Chương III - 2 VIỆC KHAI THÁC: BẮT LÍNH VÀ KHỔ DỊCH DƯỚI THỜI TÂY SƠN
III.2.1. Việc quân sự
Một khi dân chúng đã được kiểm kê, phân loại và vào sổ bộ, họ có thể bị chính quyền bắt tham gia vào nhiều công việc và công trình khác nhau. Nhu cầu quan trọng nhất nằm trong lãnh vực quân sự vì xét về mặt cơ bản, các lãnh tụ Tây Sơn rất quan tâm đến việc động viên và triển khai quân đội. Mặc dù họ đơn thuần là những người cuối cùng trong danh sách dài những vua chúa Việt Nam đã kêu gọi người dân phục vụ trong quân đội, yêu cầu về mặt quân sự họ đưa ra là rất phiền hà. Luôn có một kẻ thù đối đầu với nhà Tây Sơn, vốn là những người ngay lúc ban đầu đã tiến hành các chiến dịch quân sự qui mô lớn chống lại nhà Nguyễn từ năm 1773 đến năm 1778, và rồi từ năm 1782 đến năm 1785, những cuộc xung đột tiếp tục trở lại vào đầu thập niên 1790. Thêm vào đó, còn có một chiến dịch tuy ngắn ngủi nhưng rất qui mô nhằm đánh đuổi quân Thanh vào những năm 1788 - 1789. Khi không còn có sự thách thức của nhà Nguyễn hay nhà Thanh, nhà Tây Sơn tìm tới những cuộc xung đột khác: với họ Trịnh năm 1786, những cuộc tấn công quan trọng vào đất Lào những năm 1790 và 1791; và cuối cùng vào năm 1792, khi vua Quang Trung dự tính tấn công Trung Hoa trong một nỗ lực lấy lại hai tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây đã “mất”, rồi sau đó hoạch định một cuộc tấn công lớn chống lại chúa Nguyễn. Bên cạnh đó, còn có những cuộc chiến công khai trong nội bộ nhà Tây Sơn, trong đó có cuộc chiến ngắn ngủi nhưng gây ấn tượng mạnh nhất giữa Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ vào năm 1787, cũng là việc Nguyễn Huệ tấn công Nguyễn Hữu Chỉnh năm 1787 và Võ Văn Nhậm năm 1788, tiếp theo là những cuộc xung đột vào cuối thập niên 1790, khi triều đình Tây Sơn ở Phú Xuân chống lại những viên tướng phản bội ở Qui Nhơn.
Dưới thời các chúa Nguyễn, sau năm 1672, các cuộc chiến qui mô lớn tại Đại Việt giảm xuống, khi những cuộc xung đột với họ Trịnh đã kết thúc. Vì thế, đời sống của những người trong quân đội Đàng Trong vào thời kỳ này không phải lúc nào cũng gặp nhiều khó khăn. Tài liệu của các quan sát viên người châu Âu vào thế kỷ XVII mô tả quân đội nhà Nguyễn được tổ chức tương đối tốt và cho rằng quân lính được phép đưa gia đình theo với họ. Tuy nhiên, vào giữa thế kỷ XVIII, có vẻ như tình hình trở nên khó khăn hơn. Như Pierre Poivre đã viết vào năm 1749: "Những binh lính này bị thiếu ăn và thậm chí còn được trả lương thấp. Họ mòn mỏi trong cảnh sống cực nhọc cho đến khi tính khí thất thường của vị chúa Nguyễn đưa họ lên một vị trí đặc biệt”. Sự sa sút trong mức sống của binh lính trùng hợp với những chiến dịch quân sự ngày càng gia tăng, đặc biệt ở vương quốc láng giềng Chân Lạp, cùng những khu vực thuộc vùng cao. Và còn nữa, dù có sự xuống cấp trong điều kiện sống của những người phục vụ trong quân đội chúa Nguyễn vào giữa thế kỷ XVIII, vẫn còn có một khác biệt về chất lượng sống giữa những người bị cưỡng bách vào quân đội Tây Sơn và những người bị cưỡng bách vào quân đội nhà Nguyễn trước năm 1771, khi những người bị buộc vào quân đội Tây Sơn thường xuyên trải qua những cuộc xung đột qui mô lớn.
