ty dược cũng là một cách. Hay việc kinh doanh trang thiết bị chăm sóc bệnh nhân, việc thi lấy bằng chuyên gia dinh dưỡng để lập thực đơn ăn ngon dành cho người bệnh cần hạn chế trong chế độ ăn, hay trở thành nghệ nhân tấu hài mang lại tiếng cười tăng cường hệ miễn dịch cho cơ thể… Tất cả đều là những “cách làm”.

Hình như khi còn bé, chúng ta ai cũng luôn nghĩ rằng một “nghề nghiệp” nào đó = “ước mơ”. Nhưng nếu cứ giữ nguyên như thế, khi tìm ra lí do cho việc mình không làm được nghề ấy thì đứa trẻ sẽ từ bỏ.

Chúng ta không nhất thiết phải từ bỏ ước mơ của mình chỉ vì một “cách” không thực hiện được, nhưng người ta đã nhầm lẫn giữa từ bỏ một công việc trong tương lai với việc từ bỏ ước mơ của mình. Trong lúc chúng ta phải rất nhiều lần từ bỏ ý muốn làm nghề nào đó thì tự chúng ta để cho mình rơi vào chấn động tâm lí, rằng mình đang từ bỏ việc theo đuổi ước mơ. Thật ra, điều đó không có nghĩa là từ bỏ ước mơ. Chính nhờ việc không từ bỏ ước mơ mà nếu cách này không được thì chúng ta sẽ thử cách khác, và nếu tiếp tục thất bại thì sẽ lại tiếp tục tìm những phương pháp khác… chỉ để biến ước mơ của mình thành sự thật. Tương tự, có những người trẻ cảm thấy “mình đã rất nhiều lần từ bỏ ước mơ” và có những người trẻ khác cảm thấy “mình đã giữ mãi một ước mơ từ bé đến giờ. Mình sẽ luôn tiếp tục tìm cách biến ước mơ thành sự thật”. Nhóm đầu tiên đã lớn lên mà giữ mãi suy nghĩ rằng “ước mơ = nghề nghiệp”, còn nhóm thứ hai là những người nhận ra rằng nghề nghiệp suy cho cùng chỉ là cách để thực hiện ước mơ mà thôi.

Tôi nghĩ độ chênh đó là rất lớn. Tôi đã vừa nhớ về mình ngày xưa vừa viết khóa luận.

Tôi từng là một đứa trẻ rất thích bóng chày. Ngày ấy, chỉ cần có thời gian rảnh, tôi sẽ vác chày và bóng ra sân, dù chỉ có một mình tôi cũng tập ném bóng vào tường đến tận cuối chiều. Nếu tôi chỉ rủ được thêm một người bạn thì cũng chỉ cần chơi bóng chày hai người. Dù bị ba mẹ gọi về sớm tôi vẫn cứ chơi đến chiều muộn. Đương nhiên, vì thích và luyện tập hàng ngày nên tôi chơi ngày càng khá. Và cũng đương nhiên, chính vì thế mà ước mơ tương lai của tôi là trở thành “cầu thủ bóng chày chuyên nghiệp”.

Vào lúc đó, có một cựu cầu thủ bóng chày chuyên nghiệp cùng quê mở một lớp học bóng chày. Vào buổi cuối, cầu thủ đó đã nói trước mặt lũ học sinh tiểu học chúng tôi: “Các em hãy có ước mơ của mình. Chỉ cần không từ bỏ thì ước mơ sẽ trở thành hiện thực.”

Tôi trả lời đầy hào hứng: “Vâng!”

Và tôi đã vào đội bóng chày của khu. Khi ấy, tôi mới học lớp Bốn. Từ lúc đó, tất cả các ngày thứ bảy và chủ nhật đều trở thành ngày luyện tập. Và rồi, không biết từ khi nào, cứ đến ngày thứ bảy tôi lại cảm thấy khốn khổ: “Hôm nay lại phải đi tập”.

Trong khi mọi người vui vẻ kể chuyện ngày nghỉ đi bể bơi hay cùng gia đình đi biển thì tôi phải đi tập bóng chày. Kì nghỉ đông hay nghỉ hè, tôi cũng luyện tập suốt ngày và không thể đi du lịch được. Việc chơi bóng chày từ xuất phát điểm là muốn chơi bóng từ bao giờ biến thành phải chơi.

Đã có lần tôi nghĩ rằng mình muốn chạy trốn khỏi sự khốn khổ ấy và tôi thật sự đã chạy trốn. Có thể nếu có tài năng xuất chúng, vượt trội hơn người thì tôi đã không thấy thế. Thế nhưng với người có cố gắng luyện tập thế nào cũng không được ra sân thi đấu như tôi thì chẳng có cách nào để sự luyện tập gian khổ ấy được báo đáp hết. Dù trong lớp tôi được khen là giỏi thì đứng giữa một đội toàn cầu thủ đẳng cấp cao, thực tế là tôi chắc chắn sẽ không thể được cho ra thi đấu.

Trong hai năm, tôi cứ tự nhủ bản thân là mình ở trong đội toàn những người chuyên nghiệp nên đó là chuyện đương nhiên. Cứ thế, tôi vẫn tiếp tục đến năm lớp Năm, lớp Sáu chỉ vì tin vào lời nói: “Nếu không từ bỏ thì ước mơ sẽ trở thành sự thật”. Khi lên đến lớp Sáu, trở thành đứa lớn nhất trong đội, tôi dần tự ý tưởng tượng ra cảnh cuối cùng thì cơ hội vào thi đấu sẽ xoay vòng đến mình.

Vậy mà có một thằng bé lớp Năm từ thành phố bên cạnh đã chuyển nhà đến. Thằng bé tiểu học cao một mét bảy, cơ thể cường tráng vô cùng. Vì chúng tôi đã đấu với đội cũ của cậu ta nhiều lần nên ai trong đội cũng biết cậu ta là một cầu thủ cừ đến mức nào. Khi cậu ta được giới thiệu vào đội, cả đội tôi, từ huấn luyện viên, người hướng dẫn trở đi ai ai cũng vui mừng vì cảm thấy đội sẽ mạnh lên rất nhiều.

Khi được hỏi ở đội cũ chơi vị trí nào, câu trả lời của cậu ta là ở vị trí của tôi… Kết quả là dù tôi đã là học sinh lớp Sáu nhưng cũng không được ra sân, và tôi đã bỏ đội bóng đó.

“Nếu không từ bỏ thì ước mơ sẽ thành sự thật.”

Hẳn là người đã đạt được ước mơ của mình rồi thì sẽ nói thế. Không phải là họ không bao giờ từ bỏ ước mơ, mà là họ chưa bao giờ rơi vào hoàn cảnh buộc phải từ bỏ ước mơ thôi… Chẳng phải họ là những thiên tài hay sao?… - Mới là học sinh tiểu học mà tôi đã nghĩ thế rồi. Tôi đã từ bỏ việc trở thành cầu thủ bóng chày.

Từ đó, tôi cứ lặp đi lặp lại điệp khúc: Từ bỏ mơ ước đi! Từ bỏ cả việc tìm kiếm cái gì đó khác nữa!… Trong khi đó, chưa bắt đầu cái gì mới, tôi đã từ bỏ rồi: “Kiểu gì rồi cũng không làm được thôi”. Và hơn thế, tôi không còn mơ ước gì nữa.

Mà không, thực ra thì là tôi sợ phải mơ ước.

“Nếu lại phải từ bỏ lần nữa thì…” - Tôi không tự tin về bản thân mình. Bởi vì ai cùng ghét phải đối mặt nhiều lần với một bản thân yếu đuối từ bỏ ước mơ của mình.

Trước giờ tôi vẫn là đứa ghét thua cuộc, nhưng xét cho cùng cái thua đó không phải là chuyện thắng thua thông thường. Nếu chỉ là chuyện thắng thua thì chúng ta cứ việc trốn tránh tranh đấu, sẽ chẳng thắng nhưng cũng sẽ không thua. Nếu không có ước mơ, tôi có thể sống mà không phải thấy bản thân mình từ bỏ ước mơ đó.

Nếu ngày ấy tôi biết trước rằng cầu thủ bóng chày chuyên nghiệp chỉ là một cách để tôi đạt được ước mơ của mình và rằng nếu cách ấy không thành công tôi cũng không cần thiết phải từ bỏ ước mơ, thì chắc tôi đã có thể nghĩ xem ước mơ thật sự của mình là gì rồi. Và rất có thể nếu tôi đổi cách làm để đạt được điều đó tôi đã không rơi vào tình trạng suy sụp tinh thần với ý nghĩ “mình là một thằng thất bại” như thế này. Đến tuổi này cuối cùng tôi đã hiểu khi có ước mơ thì đương nhiên trước mặt sẽ có một “bức tường cần vượt qua”. Trong ước mơ cũng có cả công cuộc đổi “việc muốn làm” thành “việc bắt buộc phải làm”. Tôi đã quá thiếu sự chuẩn bị cho điều đó.

Chắc hẳn là không chỉ có tôi. Đã có nhiều người lớn lên và trải nghiệm cái cảm giác này: trước khi ước mơ, họ làm điều gì hàng ngày đơn thuần vì thích nhưng khi vừa có một ước mơ, điều đó dần trở thành thứ buộc phải làm và họ nhanh chóng chán ghét.

Chính trong ước mơ của chúng ta có một sức mạnh biến tất cả những “điều muốn làm” thành “điều phải làm” nên trước khi có một ước mơ, chúng ta luôn cần phải là người có thể giữ “điều muốn làm” nguyên vẹn là “điều muốn làm”. Vậy thì sự khác biệt giữa người biến “điều muốn làm” thành “điều phải làm” và người giữ nguyên được những “điều muốn làm” là gì?

Đó là việc họ tiếp nhận những thứ xảy đến với mình như thế nào. Cũng có thể nói đó là sự khác nhau trong việc tiếp nhận vô điều kiện tất cả với tiếp nhận có chọn lọc tùy theo điều kiện của mình khi đó. Trong những thứ xảy đến với mình, nếu vì phiền phức mà chúng ta cố tránh né thì trong khi chúng ta không chú ý, những thứ đã từng thích làm cũng sẽ trốn chạy chúng ta. Trẻ con trước khi vào tiểu học luôn nhiệt tình đón nhận tất cả những điều xảy đến trước mắt. Chúng không biết buông tay. Bạn tôi, những người đã đi thực tập giảng dạy kể:

Với học sinh tiểu học trong giờ học Tiếng Nhật, khi yêu cầu các em phân chia vai để đọc tiểu thuyết, chúng sẽ hết mình cố gắng diễn như thể đang đóng kịch. Vậy mà khi đưa ra yêu cầu tương tự với học sinh trung học, trước khi phải làm chúng sẽ cố gắng nghĩ ra lí do để không làm, như kiểu:

“Làm thế có ý nghĩa gì chứ?”, “Có phải trẻ con đâu mà…”, “Làm thế thì có được cộng điểm không ạ?”…

Cũng có thể do chúng cảm thấy xấu hổ nên nói vậy, nhưng cũng vì mọi hành động của bọn trẻ đã trở nên có toan tính.

