← Quay lại trang sách

Chương II - 4 NGÔN NGỮ KHỔNG GIÁO TRONG CUỘC NỔI DẬY CỦA NHÀ TÂY SƠN

Trong lúc việc đề cập đến trời và các lực siêu nhiên là những phương tiện hữu ích dùng dẫn chứng cho những gì họ tuyên bố và tuyển mộ người theo họ, các lãnh tụ cuộc nổi dậy cũng sử dụng các lối nói hoa mỹ khác. Điều đặc biệt là cũng giống như lãnh tụ các cuộc nổi dậy của nông dân trước đây, gần như họ rất có ý thức khi nhấn mạnh đến khía cạnh đạo đức trong cuộc chiến đấu của họ bằng ngôn ngữ Khổng giáo riêng biệt. Quyết định sử dụng ngôn ngữ - nếu không cần đến nội dung - của ý thức hệ Khổng giáo tỏ ra quan trọng cả trong việc kết nối các lãnh tụ Tây Sơn với những người ngấm ngầm ủng hộ họ trong hàng ngũ trí thức nhà Nguyễn (tuy nhiên số người này không nhiều) lẫn việc đẩy xa hơn mối quan hệ giữa họ với cộng đồng cư dân rộng lớn hơn vốn đáp ứng lại ngôn ngữ Khổng giáo theo cách riêng của họ.

Alexander Woodside lập luận rằng truyền thống Khổng giáo đã được thiết lập tại vùng nông thôn Đại Việt vào thời điểm này, và viết “ảnh hưởng của truyền thống cổ điển Hoa-Việt đối với người nông dân Việt Nam vào những năm 1700 và 1800 là điều... không cần phải tranh cãi, đặc biệt những phần nói đến sự phế truất một vương quyền xấu xa và thay bằng một vương quyền tốt đẹp”. Mặc dù điều này đúng nhiều hơn ở phần phía bắc lãnh thổ Đại Việt vốn chịu ảnh hưởng lâu dài của ý thức hệ Trung Hoa, một số ngôn từ hoa mỹ của Khổng giáo cũng phát triển trên vương quốc nhà Nguyễn, ngay cả lúc đạo Khổng tiếp tục bị loại khỏi đời sống chính trị. Trong một xã hội mà các nho sĩ duy trì mối quan hệ trực tiếp với giới nông dân, hoặc qua mối quan hệ thân thuộc, hoặc qua việc họ cư trú ở những ngôi làng, nơi họ có thể mở trường học, không có gì đáng ngạc nhiên khi người nông dân thấm nhuần các yếu tố của ý thức hệ Khổng giáo, hoặc ít nhất là về ngôn từ. Chắc chắn rằng bản thân các anh em nhà Tây Sơn cũng được học những điều cơ bản về ý thức hệ này dưới sự dạy dỗ của người thầy nhiều hiểu biết Trương Văn Hiến, vì vậy việc họ viện dẫn tư tưởng Khổng giáo trong suốt cuộc nổi dậy là điều tự nhiên.

I.4.1. Nhà Tây Sơn và chữ “Nghĩa ”

Trong ngôn từ Nho giáo thường được các lãnh tụ Tây Sơn viện dẫn, từ “nghĩa” được đặc biệt nhấn mạnh, bắt đầu với việc xác định rằng cuộc nổi dậy của họ là một cuộc nổi dậy vì nghĩa, một cuộc khởi nghĩa*. Việc sử dụng từ ngữ này cần để liên kết cuộc nổi dậy với lối tiên tri thường được nhắc đến về một “cuộc khởi nghĩa”. Sự nhấn mạnh vào từ “nghĩa” liên kết họ với lời tiên tri này, đồng thời nó cũng cho phép các lãnh tụ Tây Sơn sử dụng một kiểu tuyên bố khác về tính chính thống. Điều đặc biệt là sự thất bại của hai họ Trịnh-Nguyễn trong việc thực hiện nghĩa vụ đối với thần dân của họ đã mở đường cho việc phê phán họ, vào những thời điểm nào đó, phần nào trong bối cảnh đã được triết lý Khổng tử tạo dựng nên. Từ Hán-Việt “chính nghĩa” bao gồm các khái niệm về công lý và hành động đúng đắn thường được liên kết với cung cách hành xử của giới nho sĩ. Nó xuất phát từ đặc tính của Khổng giáo thường nhấn mạnh vào những giáo điều căn bản trong cách hành xử của mỗi người, đáng lưu ý nhất là hiếu, nghĩa, đức và nhân.