Trong các cuộc chiến của nhà Tây Sơn, không những tần suất các cuộc xung đột mà còn vì qui mô của nó báo trước điềm gở cho những nông dân bị buộc đi lính. Khi những đạo quân này phát triển về lực lượng thì cũng là lúc gia tăng số tai họa và những hậu quả kèm theo của chiến tranh giáng xuống đầu người dân Việt, kể cả lính hay dân. Các chứng cứ rời rạc cho thấy có hàng trăm ngàn người ngã xuống trên chiến trường và có thể có hàng chục ngàn người khác chết vì bị thương hay bệnh hoạn. Những báo cáo rải rác đây đó về tai họa cho thấy một ý niệm về sự mãnh liệt của cuộc xung đột. Có những tài liệu cho thấy lực lượng Tây Sơn đã sát hại 1.600 quân Nguyễn vào đầu năm 1774. Thập niên tiếp sau khá ác liệt, cuộc chiến giữa quân Tây Sơn và quân Nguyễn tiếp diễn, sự mãnh liệt của nó được tiết lộ trong một tài liệu phổ biến năm 1784 chép rằng chỉ trong thời gian 6 tháng, đã có 18 trận chiến lớn, trong đó Nguyễn Nhạc tổn thất “một phần ba” quân đội của ông, về sau, 30.000 quân Trịnh có thể đã chết trong chỉ một trận đánh vào năm 1786, trong cuộc tấn công của Nguyễn Huệ vào Phú Xuân. Khi Nhạc và Huệ tham gia vào một trận chiến ngắn ngay vào đầu năm 1787, một giáo sĩ cho biết Nhạc bị tổn thất 40.000 quân*. Trong những năm 1793-1794, quân Tây Sơn vẫn còn là bộ binh với 50.000 đến 60.000 quân, cho thấy là những cuộc đụng độ lớn vẫn tiếp tục diễn ra. Rồi trong những trận chiến quanh vùng Qui Nhơn năm 1801, một quan sát viên người châu Âu ghi nhận số tổn thất (cả chết lẫn bị thương) của quân Tây Sơn và quân chúa Nguyễn lên trên 54.000 người. Những con số này cho thấy rõ qui mô những cuộc chiến của nhà Tây Sơn và nhu cầu tiếp tục tìm kiếm tân binh để bổ sung lực lượng chính qui đang sa sút.
Lúc ban đầu, quân Tây Sơn được điền thế bằng những người tình nguyện, đặc biệt khi phong trào còn tự giới hạn trong những cuộc hành quân qui mô nhỏ ở vùng cao nguyên, chủ yếu nhằm tìm cách gia tăng quân số. Bằng cách này, vào năm 1774, quân đội Tây Sơn đã lên đến 25.000 người. Đó là một lực lượng đáng kể, song vẫn còn phải đối đầu với một đạo quân Nguyễn nhiều hơn, vì thế nên vào năm 1775, sau khi đã tự xưng vương, Nguyễn Nhạc đề ra một chi tiêu quân số cho các làng xã dưới sự kiểm soát của ông ta. Cứ 5 người nam thì mỗi làng xã bị buộc phải giao một người để sung vào quân đội. Từ thời điểm đó trở đi, đội ngũ quân Tây Sơn không còn được bổ sung bằng những người hăng hái tình nguyện nữa, mà ngày càng nhiều bởi những người miễn cưỡng bị bắt lính. Cách thức mà các lãnh tụ Tây Sơn dùng để tuyển mộ lính thay đổi trong không gian và thời gian. Trong lúc Nhạc qui định cứ 5 người đàn ông thì có một người phải đi lính thì ở phía bắc, Nguyễn Huệ bắt cứ 3 dân làng phải có một người đi lính. Những tài liệu về sau của nhà Nguyễn cho rằng chế độ Tây Sơn ở phía nam thiết lập những nguyên tắc chỉ đạo trước về số lính mỗi làng phải cung cấp theo tỷ lệ 1 trong 7 người. Tuy nhiên, tài liệu này cũng nêu lên giả thuyết rằng những nguyên tắc chỉ đạo đó thường bị hoãn lại, với mỗi dân làng phải phục vụ như một người lính. Vào đầu năm 1776, Lê Quý Đôn cũng ghi rằng Nhạc buộc "mọi người dân ở phủ Qui Nhơn phải phục vụ như những người lính”, điều này cho thấy là những chỉ đạo đã soạn sẵn nhanh chóng bị gạt qua một bên. Một tài liệu tương tự về sau cho rằng cho dù Nguyễn Huệ dùng sổ bộ của làng xã để tuyển mộ người đi lính thay vì bắt lính theo một tỷ lệ nào đó trong số người đủ tư cách, trong ít nhất một trường hợp cá biệt, ông đơn thuần bắt sung vào quân đội tất cả những người trong độ tuổi 15 đến 60. Với nguy cơ cao bị tử trận hay bị thương từ một trận đánh lớn và kéo đài, cùng với đời sống khắc nghiệt trong quân đội Tây Sơn, các lãnh tụ cuộc nổi dậy phải bố ráp người một cách bừa bãi. Không có gì ngạc nhiên khi thấy rằng nhiều người bị cưỡng bách sung vào quân đội Tây Sơn đã đào ngũ càng nhanh càng tốt, trốn đi mà không đủ thức ăn, bị đối xử tàn nhẫn dưới bàn tay những kẻ chỉ huy, và nỗi khó khăn của những cuộc cưỡng bách hành quân nhanh như chớp. Nhiều tư liệu (xin xem phía dưới) mô tả các nhà lãnh đạo Tây Sơn, đặc biệt ở phía trên Đàng Trong và Đàng Ngoài, thường xuyên tuyển mộ người mới để thay thế quân đào ngũ, và làm điều đó một cách bừa bãi*. Vì vậy, khi Nguyễn Huệ tiến hành cuộc chiến năm 1787 chống Nguyễn Nhạc, ông đã nhanh chóng tập hợp một đạo quân đáp ứng được yêu cầu của ông: "(Huệ) trở lại đấy vào cuối tháng 3 hoặc đầu tháng 4 với khoảng 50.000 người, hoặc chính xác hơn, với 50.000 nông dân hoặc những kẻ sẵn sàng tòng quân được tuyển mộ vội vã, những quân lính trước đây của ông đã gần như bỏ ông đi hết vì sự tàn ác của ông đã để cho họ chết đói”*. Một kết quả của chiến lược tuyển mộ như thế là sự hình thành một lực lượng khố rách áo ôm với tỷ lệ đào ngũ cao sau đó là điều không có gì đáng ngạc nhiên. Ngay cả việc Nguyễn Huệ tuyển mộ lính cho đạo quân của ông để đánh đuổi quân Thanh cũng được thực hiện theo cung cách đặc biệt như thế, hình thành một lực lượng được một tài liệu đương thời miêu tả như sau:
Hình 7: Một lính Tây Sơn năm 1793. Tranh vẽ của William Alexander, một thành viên của phái bộ Huân tước Mc Cartney năm 1793. Cho dù có tính cách điệu, hình vẽ cũng cho thấy trang phục và vũ khí của binh sĩ Tây Sơn bên trong và quanh khu vực cung điện của nhà Tây Sơn. Tranh từ sách A Voyage to Cochinchina in the Years 1792 and 1793 (Chuyến du hành sang Đàng Trong những năm 1792-1793) của John Barrow (London, T. Cadell & W. Davies, 1806; in lại tại Kuala Lumpur bởi Oxford University Press, 1975).
"Vào thời điểm đó (cuối năm 1788), bạo chúa mới của Đàng Trong biết về sự có mặt của quân Thanh và những thành tích của họ. Vì ông là một con người xuất sắc và được coi như một Alexandre Đại đế thứ hai, ông bổ sung vào trong chiến dịch của mình tất cả những người mà ông tình cờ gặp phải, đàn ông, trẻ con, người cao tuổi, và đạo quân của ông có dáng vẻ của một đoàn người đi cứu tế hơn là những chiến binh”*.
Đối đầu với sự phản kháng hàng ngày trong quân đội của họ và nhiều binh lính đào thoát ở chiến trường, các lãnh đạo quân sự nhà Tây Sơn ngày càng chấp nhận những biện pháp cưỡng bức để quân đội của họ có đầy đủ sức mạnh và thường xuyên sử dụng sự thô bạo trong mối tương quan của họ với dân chúng và các quan lại địa phương. Theo nhiều tài liệu, nhà Tây Sơn nhanh chóng cưỡng bách dân chúng gia nhập vào quân đội của họ và cũng nhanh chóng trừng phạt những ai từ chối vào quân đội.
Trên phương diện này, nhà Tây Sơn đã theo cách làm của nhà Nguyễn vào thế kỷ XVII và có thể sớm hơn. Như Li Tana đã viết:
“Luật tuyển quân của nhà Nguyễn rất chặt chẽ. Khoảng năm 1671, Vachet viết rằng: ‘một người sẽ bị mất đầu nếu bị phát hiện đang tìm cách trốn lính’, ông cũng thêm rằng nếu một quan lại phụ trách tuyển quân chấp nhận việc bắt người dưới tiêu chuẩn làm lính, ông ta cũng sẽ mất đầu. Xem tài liệu của Da Shan vào thập niên 1690, cách tuyển quân diễn ra ở mỗi làng xã chỉ kém hơn tai họa một chút”.
Sự đổi mới của nhà Tây Sơn, nếu có thể gọi như thế, đã làm gia tăng mức độ và phạm vi tàn bạo được dùng để đe dọa người dân, buộc họ phải tán đồng những yêu sách của Tây Sơn.