Vậy mà chúng ta không thể tìm được ước mơ của mình chính trong những thứ chúng ta thật lòng tiếp nhận. Chỉ những đứa trẻ mới có nhiều ước mơ bởi hằng ngày chúng sống và nhiệt tình đón nhận tất cả những gì xảy đến.

Tuy thế, khi những đứa trẻ ấy trở thành học sinh trung học chúng tự mình quyết định cách học tập trong giờ học. Chúng dần lười biếng trong những môn mình không thích. Chúng sẽ không còn nghe những câu chuyện mình không có hứng. Chúng sẽ không còn như hồi tiểu học, không hết mình với những điều xảy ra trước mắt nữa…

Rồi khi bọn trẻ lên phổ thông, chúng còn tự phán đoán những môn không liên quan đến việc dự thi sau này của mình là “không cần thiết” và sẽ không đăng kí học những môn đó. Nhưng những phán đoán “cần thiết” và “không cần thiết đó chỉ là dựa trên điều kiện lúc đó, tức là chỉ vì lúc đó chúng thấy phiền hà nên đã dễ dàng vứt bỏ và nói rằng môn này không cần thiết.

Bằng cách đó, trước mắt những đứa trẻ chỉ còn sót lại những thứ cần thiết cho chúng, có nghĩa là chúng có thể làm mọi thứ chỉ với những thứ trên. Nhưng rồi, một lúc nào đó, tiêu chuẩn đánh giá sẽ không còn là cần thiết hay không nữa mà trở thành phiền phức hay không. Cuối cùng, chúng sẽ gắn lí do cho mọi thứ xảy đến với mình và rồi không thể thật lòng tiếp nhận những thứ đó nữa. Bởi vì chúng đã tự đẩy vạch “giới hạn không thể tha thứ” mà chính mình đã tự quy định từ trước ra xa lắm rồi.

Những người trẻ tuổi đã thành ra như thế chính là những người đã phát minh ra câu: “Hình như cuộc đời chẳng có gì thú vị…”

Khi còn là trẻ con, chúng ta vui vẻ mỗi ngày không phải vì chúng ta làm những điều thú vị.

Nếu thật lòng làm điều gì đó thì cái gì cũng thú vị. Và ước mơ chỉ trào dâng trong những việc làm thật lòng.

Ước mơ không phải là thứ sẽ rơi xuống đâu đó.

Có những người dùng từ “tìm kiếm ước mơ” nhưng dù có tìm kiếm cũng sẽ không bao giờ thấy.

Nếu có thấy thì nhiều nhất cũng chỉ là thấy được một công việc có vẻ dễ sinh lời, hoặc một công việc khiến họ có thể nghĩ rằng làm thì cũng không sao.

Bởi vì thứ gọi là ước mơ chỉ có bên trong chính con người chúng ta mà thôi.

Vâng, tôi đang tổng hợp những điều như thế để viết thành luận văn. Tất nhiên, quan trọng hơn những điều tôi tự nói sẽ là những câu chữ tôi học được từ những người đã gây ảnh hưởng đến tôi qua những buổi diễn thuyết. Tuy nhiên, hiện tại thì tất cả ý kiến của mọi người đang lộn xộn trong đầu tôi, đến nỗi tôi không phân biệt được phần nào tôi học của ai. Hơn thế nữa, tôi còn phải cân nhắc xem chỗ nào nên cho ý kiến của mình vào nữa. Những người lớn hay ho tôi đã gặp, họ đều đang sống chân thành với những điều mình muốn làm. Họ không trốn chạy những điều ấy. Họ đều tươi cười trả lời “vâng” để đón nhận tất cả những khó khăn họ gặp trên con đường mình đã chọn. Họ cũng không nghĩ đến việc người xung quanh nói gì về điều mình đang làm, có ổn định không, kiếm được hay không kiếm được…

Họ hành động với cốt lõi là “lòng nhiệt huyết” chứ không phải “sự tính toán”. Đằng sau những hành động đầy nhiệt huyết ấy là “ước mơ” vững vàng của họ.

Những người thành công với những điều mình muốn làm có một vài điểm chung. Đó là trước khi làm gì, dù có tính toán thế nào họ cũng đều phải đối mặt với ý nghĩ “cái này không thể làm được”. Thêm vào đó, một cách kì diệu, họ đều gặp được những người họ cần để biến điều đó từ không thể thành có thể.

Với người sống có nhiệt huyết thì chắc chắn người giúp đỡ, cổ vũ cho ước mơ ấy biến thành sự thật sẽ xuất hiện.

Những người lớn tài giỏi mà tôi gặp, tất cả mọi người đều như vậy. Mà không, không chỉ có thế đâu. Tất cả vĩ nhân trong các sách lịch sử mà tôi đọc để phục vụ cho việc viết luận văn này cũng vậy. Con người không thể “tính toán” được việc gặp gỡ.

Tất cả những con người ấy trong khi nói rằng mình đang suy nghĩ nghiêm túc về tương lai thì trong khi cố gắng tính toán tương lai, ngay từ đầu họ đã chẳng nghĩ gì đến cái gọi là “duyên gặp gỡ”. Những người sống chân thành có nhiệt huyết tự họ sẽ biến thành nam châm hút “những cuộc gặp kì tích” tới. Điều đó tôi dám chắc.