Thật vậy, tại nhiều nơi ở Đông và Đông Nam Á, mối quan hệ giữa người nông dân với những người đứng trên họ về kinh tế và chính trị, dù là địa chủ hay quan chức triều đình, là mối quan hệ ít nhất cũng dựa phần nào vào những căn nguyên mà ngôn từ của Khổng giáo gọi là “chính nghĩa” và “công lý”. Có thể đọc thấy khái niệm này trong tác phẩm của James Scott nhan đề The Moral Economy of the Peasant (1976) (Nền kinh tế đạo đức của người nông dân)*. Dù Scott đề cập chủ yếu đến mối quan hệ giữa nông dân và địa chủ, nhưng rõ ràng nhà nước cũng là đối tượng của khái niệm kinh tế đạo đức. Vì thế, sự thất hại của nhà nước trong việc thực hiện những tiêu chuẩn mà người dân mong muốn đã dẫn đến sự chỉ trích và những phản kháng nhân danh chính nghĩa. Cuối cùng, khi các phong trào của người dân giương cao ngọn cờ chính nghĩa, điều đó không chỉ đơn thuần chứng tỏ tính đúng đắn hay công bằng trong mục tiêu của phong trào mà còn nhằm chỉ trích triều đình, hoặc ít nhất là đại diện của triều đình tại địa phương, đã thất bại trong việc thực hiện những nghĩa vụ cơ bản đối với người dân.

Nhiều cuộc nổi dậy của người dân trong lịch sử Việt Nam, trong đó đáng chú ý nhất là cuộc nổi dậy của Lê Lợi vào thế kỷ XV, dẫn đến ý tưởng về một cuộc khởi nghĩa nhằm vãn hồi trật tự và các mối quan hệ tốt đẹp. Vào thời kỳ ngay trước khi nhà Tây Sơn nổi dậy, hoàng thân nhà Lê là Lê Duy Mật đã nổi dậy chống chúa Trịnh Giang vào năm 1738, ban bố một hiệu triệu bằng chữ nôm nhắc lại cuộc khởi nghĩa anh dũng của Lê Lợi chống lại quân Minh, gọi là Lam Sơn khởi nghĩa . Làm như thế, Lê Duy Mật không chỉ tìm cách kết nối hoạt động của riêng ông ta với hoạt động của bậc tiền bối lẫy lừng, mà còn xác định rằng cả hai cùng chia sẻ một lời cam kết vì “chính nghĩa”*. Đề cập đến một truyền thống như thế, không có gì ngạc nhiên khi những cách nói của Khổng giáo như “chính nghĩa” được người nông dân Việt Nam thấm nhuần, đặc biệt những ai quan tâm đến việc nêu lên những sai lầm về mặt nhận thức trong cách cư xử chính đáng của các người cầm quyền.

Thật vậy, điều này có thể thấy được khi sự biểu lộ thiện ý của người nông dân đi đôi với tư tưởng chính thống ở một chừng mực khiến họ tin vào quan niệm về một “trật tự chính đáng”.

Trong một số trường hợp, khác biệt với sự giải thích của phần lớn nho sĩ, việc đề cập đến người nông dân trong ý niệm này phản ánh điều mà Alexander Woodside gọi là “một loại tính thích nghi có thể gây tranh cãi” về phía người nông dân khi hưởng ứng học thuyết Khổng tử. Trong lúc các nho sĩ nhận thấy một lãnh tụ (hay chế độ) cá biệt thiếu tính chính nghĩa, họ không nhất thiết phải (nếu chẳng bao giờ) khẳng định rằng người nông dân cần được phép phục hồi tính chính nghĩa đó. Như Ralph Smith đã nhận định:

“Có thể giải thích triết lý Khổng giáo trong tinh thần phản kháng, vì nếu như đời sống cá nhân của vị hoàng đế hay quần thần của ông ta thiếu đạo đức hay thiếu ngay thật, thì chắc chắn rằng họ không xứng đáng nắm quyền cai trị. Nhưng trên thực tế, Khổng giáo không nhất thiết có tính bảo thủ. Sự thật là một nhà cai trị có thể đánh mất ‘Mệnh Trời', nhưng nếu ông ta bị phế truất, thì đó là một định mệnh khách quan hơn là vấn đề chọn lựa của con người”.