Việc hành hình là phản ứng đáp lại sự đối kháng diễn ra trong những ngày đầu tiên của cuộc nổi dậy, và vẫn là một yếu tố quan trọng trong chính sách quân sự của nhà Tây Sơn cho đến ngày cuối cùng của chế độ. Ngay khi cuộc nổi dậy mới nổ ra, cũng ông giáo sĩ Tây Ban Nha từng viết rằng nhà Tây Sơn được hoan nghênh là “những kẻ cắp nhân đức và từ thiện”, đã nhận xét rằng “họ nổi lửa thiêu hủy tư dinh của viên quan trấn thủ, làm chủ toàn bộ trấn mà không gặp một sự đối kháng nào, vì họ đã hành hình tất cả những ai chống lại họ”. Thật vậy, cũng nguồn tư liệu trên viết rằng trong những yếu tố khác nhau, chính nỗi sợ hãi đối với người lãnh đạo Tây Sơn là Nguyễn Nhạc đã dẫn đến những thắng lợi ban đầu của quân Tây Sơn. Những chính sách như thế kéo dài suốt thời kỳ Tây Sơn, và vào năm 1801, thư của một giáo sĩ viết rằng “ngay giữa lúc rối loạn đó, nhà Tây Sơn cũng không đánh mất sự sáng suốt của họ và đã tiến hành một đợt tuyển quân mới; không ai dám từ khước, vì những ai làm thế là bị chém đầu ngay tức khắc. Vì thế, không chỉ những người chết trên bãi chiến trường, nếu họ không may bị sung vào quân đội, mà còn có những người ngã xuống vì đã cố gắng cưỡng lại việc bắt lính ngay từ đầu.*
Trong lúc các nhà lãnh đạo quân sự Tây Sơn hành hình nhiều người cưỡng lại các nỗ lực tuyển quân của họ, họ còn hành xử đặc biệt tàn bạo với những người đã ở trong quân đội của họ - để trui rèn họ trong chiến đấu, hăm dọa để họ không có âm mưu trốn đi, và có lẽ cũng để ép buộc người dân địa phương phải hợp tác với họ. Thư của một giáo sĩ viết năm 1788 đã miêu tả sự kiểm soát tàn bạo do tướng Tây Sơn Võ Văn Nhậm và các quan lại của ông ta thực hiện:
“Tài năng của những con người này là giết rất nhiều người để làm cho họ sợ và biết tuân thủ hoàn toàn. Họ cũng giết nhiều người không vì lý do nào cả. Khi họ rời đi và mang theo đạo quân hùng hậu bị cưỡng bách, họ nhân đôi sự hung bạo của họ. Gây ra một sơ suất nào đó hoặc quấy rầy ai, hoặc vì một việc tương tự nào đó, hoặc thậm chí không có một vi phạm nào, những người lính cũng có thể bị chém đầu. Trong một khoảng không gian chừng nửa dặm đường, người ta có thể nhìn thấy 15 thi thể bị giết theo cách này”.*
Sự mô tả trên cho thấy một kiểu đe dọa được tạo ra để buộc người dân tham gia vào quân đội Tây Sơn và giữ họ ở đó. Đôi khi có vẻ như những mối đe dọa này mở rộng thành hành vi ăn thịt người theo nghi thức. Một bức thư có lẽ được viết năm 1795, ghi rằng; “những kẻ nổi loạn chiếm đóng toàn bộ Đàng Ngoài và phần trên của Đàng Trong, gây ra những phiền toái và làm điều hung bạo với một tính cách kỳ lạ nhất, đến mức khiến cho lính của họ uống máu người và ăn thịt những người vẫn còn sống để tập cho lính quen với sự tàn bạo"*. Tin đồn về cách hành xử như vậy không chỉ có trong các tài liệu của các giáo sĩ Pháp, mà còn cả trong sử của triều Nguyễn vào thế kỷ XIX. Chẳng hạn như sách Đại Nam thực lục mô tả một cuộc đối đầu giữa quân Tây Sơn và quân Nguyễn, trong đó một tướng nhà Nguyễn bị bắt giữ, và sau khi từ chối thỏa hiệp trước sự đe dọa của phía Tây Sơn, ông đã bị giết và bị ăn thịt.*
Tuy nhiên, với tất cả tính chất nguy hiểm của nó, việc sử dụng biện pháp hành hình và các hình thức dọa dẫm khác không đủ để duy trì sức mạnh cần thiết của binh lính trong quân đội Tây Sơn. Vì thế, các lãnh tụ Tây Sơn cũng đã áp dụng những chiến lược khác để giữ chân và thu hút binh lính, bao gồm các biện pháp thuyết phục hơn là cưỡng bách. Cách phổ biến nhất, đặc biệt vào những năm cuối cùng của chế độ, là các lãnh đạo quân sự Tây Sơn thăng thưởng binh lính của họ, hi vọng sự hãnh diện về cấp bậc có thể thuyết phục binh lính ở lại quân ngũ. Năm 1797, một giáo sĩ đề cập đến tình hình huyện của ông ta ở Đàng Ngoài rằng: “hầu hết đàn ông đều đã chết trong chiến tranh hoặc do những tai ương khác đã diễn ra trên đất nước này trong 25 năm qua, ít người còn ở lại phụng sự bạo chúa, và hầu như các võ tướng, quan lại cũng thế, một ít người còn ở trong quân đội, những người khác ở công sở, cơ quan tư pháp”*. Tương tự như thế, mấy năm sau, vào năm 1801, một nhà quan sát quân sự người Âu khá nhạy bén đã ghi nhận cái cấu trúc nặng phần đầu một cách khác thường của quân đội Tây Sơn ở Đàng Trong. Miêu tả quân nổi dậy sau một chiến thắng quan trọng của quân nhà Nguyễn với kết quả là 13.700 lính Tây Sơn bị bắt giữ, ông ta viết:
“Có trên 144 Chưởng cơ, Vệ úy, và Phó vệ úy* trong một trại giam rộng lớn ở dinh thự nằm bên phải lối ra vào. Tất cả đều bị xiềng xích. Ngoài ra, còn có 500 đến 600 người khác bị xiềng nhẹ hơn. Các Cai cơ, Cai đội chừng 3.500 đến 4.000 người thì bị mang gông”*.