Từ khi nhận ra điều đó, tôi đã thôi không lo lắng về tương lai nữa. Sau khi tốt nghiệp đại học, tôi sẽ làm công việc như thế này, hàng tháng kiếm được ngần này, sẽ sống cuộc sống thế này… Nếu tôi quyết định không hành động một cách có nhiệt huyết, rất có thể cuộc đời tôi sẽ diễn ra theo những tính toán như thế. Nếu vậy thì chắc giờ này tôi đang phải lao vào tìm việc rồi. Và tôi đang phải tơi bời với những nỗi lo nhỏ nhặt: công ty này điều kiện tốt, công ty kia thì ổn định… Nhưng tôi có tính toán tương lai thế nào thì cũng không thể cho vào bản kế hoạch của mình kế hoạch gặp gỡ ai, ở đâu, khi nào. Ngược lại, nếu tôi hành động trên nền tảng của sự nhiệt huyết, sống mà thật lòng tiếp nhận những gì xảy ra trước mắt mình thì cuộc gặp gỡ với người ủng hộ cho lí tưởng của mình sớm muộn cũng sẽ tự ghé thăm. Nhờ thế, cuộc đời sẽ từ đó mà chuyển mình theo một hướng tuyệt vời mà chính mình cũng không tưởng tượng nổi. Điều nay chắc chắn không sai.

Đại thể là đối với một người đang sống hết mình ở một lĩnh vực, việc không gặp người cũng đang sống ở lĩnh vực đó mới là chuyện khó. Nếu nghĩ kĩ một chút thì điều này cũng dễ hiểu.

Chỉ cần sống thật lòng với những điều trước mắt thì kì tích sẽ xuất hiện. Nhưng thật ra đó không phải kì tích mà là điều đương nhiên.

Tôi quyết định chọn cách sống như thế.

Mizuho đã nói với thằng tôi đó rằng: “Đừng nói toàn những điều như trong mơ ấy nữa, hãy nghĩ về tương lai một cách thực tế đi”. Chỉ vì một câu nói đó mà tôi quyết định chia tay.

Có lẽ Mizuho đã muốn nói câu đó từ lâu lắm rồi. Có thể cô ấy cứ mãi chịu đựng mà không nói gì cho đến tận bây giờ là vì đã rất gần ngày tốt nghiệp mà tôi thì chẳng quan tâm đến việc tham gia hoạt động tìm việc. Chắc chắn là cô ấy đã cố gắng để không nói điều đó cho đến ngày hôm ấy. Chỉ có điều cô ấy lại chẳng nghĩ ngợi gì mà nói với một đứa hoàn toàn không cảm thấy quan tâm gì tới điều ấy như tôi.

Tôi bắt đầu hẹn hò với Mizuho từ khoảng hè năm thứ nhất đại học. Chúng tôi thấy tâm đầu ý hợp vì học cùng một lớp, có chung một quá khứ là trượt nguyện vọng I vào trường K nên mới vào trường này. Dù chỉ là một điểm chung vô cùng bé nhỏ tầm thường ấy thôi nhưng với hai đứa chúng tôi, những người vừa bước chân vào một môi trường mới mang tên đại học, có lẽ hai đứa đều muốn nhanh chóng có một người nào đó có thể thấu hiểu mình.

Thế rồi, một cách tự nhiên, chúng tôi ngồi gần nhau trong lớp và nhanh chóng trở thành người yêu. Nói thế mới nhớ, tôi cũng không biết mình có “tỏ tình” không - cái việc tỏ tình mà cho đến phổ thông vẫn còn quan trọng nhường ấy.

Mizuho nói hồi nhỏ cô ấy đã muốn trở thành cô giáo tại ngôi trường ở quê hương Chiba của cô. “Từ bé, ước mơ của em vẫn là làm giáo viên ở trường học.” - Lần đầu nói về ước mơ của mình, cô ấy đã nói thế.

“Tại sao?” - Tôi hỏi.

“Vì em thích trẻ con này…” - Cô trả lời.

Tôi cũng chỉ hùa theo: “Ồ, ra vậy.”

Khi đó, tôi đã không nói gì về hi vọng tương lai của mình cả. Mizuho cũng không đặc biệt quan tâm lắm và cũng không có ý định hỏi. Có lẽ vốn trong đầu cô ấy đã luôn nghĩ rằng tôi muốn trở thành giáo viên. Mà điều đó cũng đâu có gì vô lí. Dù thế nào thì trường mà chúng tôi đang học cũng là Đại học Sư phạm mà. Tuy nhiên, chỉ đúng một lần khi bị hỏi về tương lai tôi đã đáp thế này:

“Ước mơ của anh là bổ sung vào bộ năm môn chủ chốt: tiếng Anh, toán, tiếng Nhật, tự nhiên, xã hội của nền giáo dục đất nước này thêm môn ‘nhân sinh học’, tạo thành nền giáo dục với sáu môn chủ chốt.”

Cô ấy chỉ cười. Nhưng với hướng phát triển của câu chuyện, hình như cô ấy đã tự ý tưởng tượng ra tương lai của tôi rồi thì phải.

Từ năm nhất, tôi đã cố gắng đi dự diễn thuyết của nhiều người nhất có thể. Đương nhiên, đó là do ảnh hưởng từ cô nàng mà tôi đã yêu đơn phương từ hồi phổ thông. Khi đến nhiều buổi diễn thuyết, tôi đã hiểu không phải buổi nào và cái tên nào cũng hay. Trong số đó cũng có những buổi chỉ để cố gắng bán hàng hoặc có những thứ đáng sợ như kiểu bị tẩy não. Và tôi cũng biết những buổi diễn thuyết mà cô gái ngày ấy đã giới thiệu cho mình tuyệt đến mức nào. Kết cục là kết thúc năm nhất, số lần tôi đi nghe diễn thuyết cũng giảm.