Hơn thế nữa, ngay cả những nho sĩ như Ngô Thì Nhậm, người đôi lúc coi hành động của trời bị chi phối bối những biến động thế tục, đã viết rằng “Thịnh suy, dài ngắn vận mệnh do trời, không phải sức người tạo ra được". Nói cách khác, con người không thể trực tiếp làm thay đổi ý trời, cho dù nỗi khốn khổ của họ có thể làm xoay chuyển định mệnh một cách gián tiếp.

Đối với một người nổi dậy tìm cách phế truất một vua chúa, cần nhấn mạnh rằng thắng lợi của ông ta là những chỉ dấu cho thấy cả về sự thay đổi số mệnh lẫn tính chính nghĩa trong hành động của ông ta. Để đảm bảo rằng mọi người đều hiểu được tính chính nghĩa trong sứ mạng của họ, các lãnh tụ Tây Sơn thường xuyên sử dụng từ này để mô tả về phong trào của họ và về những người tham gia vào đó. Vì thế, chẳng hạn như quân đội Tây Sơn gồm không chỉ đơn thuần là lính, mà là nghĩa quân, được chỉ huy bởi các nghĩa sĩ. Những người ủng hộ phong trào cũng được gọi là ông nghĩa. Như nhà sử học Việt Nam Nguyễn Lương Bích đã viết: “Tất cả các tướng Tây Sơn và đa số quần chúng lúc đó gọi những người tham gia phong trào là nghĩa sĩ và không bao giờ quên chữ nghĩa khi đề cập đến những người này”.

Trong lúc được dùng phần lớn để miêu tả những người chiến đấu phía Tây Sơn, từ nghĩa cũng được sử dụng để gán cho những yếu tố khác liên quan đến cuộc nổi dậy. Chẳng hạn như nó được dùng gọi tên hai đạo quân người Hoa chiến đấu cùng với nhà Tây Sơn trong những năm đầu tiên của cuộc nổi dậy là quân Hòa Nghĩa và Trung Nghĩa*. Từ nghĩa cũng được dùng ở những trường hợp trừu tượng hơn trong những bản tuyên bố công khai, miêu tả quân đội Tây Sơn đi dưới “ngọn cờ chính nghĩa” trong các cuộc hành quân chống lại kẻ thù. Một số trường hợp đặc biệt tìm thấy trong lời kêu gọi dân Nghệ An vào năm 1786 của Nguyễn Hữu Chỉnh trong thời gian quân Tây Sơn chiếm lấy Đàng Ngoài, và trong lời hiệu triệu do Phan Huy ích soạn năm 1800 nhân danh vua Tây Sơn Cảnh Thịnh cũng tìm cách đẩy mạnh sự ủng hộ mục tiêu của nhà Tây Sơn. Cuối cùng, khi Nguyễn Huệ tiến đến việc thiết lập một kinh đô ở vùng Nghệ An sau năm 1789, ông đã đặt lại tên vùng này là Nghĩa An, rõ ràng là có ý kết nối lãnh thổ này với căn nguyên của cuộc nổi dậy là khởi nghĩa, khi một lần nữa, ông tìm cách nhấn mạnh đến tính hợp pháp của việc nắm lấy quyền hành.*

Việc nhà Tây Sơn sử dụng từ “nghĩa” rõ ràng là có tính đến việc tham gia vào một cuộc tranh luận có tính hùng biện đang diễn ra, vì những đối thủ của họ cũng sử dụng từ này để minh chứng cho hành động của chính họ, thách thức đội quân nổi dậy và các lãnh tụ của họ. Hoàng Lê nhất thống chí, một tác phẩm biên niên cận đại viết về các biến động ở Đàng Ngoài, cũng thường xuyên miêu tả những người ủng hộ vua Lê ở phía bắc vào cuối thập niên 1780 là “nghĩa quân” và đề cập đến việc vua Lê tuyển mộ “nghĩa sĩ”. Lời hịch do nho sĩ trung quân Lê Huy Dao soạn để tập hợp những người ủng hộ cho mục tiêu phục hồi nhà Lê vào những thập niên 1780 và 1790 cũng thường nhắc đến từ “nghĩa” để miêu tả những người tham gia chiến đấu chống lại nhà Tây Sơn. Tác phẩm Lê quý dật sử của Bùi Dương Lịch vào đầu thế kỷ XIX cũng viết tương tự về các phong trào chống Tây Sơn vào năm 1786 là “các cuộc khởi nghĩa” nhằm bảo vệ vì vua đang tại vị.