Mặc dù các cấp bậc được ghi ở đây theo thuật ngữ châu Âu, hình như có thể thấy rõ một sự mất cân đối trong quân đội Tây Sơn giữa những người có cấp bậc cao so với binh lính thường.
Những chỉ dấu của khuynh hướng này cũng có thể tìm thấy trong các tài liệu của người Việt, sổ bộ làng từ một thôn ấp nằm ở phía bắc Phú Xuân, bên trên Đàng Trong, đề năm 1799, ghi là có 295 đàn ông đủ tiêu chuẩn trong làng, trong đó 122 người hoặc có danh hiệu cao quý, hoặc ở địa vị võ quan. Trong những điều kiện bình thường, thật khó mà có đến 41% đàn ông trong làng có các danh hiệu hoặc cấp bậc như thế trong quân đội. Thật vậy, trường hợp này cho thấy rằng các danh hiệu và cấp bậc cao trong quân đội đôi lúc được ban phát một cách hào phóng để thu hút hay giữ chân người ủng hộ. Thêm vào đó, sự bành trướng một cách mạnh mẽ thành phần quan võ Tây Sơn không làm mất người trong dân chúng nói chung, xét về các biến động quân sự vào cuối thời kỳ Tây Sơn. Một câu nói có tính chế nhạo vào những năm cuối cùng của nhà Tây Sơn, phê phán cơ cấu kỳ lạ của đạo quân nổi dậy:
Tướng chỉ huy ta có 3.000 người.
Các tướng trong quân đội, ta có 80.000 người.
Các quan võ, nhiều không đếm xuể.
Quan lại cấp thấp, ta lấy thuyền mà chở.
III.2.2. Lao dịch
Ngoài việc quân, nhà Tây Sơn còn bắt dân chúng phải đáp ứng những yêu cầu liên tục về sự lao dịch. Đây là một nghĩa vụ khó nhọc khác và tốn kém thời gian, đe dọa đời sống của người dân và đẩy họ ra khỏi những ruộng đồng của họ. Giống như các chúa Nguyễn, chúa Trịnh trước họ, và triều Nguyễn sau họ, nhà Tây Sơn dựa vào sự lao dịch của người dân để thực hiện những dự án lớn lao và tầm thường của họ*. Trong một thời kỳ mà chiến tranh và sự tàn phá nặng nề như cuối thế kỷ XVIII, có lẽ khó mà tránh được yêu cầu đóng góp sức lao động lớn lao vừa để ủng hộ các chiến dịch quân sự, vừa để xây dựng và tái thiết những hạ tầng cơ sở đã bị tàn phá trong chiến tranh. Trong lúc một vài hình thức lao dịch do chính quyền Tây Sơn yêu cầu có thể nói là có lợi cho dân địa phương - chẳng hạn như tu sửa đê điều hoặc làm lại những con đường đã hư hỏng- nhiều dự án khác có rất ít hoặc không mang lại lợi ích cụ thể nào cho những người bị bắt ép phải tham gia.