Nghe nói chuyện quan trọng rồi, nhưng việc mình phải làm gì đó còn quan trọng hơn. Tôi nhận ra rằng từ khi nào mình đã thấy việc gặp gỡ người giỏi và nghe họ nói chuyện là mãn nguyện rồi, và mình thì đang chẳng làm gì cả.

“Dù có bắt được quyển sách hay mà mình chẳng làm gì thì chẳng khác gì không gặp. Nếu gặp được cuốn sách hay, nhất định phải hành động. Phải luôn tạo ra trạng thái vì đọc được quyển sách này mà mình có ngày hôm nay. Chỉ khi đó thì giá trị của cuốn sách đó với các em mới được định ra.” - Điều này tôi đã nghe từ thầy Miyashita hồi phổ thông, và nó cũng tương tự với các buổi diễn thuyết.

Tự chúng ta làm gì - đó mới là điều quan trọng.

Từ khi nhận ra điều đó, tôi cố gắng hết sức để tới những buổi diễn thuyết của người mình thấy thích.

Năm thứ hai, tôi đã có lần dẫn Mizuho, người luôn nói “không có hứng thú” tới một buổi diễn thuyết. Tôi cố ép cô ấy: “Cứ cho là em bị lừa đi, anh muốn em cùng đến nghe thử với anh.”

Đó là buổi diễn thuyết của ông Shigematsu, người phát triển tên lửa mà tôi đã nghe qua CD với câu chuyện rất cảm động hồi phổ thông. Tôi đã rất hồi hộp vì đó là lần đầu tiên tôi được gặp ông ngoài đời thực. Rời hội trường, tôi hỏi Mizuho: “Thật tốt vì đã đến đây phải không?” - tim tôi vẫn run run vì cảm động.

Cô ấy chỉ trả lời: “Ừ thì điều đó chỉ có người ta mới làm được nhỉ. Những người như chúng ta sao làm những thứ phi thực tế như thế được.”

Từ đó trở đi, tôi không rủ cô ấy đến buổi diễn thuyết nào nữa. Còn cô ấy thì khéo léo thuyết phục tôi từ bỏ việc đi dự các buổi diễn thuyết: “Em thấy việc đi nghe chuyện của những người có cách sống đặc biệt, cả những thứ mà chỉ họ mới làm được thì cũng tốt thôi, nhưng vì Dai-chan phải sống cuộc sống bình thường nên hay là anh dành thời gian cho những thứ thực tế hơn đi? Học ôn cho kì thi tuyển giáo viên chẳng hạn?”

Thế là tôi bắt đầu nói dối cô ấy để đi dự những buổi diễn thuyết. Kết cục là Mizuho không biết có phải đã phán đoán tôi “cứ cho là em bị lừa” thanh minh đã bị lừa thật hay thế nào mà kể cả khi tôi rủ rê những cái khác, với những thứ từ đầu cô ấy vốn không quan tâm, cô ấy thành ra luôn thẳng thừng “Em chịu thôi”.

Vì thế, cô ấy chưa một lần đến nghe tôi biểu diễn rakugo trong ngày hội trường hàng năm. Đúng thế, tôi đã tham gia Hội nghiên cứu rakugo của trường đại học. Mà thực ra cũng tại tôi làm mãi vẫn không suôn sẻ nên cũng chưa bao giờ rủ cô ấy đến nghe.

Vậy mà chúng tôi chẳng chia tay mà vẫn cứ thế hẹn hò.

Chắc người ta cũng nhiều lần muốn hỏi tôi tại sao lại là với một người không hợp như thế, nhưng tôi dám chắc việc hai người không có cùng sở thích và mối quan tâm cũng chẳng phải chuyện hiếm. Thực ra cô ấy cũng nhiều lần rủ tôi vào câu lạc bộ tennis mà cô ấy đang tập, nhưng tôi cũng chẳng thể thích nổi. Chúng tôi không dùng sở thích và mối quan tâm chung làm chất keo gắn kết được. Có lẽ, nếu nói về lí do chúng tôi ở bên nhau chắc chỉ là vì với cả hai độc thân thì cũng buồn thôi.

Năm thứ ba, khi mọi người xung quanh bắt đầu thực tập giảng dạy hay tham gia hoạt động tìm việc, Mizuho đã biết tôi không định trở thành giáo viên. Mà đừng nói đến việc làm giáo viên, đến việc làm một viên chức bình thường tôi cũng không có ý định.

Từ đó, mối quan hệ của chúng tôi dần dần rạn nứt. Nhất là hễ nói chuyện tương lai, giữa chúng tôi xuất hiện không khí u ám chia ngang.

Mizuho luôn cố gắng nói với tôi rằng nếu tôi nghĩ đến tương lai thì dù không trở thành giáo viên cũng phải trở thành nhân viên ở một công ty lớn và ổn định. Những lúc như thế, tôi lại nói dối: “Rồi, anh sẽ nghĩ”. Tại nói qua nói lại thành ra cãi nhau cũng phiền. Mà cũng vì ngoài lúc nói chuyện tương lai thì hai đứa lúc nào cũng vui vẻ.

Bắt đầu từ mùa xuân năm thứ tư, điều đó không còn đúng nữa. Cứ mở miệng ra là đại chiến sẽ xảy ra. Tôi cảm giác những cuộc điện thoại hàng ngày theo quy ước ngầm bất thành văn của chúng tôi cũng chỉ còn là hình thức. Mỗi ngày trước khi đi ngủ chúng tôi vẫn gọi điện cho nhau, nhưng cuối cùng chỉ cố gắng ngắt điện thoại vì chẳng có lấy một câu chuyện vui vẻ.