II.4.2. Nhà Tây Sơn và chữ “Đức”

Nhà Tây Sơn cũng nhấn mạnh đến việc họ có đức, một tính cách cốt yếu khác của Khổng giáo. Trong lúc chữ nghĩa miêu tả phong trào và các mục tiêu của nó theo nghĩa rộng, ý niệm về chữ đức đòi hỏi một cách đặc biệt hơn ở cá nhân người lãnh đạo. Việc nhấn mạnh vào đức có liên quan đến lời tuyên bố của nhà Tây Sơn rằng họ nhận được mệnh trời, vì có một mối liên hệ rõ rệt giữa cái đức của cá nhân với sự thừa nhận của trời. Như Lê Lợi đã nhận định ngắn gọn vào thế kỷ XV; “Trời phù hộ người có đức”. Hoặc giả, trong sự phân bố ý niệm của O.W. Wolters, “[Đức], theo nghĩa của người Tàu, là người có đức có thể tác động lên người khác và lực hút như nam châm của nó được minh họa trong tiểu sử của những vị thần nổi tiếng của địa phương. Như đã miêu tả, đức vận hành như một hình thức lôi cuốn quần chúng. Nó cho phép một cá nhân lôi cuốn người ủng hộ và hướng họ đi theo ý chí của ông ta.

Đối với nhà Tây Sơn, được thừa nhận là có đức cũng gần quan trọng như những việc làm cụ thể mà họ đã thể hiện. Xác định một người tự nhận là có đức có thể giúp đưa ra những tuyên ngôn chính trị, trong khi đồng thời tự liên kết mình với thế giới siêu nhiên, các lãnh tụ Tây Sơn tìm cách nhấn mạnh nhiều lần về lời tuyên bố họ có đức. Thư của một giáo sĩ Tây Ban Nha viết vào những ngày đầu tiên của phong trào cho rằng những người nổi dậy được người dân miêu tả như những kẻ cướp “nhân đức”. Khi dịch bức thư, ông giáo sĩ gần như viết bằng tiếng Việt, thứ ngôn ngữ mà tài liệu của các giáo sĩ Pháp về sau sử dụng khi nói về các lãnh tụ Tây Sơn. Một thời gian ngắn sau, chắc chắn không phải do tình cờ mà Nguyễn Nhạc tự khoác cho mình danh hiệu chính trị đầu tiên vào năm 1775, đó là hiệu Minh Đức Chúa Công. Để rồi vào năm 1778, ông ta tiến thêm bước nữa, tự xưng hoàng đế và chọn niên hiệu Thái Đức. Việc sử dụng từ đức như một phần niên hiệu không phải Nhạc là người duy nhất làm thế; từ này đã 6 lần được các vua Lê sử dụng (cho dù trước thời Lê không thấy sử dụng bao giờ). Tuy nhiên, việc Nguyễn Nhạc chọn chữ đức như một phần niên hiệu của ông ta gợi ra một đức tính đặc biệt mà ông ta muốn nhấn mạnh.

Ngoài việc Nguyễn Nhạc sử dụng niên hiệu như thế, các anh em Tây Sơn còn tìm những cách khác để nhấn mạnh đến tuyên ngôn của họ về chữ đức. Họ thường xuyên cố gắng truyền bá các tên gọi của họ có liên quan đến chữ đức. Vì thế, có nhiều chứng nhân người châu Âu thường dùng các từ sau khi viết về các anh em Tây Sơn, như “đức anh” với Nguyễn Nhạc, “đức em” với Nguyễn Huệ, và “đức ông” khi nói đến một trong hai người*. Việc thường xuyên sử dụng những từ này của các giáo sĩ chắc chắn phản ánh một lối nói thông thường, cho thấy rằng các lãnh đạo Tây Sơn rất thành công trong việc gieo chữ đức trong trí tưởng tượng của người dân. Khi cả hai lãnh tụ Tây Sơn đến Thăng Long năm 1786, các giáo sĩ ở Đàng Ngoài đã gọi chung họ là “hai đức ông” và riêng Nguyễn Huệ là “đức ông thứ nhất” . Thậm chí những từ này còn tìm thấy trong tài liệu lịch sử của người Campuchia vào thập niên 1930, ở đó, các cụm từ đức ông anh và đức ông em được dùng để nói đến anh em Tây Sơn. Một thời gian sau khi cuộc nổi dậy bắt đầu, cách nói đó cho thấy việc sử dụng các danh hiệu này của họ được phổ biến rộng rãi như thế nào.