Nhu cầu lao dịch biểu hiện rất sớm trong phong trào Tây Sơn, và có lẽ sự tiếp cận với một cuộc chiến mang tính hủy diệt của nhà Tây Sơn - đốt cháy những gì có thể là những công trình hữu dụng - đã góp phần tạo ra những yêu cầu lao dịch vô độ của họ*. Chẳng hạn như khi chiếm lĩnh phủ lỵ Qui Nhơn vào năm 1773, quân nổi dậy đã nhanh chóng thiêu hủy tư dinh của viên tri phủ. Một thời gian ngắn sau, “họ đốt cháy tư dinh của quan phủ Quảng Ngãi và xây dựng một tư dinh mới”*. Quân đội Tây Sơn cũng gây ra những cuộc tàn phá trên diện rộng tại các thị trấn duyên hải quan trọng là Đà Nẵng và Hội An, riêng Hội An bị tàn phá đặc biệt nghiêm trọng. Họ cũng tàn phá những thị trấn ở xa về phía bắc sau khi đã xâm chiếm Đàng Ngoài vào năm 1786*. Dù các công trình xây dựng bị thiêu hủy bằng đuốc hay bị dỡ từng viên gạch, cuối cùng chỉ có người dân là phải xây dựng lại những gì đã bị tàn phá.
Đặc biệt hơn, chính người dân địa phương bị trưng dụng để thực hiện những dự án này và vì thế mà sự phân bố lao động có tính thất thường. Trong lúc có nhiều dự án qui mô nhỏ nhằm tái thiết nhà cửa và đường sá, xuyên suốt thời kỳ Tây Sơn, gánh nặng lao dịch nặng nề nhất rơi vào những người dân sống sát cạnh các trung tâm chính trị của chính quyền Tây Sơn. Dự án đầu tiên nhằm xây dựng một trung tâm chính trị mới vào năm 1775 khi Nguyễn Nhạc bắt đầu sử dụng lao công địa phương để củng cố các công sự và dựng lên các kiến trúc ở Chà Bàn. Mặc dù tại vị trí này, các phế tích một thành lũy của người Chăm vẫn còn tồn tại, công việc chủ yếu cần làm là củng cố các bức tường thành, xây dựng một không gian sống và lao động bên trong khu vực. Đó là tài liệu mắt thấy tai nghe duy nhất miêu tả chi tiết về nhà Tây Sơn “ kiểm soát Chà Bàn từ năm 1778, và kể về một thị trấn mà các thành lũy vẫn còn ở tình trạng chưa được tu sửa. Có giả thuyết cho rằng hoặc công trình chưa được hoàn thành - mặc dù nhân chứng (Charles Chapman) không cho biết đã thấy một toán lao công nào - hoặc công trình bị đình hoãn do người lao động đã trốn khỏi hiện trường, khiến cho nhà lãnh đạo Tây Sơn không còn đủ người để hoàn thành dự án.
Một kiểu mẫu tương tự cũng được tìm thấy ngay sau khi Tây Sơn tiến ra bắc vào năm 1786. Sau khi quân của ông đã chiếm lấy Phú Xuân từ tay quân Trịnh, Nguyễn Huệ bố ráp dân địa phương và buộc họ làm việc ngày đêm để tái thiết các công sự trong kinh thành, để biến nơi đây thành trung tâm chính trị riêng của ông. Cùng lúc đó, Huệ cũng bắt đầu khôi phục Lũy Sầy* ở phía bắc Phú Xuân, trước đây đã được dùng để bảo vệ quân Nguyễn chống lại quân Trịnh. Dự án này giống như dự án tái thiết khu phòng thủ kinh thành, đòi hỏi sự đóng góp sức lao động lớn lao của dân địa phương. Giáo sĩ Pháp Jean Labartette viết rằng, yêu cầu lao động nặng đến nỗi tất cả các thành phần dân chúng đều bị buộc phải tham gia, chi trừ các bà mẹ đang cho con bú.
Bốn năm sau, vào năm 1790, Nguyễn Huệ (lúc này là Quang Trung hoàng đế) bắt đầu tuyển lao động cho công trình quan trọng xây dựng Phượng Hoàng Trung Đô mới của ông. Một tài liệu viết vào năm 1791 mô tả sự khó nhọc mà những người bị cưỡng bách lao động trong công trình đó phải đối đầu:
“Dân và lính ngập tràn, họ bận rộn không ngừng trong việc xây dựng một thị trấn mà những kẻ nổi loạn đang dựng lên. Một số người được phái đi tìm gỗ trong rừng, trong khi những người khác đào trong đất tìm đá; có người nung gạch ngói và những người khác thì làm việc trên những vùng đất cao hay những mương rãnh. Tất cả những việc đó được làm với phí tổn do dân chịu”.
Về sau một nhà chép sử biên niên người Việt viết rằng: Các quan chức trong vùng thúc giục người dân ở tất cả các huyện đi tới An Trường để lấp các ao hồ và đẵn gỗ. Phản ứng của người dân là chống lại dự án này, nhiều người từ bỏ công việc đang làm và trốn đi. Vì thế, như khi nhà Tây Sơn liên tục tuyển mộ lính mới thay cho lính đào ngũ, tình trạng tương tự cũng xảy ra với việc lao dịch.