Trong khi những người bạn cùng khóa đang quay cuồng với hoạt động tìm việc hoặc cắm đầu vào học ôn thi kì thi tuyển giáo viên, tôi vẫn thế, chẳng làm gì trong hai việc đó cả. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là tôi đang không làm gì cho tương lai. Thực ra tôi đã bước một bước mà tôi cho là lớn đối với mình.

Đó là tôi đã mua cả một bộ máy ảnh, máy quay, máy tính và phần mềm. Tôi đã bỏ toàn bộ số tiền tiết kiệm được từ việc làm thêm chăm chỉ để mua chúng. Với tôi, đó là một bước tiến đầy dũng cảm. Trong số đó, thứ đắt giá nhất là phần mềm máy tính nằm trong chiếc hộp bé tí tẹo.

Có được những thứ đó, đêm ấy tôi vui sướng gọi cho Mizuho, rộn ràng: “Này nhé, hôm nay anh mua được bộ máy tính mơ ước rồi! Anh mua được rồi!”

Mizuho chẳng nói gì chỉ thở dài.

“Này, em có chuyện này muốn nói.” - Hình như cô ấy giận. “Em biết là anh chẳng nghĩ gì về tương lai, cũng chẳng quyết định công việc của mình và đang vui vì mua được cái máy tính, nhưng anh tính sao với em đây?”

“Anh sẽ làm điều mình muốn và làm cho Mizuho hạnh phúc.”

“Em không thể nghĩ như thế được. Chẳng phải là anh toàn nói những thứ to tát như trong mơ và chẳng suy nghĩ gì đến tương lai hay sao? Chẳng phải là bây giờ mọi người đều đang nỗ lực học tập để trở thành giáo viên hay đang tìm việc hay sao? Tại sao chỉ Dai-chan không thèm nỗ lực vì bản thân mình?”

Với kinh nghiệm hẹn hò trước giờ, tôi cảm nhận rằng chắc chắn Mizuho sẽ không hiểu cho tôi đâu. Nhưng tôi cũng chỉ có thể giải thích:

“Ước mơ của anh là thêm môn ‘nhân sinh học’ vào hệ thống năm môn học chính, là làm cho trụ cột giáo dục trở thành sáu môn.”

“Anh đang nói gì vậy, em không hiểu. Anh bảo một người con không định trở thành giáo viên thì làm sao mà thêm được môn học nào đây?”

“Anh không trở thành giáo viên vì nếu làm giáo viên sẽ không làm được những điều như thế.”

“Vậy anh định tốt nghiệp đại học sẽ làm gì?”

“Đầu tiên anh sẽ quay phim.”

“Phim?”

“Đúng, phim. Đầu tiên anh sẽ làm đạo diễn. Sau đó thì…”

“Đủ rồi! Em đã chán nghe những điều như trong mơ ấy rồi. Hãy nghĩ cho em một chút đi…” Mizuho khóc vào ống nghe điện thoại, run lên vì tức giận.

Tôi từ bỏ việc giải thích, cố gắng nói thật nhẹ nhàng:

“Có thể em không hiểu cho anh nhưng không phải anh đang không nỗ lực. Anh thực sự đang cố gắng vì tương lai của đất nước này. Không phải anh đang nỗ lực vì bản thân, anh nghĩ rằng chẳng phải có những điều mà bản thân có thể làm được vì đất nước hay sao. Vì thế, anh đã quyết định là phải làm nó. Chỉ thế thôi.”

Kết cục, từ sau đó khoảng cách của hai đứa không thể trở về như lúc đầu nữa. Vào cái lúc tôi biết tương lai chúng tôi sẽ đi theo hai hướng khác nhau, con tim chúng tôi cũng dần dần xa cách. Dù vậy, cũng phải mất thêm vài tháng cho đến lúc chúng tôi chia tay.

“Này, cậu bảo là sẽ làm đạo diễn phim hả?”

“Ừ. Nói là phim nhưng ban đầu cũng chỉ bắt đầu bằng những thứ đơn giản gần giống như slideshow thôi.”

“Không được đâu Dai-chan. Đại khái số người thành công nhờ công việc dạo diễn chỉ đếm được trên đầu ngón tay thôi. Cậu có thể nhìn thấy ngành điện ảnh từ giờ rồi đấy, trên thế giới này cũng chẳng có nhiều nhà tài trợ đâu. Vì thế, chắc chắn là Mizuho sẽ thấy bất an rồi.

Cô ấy nói là trong lúc thế này, khi tương lai không biết sẽ ra sao thì làm nghề giáo viên là ổn định nhất. Bây giờ vẫn chưa muộn, cho nên cậu hãy học đi, rồi dự kì thi tuyển dụng năm sau đi, Dai-chan.” - Wataru vừa khoắng cà phê bằng ống hút vừa nhiệt tình diễn thuyết.

“Với mình dù có ổn định cũng chẳng có ý nghĩa gì. Mình phải làm cho tương lai của trẻ em tốt đẹp hơn.”

“Đúng là chẳng có gì thay đổi. Ấm áp quá nhỉ. Quả thật là như thế nhưng chẳng phải là những đứa chẳng thể làm cho cuộc sống của mình và gia đình hạnh phúc thì chẳng làm được gì trong đời hay sao?”

“Wataru, nghe mình nói này. Cậu có biết thức sức mạnh nào mạnh nhất lay chuyển con người không?”

“Sức mạnh lay chuyển con người?”

Wataru làm điệu bộ suy nghĩ một lúc: “Là gì thế? Tiền à?”