Trong lúc những dự án qui mô lớn nhằm xây dựng một kinh đô mới có lẽ là nguồn gốc hiển nhiên nhất của sự gian khổ đối với người dân Việt, họ cũng bị cưỡng bách cung cấp sức lao động cho vô số dự án nhỏ khác. Đó là trường hợp trong phạm vi lãnh địa của nhà Tây Sơn, song hình như nó đặc biệt đúng ở Đàng Ngoài, nơi Nguyễn Huệ cùng các thuộc tưởng của ông và những người kế tục không ngừng đòi hỏi ở người dân của mình. Sự việc bắt đầu với sự sách nhiễu của Huệ quanh vùng Phú Xuân vào năm 1786 và tiếp tục xa hơn về phía bắc vào năm 1788, khi có tin tướng Tây Sơn Võ Văn Nhậm bắt mọi người phải sửa chữa các bức tường thành cũ quanh Hà Nội, một hành động làm cho người dân oán giận, và như chúng ta đã thấy, điều này góp phần vào việc Nguyễn Huệ loại trừ ông ta sau đó. Rồi khi chiến tranh với nhà Nguyễn kéo dài đến thập niên 1790, sự sách nhiễu về lao dịch của nhà Tây Sơn “cho những dự án từ việc làm lại cầu, đường, đến việc xây dựng và sửa chữa công sự - chỉ có tăng lên mà thôi. Năm 1794, lại thêm một loạt những yêu cầu lao dịch khác, được miêu tả là đã làm kiệt quệ người dân sống dưới sự kiểm soát của nhà Tây Sơn. Bốn năm sau, tình hình vẫn không cải thiện, và một lá thư khác của một giáo sĩ viết: “Người dân chưa bao giờ bị quấy rầy nhiều như thế. Họ phải cống nộp gấp đôi trong năm nay, phải đào những con kênh để chuyên chở gạo từ Đàng Ngoài vào miền thượng Đàng Trong và làm những chiếc giỏ để chuyển gạo bằng đường bộ ở những nơi người ta không thể đào kênh được”.
Để đáp ứng những yêu cầu lao dịch liên miên của họ, các nhà lãnh đạo Tây Sơn mở rộng các nhóm người trong xã hội là đối tượng để làm những công việc như thế. Họ bao gồm phụ nữ và những nhóm khác trong xã hội trước đây được miễn (hoặc ít sử dụng thường xuyên), gồm trẻ em, người già, và tu sĩ Phật giáo. Như đã lưu ý ở trên, khi quân Tây Sơn vào Thuận Hóa năm 1786, họ lập tức bắt mọi người làm việc, chỉ trừ các bà mẹ đang cho con bú. Sau đó, có thể việc sử dụng phụ nữ giảm xuống, nhưng vào mùa hè năm 1792, một giáo sĩ ở Đàng Ngoài thuật lại rằng “vừa có một chỉ thị là trong tất cả những làng xã không có đủ đàn ông để làm việc công ích, phụ nữ sẽ được sử dụng, và những phụ nữ chưa chồng được giao việc vác đá để xây dựng công sự”. Một vài dân làng, ít nhất trong trường hợp này, cố thể làm lung lạc sức mạnh của mệnh lệnh bằng mưu chước đi tìm các cô gái độc thân trong làng và ép họ lấy chồng. Bằng cách này, các làng xa có thể tránh được gánh nặng phải cung cấp đồ tiếp tế cho những cô gái được cử tham gia các dự án xây dựng. Tuy nhiên, việc này làm phát sinh những khó khăn và sức ép đối với dân địa phương.
Những sức ép như thế cũng kéo dài với những ai thường được coi là còn quá trẻ hoặc quá già để có thể trở thành đối tượng của những yêu cầu lao động trong nước. Hệ thống phân loại ghi danh những đàn ông trong làng từ lúc 9 tuổi đã là một chỉ dấu cho thấy rằng chính quyền mới kéo lùi giới hạn tuổi để có sự tham gia rộng rãi hơn trong xã hội và sẵn sàng đặt trẻ em trong tình trạng khả dụng khi cần đến. Như chúng tôi đã lưu ý ở trên, năm 1787, Nguyễn Huệ bắt những trẻ 15 tuổi vào lính. Đó không chỉ là công tác quân sự, mà còn là những loại lao động khác áp đặt cho giới trẻ. Một thư của giới giáo sĩ vào năm 1791 thuật lại rằng "nếu còn có bất cứ người trẻ tuổi nào trong làng, đó là vì họ được miễn trừ do đã có những đóng góp rất lớn. Thêm vào đó, vào những ngày này, còn có một mệnh lệnh bắt tất cả thanh thiếu niên từ 12 đến 15 tuổi đi phục vụ cho các con của nhà vua”.
Những đứa trẻ này, và nhiều trẻ khác từ 7 đến 8 tuổi được chọn để thành lập một đội bảo vệ đặc biệt cho một trong những người con của vua Quang Trung (khoảng 6 hay 7 tuổi) vừa được chọn làm người lãnh đạo chính quyền ở Đàng Ngoài. Cũng có rải rác những chứng cứ về việc chính quyền nhà Tây Sơn sử dụng những đàn ông, đàn bà lớn tuổi làm những công việc nặng nhọc, và cả những người đàn ông 60 tuổi bị buộc phải làm lính. Vào những thời điểm khác, những người già hơn cũng đã tình nguyện gia nhập vào quân đội Tây Sơn. Có trường hợp một nhóm người già lão sống ở Thăng Long hình thành một đội “bạch đầu quân" nhằm hỗ trợ cuộc tấn công quân Thanh vào năm 1789, một hành động được vua Quang Trung đích thân khen thưởng.
Cuối cùng, các lãnh tụ Tây Sơn, vốn ít chú trọng đến giáo lý Phật giáo, đã không băn khoăn gì khi bắt các tu viện Phật giáo phải lao động. Thông thường nhất là họ bắt các thầy tu phải rời tu viện (nhiều tu viện đã bị quân Tây Sơn cướp phá và sử dụng làm chuyện khác) để đi khuân vác hoặc làm lính trong hàng ngũ quân nổi dậy. Việc dùng thầy tu lao động theo lệnh của nhà nước như thế là điều rất bất thường vào thời kỳ Tây Sơn, vì theo truyền thống, những người thuộc giới tu sĩ được miễn lao dịch và thuế má. Quyết định của các lãnh tụ Tây Sơn bắt bất cứ ai mà họ coi như một nguồn lao động thuận lợi và chưa được khai thác một lần nữa cho thấy một mức độ cao về chủ nghĩa thực dụng hơn là về ý thức hệ đang dẫn dắt phong trào. Cùng lúc ấy, nhà Tây Sơn tấn công các trung tâm tu tập Phật giáo và việc phân tán những người ở trong đó cho làm lao dịch có thể còn có một lý do thứ hai, đó là giảm thiểu khả năng những chốn tu tập đó được sử dụng như những ổ đề kháng, vì cũng có những dấu hiệu cho thấy điều đó đã xảy ra.
Dù yêu cầu lao động xảy ra thường xuyên gây ra sự phiền hà cho tất cả các nhóm người trong xã hội, thỉnh thoảng chúng cũng tạo ra lợi ích cụ thể cho những người thực hiện. Chẳng hạn như những dự án sửa chữa đê đặc biệt quan trọng ở Đàng Ngoài, nơi đồng ruộng gần sông được tạo ra những bờ đê bằng đất để kiểm soát dòng chảy khó đoán trước của nó. Những vụ vỡ đê định kỳ thường tàn phá trên một diện rộng, đôi lúc cuốn đi hàng ngàn ngôi nhà. Một văn kiện miêu tả dự án sửa chữa đê năm 1795 tại trấn Sơn Nam (một khu vực đất phù sa bồi trải dài theo bờ phía nam con sông Hồng, từ Thăng Long ra đến bờ biển) được thực hiện dưới sự giám sát của một viên chức quan trọng của nhà Tây Sơn là Phan Huy ích, đã cho thấy dấu hiệu về ý nghĩa của những công trình như thế:
“Tôi nhận được lệnh giám sát việc đắp đê, đích thân đi xem xét và kiểm tra khắp nơi, sông và buộc dân tham gia bằng cách mang tre tới và bắt đầu dựng lên; tôi cũng thông báo cho họ thời hạn chót phải hoàn tất, để họ không xao nhãng. Sau một tháng, công trình hoàn tất, Dân chúng có mệt đôi chút, nhưng họ được lợi chung, và mọi người nhận thấy điều đó có lợi”*.
Sự miêu tả của Phan Huy ích rõ ràng là có tính lý tưởng hóa, có thể hiểu được là những người lao dịch cũng thấy được sự góp công của họ theo cách đó. Thật vậy, có lẽ như những người lao động hiểu được nhu cầu của các dự án bảo vệ đê vốn đã không được làm gì cả trong những năm tháng rối ren. Những dự án sửa chữa đê như trên tiêu biểu cho những trường hợp hiếm có mà sự lao động của dân chúng có lợi trực tiếp cho những người bị buộc phải thực hiện chúng. Một loại dự án lao động công ích khác cũng mang lại lợi ích là những nỗ lực tái thiết đường sá, vì những con đường này giúp chuyên chở thực phẩm cần thiết cùng những hàng hóa thương mại nói chung. Tuy nhiên, phần lớn những dự án khác như xây dựng công sự, thành trì, dinh thự hay công sở không phải là những lợi ích tức khắc hay rõ ràng đối với những người lao động bị buộc phải thực hiện chúng.