Tôi chỉ cười khốn khổ:

“Quả thật tiền cũng có nhất thời làm lay chuyển con người, nhưng chỉ bằng tiền thì cuối cùng con người cũng sẽ mất đi quyết tâm làm việc thôi. Thực ra động cơ mạnh mẽ nhất chính là nỗi bất an và sự sợ hãi. Bây giờ chúng ta đang hùng hục kiếm việc làm, rồi có thể trở nên hết mình trong kì thi tuyển dụng cũng là vì nỗi sợ hãi và bất an đối với tương lai thôi.

Có điều đấy lại là động cơ mang tính động vật. Chó, khỉ và cả sư tử cũng hoạt động với động cơ tương tự. Nếu đói thì có thể chết. Vì thế chúng đi săn mồi. Và khi no bụng rồi chúng sẽ không vận động nữa. Vào cái lúc nỗi bất an và sợ hãi đó biến mất, chúng ngừng vận động. Cậu không thấy là điều đó giống hệt chúng ta từ trước đến giờ hay sao?”

“Ừ thì quả thật nếu không bị thúc dồn hay không phải là trước kì thi thì chúng ta cũng chẳng học hành gì nhỉ.”

“Tuy nhiên, có một thứ động lực mà chỉ con người mới có.”

“Chỉ con người mới có?”

“Đúng thế, là ‘nỗi khát khao.’”

“Khát khao…?”

“Cậu thử đến công viên sau một trận đấu bóng chày trung học hay mà xem. Chắc chắn cậu sẽ cực kì hiểu điều đó - rằng con người là giống động vật bị nỗi khát khao bắt vận động. Ở đó, cậu sẽ thấy bọn trẻ con đứa nào cũng chơi bóng chày.

Trong năm có World Cup, lũ trẻ chơi bóng đá cũng tăng lên. Hay khi trong môn thể thao nào đó có một thiên tài xuất hiện thì số trẻ con bắt đầu môn đó cũng tăng nhanh chóng. Đánh golf, bóng bàn hay tennis cũng thế.”

“Đúng thế. Nhưng vậy thì sao?”

Nào, hay nghe hết đã! Tiện đây, những người mà lũ trẻ ngưỡng mộ và khát khao trở thành đó họ ở đâu? Và làm thế nào mà xuất hiện trước mắt lũ trẻ được?”

“Ồ, chắc là ti vi rồi.”

“Đúng, là thế đấy. Trong số những ước mơ tương lai của trẻ con có rất nhiều cầu thủ bóng đá hay bóng chày là bởi chúng có nhiều cơ hội để nhìn thấy bọn họ. Vậy thì nếu thực tế lũ trẻ biết những điều khác thì có thể chúng cũng sẽ nuôi dưỡng khát khao. Và những điều khác ấy chẳng lẽ lại không có thứ gì gọi là công việc của người lớn?”

“Thật vậy, hẳn là có rồi. Rất nhiều.”

“Đúng vậy, có rất nhiều. Bởi vì trên thế giới này có rất nhiều người lớn tuyệt vời. Vậy ai sẽ giới thiệu cho bọn trẻ về họ?”

“…”

Wataru im lặng. Tôi lại tiếp tục.

“Mình nghĩ là việc giới thiệu cái đó cho lũ trẻ là một nhiệm vụ của người thầy. Vậy mà thật tiếc vì những nhà giáo cũng không biết rằng có những người lớn như vậy trong cuộc đời này. Họ chỉ nhìn thấy cuộc sống mình đang sống và những thầy cô khác quanh mình nên họ cho rằng vào đại học, đi làm giáo viên hoặc vào cơ quan nhà nước là một cách sống hạnh phúc.

Vì thế, họ chẳng có cách nào giới thiệu cho bọn trẻ. Vậy mà họ lại nói với chúng những điều như kiểu “hãy có ước mơ”. Kết quả là mơ ước của lũ trẻ chỉ có thể là một nghề nghiệp chúng thấy trên ti vi hoặc một nghề chúng ngẫu nhiên gặp được. Thực ra các thầy cô dù có biết đi chăng nữa thì lên trung học, phổ thông cũng quá bận với việc giảng dạy các môn học khác rồi nên họ cũng chẳng nói thêm ra ngoài những thứ đó.

Cậu thử nhớ lại xem. Tính cả thời gian học đại học, cho đến nay, cậu đã đi học những mười sáu năm rồi. Trong khoảng thời gian đó, cậu đã gặp bao nhiêu người cậu thầy ngưỡng mộ? Cậu đã được dạy bao nhiêu về những người đó? Cậu đã được dạy bao nhiêu về việc có những người lớn đang sống với những công việc rất tuyệt vời?”

“Tiếc là mình chẳng có lấy một người.”

“Đúng thế. Mình cũng chỉ có tầm một hay hai người thôi. Một, hai người trong vòng mười sáu năm trời! Bởi vậy mình phải làm những bộ phim giới thiệu về những người lớn tài giỏi như thế, những bộ phim làm cho lũ trẻ hiểu được rằng có những người mà chúng có thể mong ước trở thành.”

“Làm ra được rồi sao nữa? Chẳng ai xem và trả tiền những thứ như thế cả.”

“Wataru, cậu biết cả nước có bao nhiêu trường học không?”

“Mình chịu thôi.”

“Nếu tính các trường tiếu học và mẫu giáo thì có hơn tám mươi nghìn. Hầu hết họ đều có một thứ cơ sở vật chất nọ.”

“Đừng làm màu nữa!”

“Biết rồi! Là thư viện đó. Thư viện sẽ cho mượn sách. Và có thế nói chắc chắn rằng họ có sách viết về các vĩ nhân. Trong đó chắc chắn có đủ những người tài giỏi mà bọn trẻ có thể cực kì ngưỡng mộ. Vậy mà đáng tiếc thay…”

“Chúng không được đọc cho nghe.”

“Đúng, không được đọc cho nghe. Vì thế, mình sẽ làm thành phim. Và rồi đưa chúng vào thư viện của tất cả các trường học. Vì chúng ta có thể cho mượn sách nên cũng đã đến thời kì có thể cho mượn cả video rồi. Kể cả không đọc được sách thì nếu bày DVD trên giá sách thư viện chẳng lẽ lũ trẻ cũng không mượn về? Rồi khi nội dung những chiếc đĩa được chấp nhận, có thể sẽ có trường đưa vào việc học tập và chiếu trong giờ học một tuần một lần chẳng hạn.

Đó sẽ là môn học có tên ‘Nhân sinh’ mà mình đang vẽ ra trong ước mơ của bản thân.

Một tuần một lần, lũ trẻ sẽ được tiếp xúc với những người lớn tuyệt vời mà chúng có thể ngưỡng mộ. Vậy là một năm có thể giới thiệu với chúng ba mươi sáu người rồi. Bằng cách đó những nghề nghiệp, những khả năng mà lũ trẻ chưa bao giờ nhìn thấy hay nghe thấy sẽ ngập tràn.

Hãy thử tiếp tục mười hai năm từ tiểu học lên phổ thông mà xem. Lũ trẻ sẽ được tiếp xúc với ba trăm sáu mươi người đang phát huy sở trường trong nhiều lĩnh vực. Vì thế, khát khao của chúng sẽ đa dạng hơn và những lựa chọn cho cuộc đời cũng nhiều hơn.”

“Vậy cậu sẽ làm điều đó sao?”

“Ừ, mình sẽ làm. Mình đã mua những dụng cụ cần thiết để làm việc đó. Và mình đã bắt tay vào làm rồi.” - Mặt tôi tràn đầy hi vọng.

Ngược lại, nét mặt Wataru lộ rõ sự yếu thế.

“Mình nghĩ khả năng thực hiện cũng chưa chắc đã là số 0 tròn trĩnh nhưng cũng gần số 0 lắm. Chưa có ai làm điều này phải không?”

“Chính vì chưa có ai làm nên mình phải làm.”

“Nhất định là sẽ không dễ dàng. Nếu nó dễ dàng thì chắc chắn đã có ai đó làm rồi. Những công ty sản xuất phim lớn chẳng hạn.”

Trước khi biết khả năng kiếm lời thực sự thì các công ty lớn sẽ không nhúng tay vào đâu. Vì thế tôi nghĩ là dù chỉ có mình tôi thì tôi cũng phải làm cho nó trở thành một công việc sinh lời. Làm được như thế thì các công ty lớn đó mới chịu vào cuộc.”

“Nếu vậy thì cậu chả kiếm chác được gì đâu.”

“Nhưng ước mơ của mình là môn ‘Nhân sinh học’ sẽ được đưa vào chương trình học của đất nước này.”

“Vẫn là một câu chuyện giống trong mơ thế nào ấy.”

“Vậy nên mình nói đó là ước mơ của tôi. Cậu không biết kì tích nào sẽ xảy đến với những người sống chân thành đâu. Đừng coi thường khả năng của mình năm năm sau. Năm năm sau của người sống thật lòng nhiệt huyết là thứ mà không ai trên thế giới này tưởng tượng ra nổi.”

“Thì cùng có thể là như vậy, nhưng khi cậu không biết bao giờ mới có thể ổn định, rồi cậu cũng không biết có thực sự kiếm ra tiền không thì bắt đầu bằng việc vào công ty làm việc và tiết kiệm tiền chẳng phải sẽ tốt hơn sao?”

“Có câu ‘ngày nghĩ ra việc cần làm là ngày đại cát’[14] đấy.”

“Đúng là thế thật. Nhưng nếu làm thế thì sẽ chẳng thể trở lại như lúc ban đầu với Mizuho nữa. Có vẻ như cô ấy nghĩ cô ấy muốn làm giáo viên nên người sẽ cưới cô ấy cũng nên có công việc ổn định.”

“Biết rồi, khổ lắm nói mãi. Nhưng biết làm sao. Chuyện đó đã được quyết rồi.”

“Vậy mình có rủ cô ấy cậu cũng không giận chứ?”

Thì ra là thế.

Rốt cuộc tôi cũng chả hiểu Wataru đến đây rốt cuộc là vì muốn tôi trở thành giáo viên hay muốn tôi không trở thành giáo viên nữa. Sau khi nói ra rằng cậu ta muốn cưa cẩm Mizuho, thoắt môt cái cậu ta lại thành ra lắm chuyện. Khi tôi nói “Đó là chuyện giữa Wataru và Mizuho nên cứ tự nhiên”, cậu ta rời quán, khuôn mặt rạng ngời.

Khi chúng tôi chia tay ở cửa quán, cậu ta còn vỗ vào lưng tôi: “Cậu, Daisuke, hãy cố gắng lên!”

Tôi thở dài chán nản, một mình quay về phòng trọ khu chung cư. Tôi phải chuẩn bị để về quê.

[13] Sinh viên Nhật thường bắt đầu hoạt động tìm kiếm việc làm từ năm thứ ba đại học. Việc tham gia các buổi hội thảo giới thiệu các doanh nghiệp cũng như hướng dẫn cách xin việc có thể coi gần như là bắt buộc nếu muốn xin được việc.

[14] Thành ngữ, nghĩa là khi nghĩ ra một ý tưởng thì thực hiện luôn là tốt nhất.