- 2 -
Tiếng gà gáy rộn ràng không đủ khả năng kéo bật hai mí mắt Còi. Sung để cho nó ngủ, rón rén chui ra khỏi mùng, xuống bếp nấu cơm. Đổ ba lon sữa bò gạo vào cái nồi đóng khói đen thui, đến độ người lạ chẳng thể phân biệt được nó làm bằng gang hay đất, Sung vo gạo, hứng nước vào thau để dành lát nữa rửa chén, rồi đi nhúm lửa. Cơm sôi, y chắt nước ra tô rồi đặt trở vô nồi, một cái chén đựng mấy con mắm sặc.
Chỉ khi chén mắm chín, dậy mùi, Còi mới ngồi thẳng lưng lên nổi. Nó không xếp mền, cuốn mùng mà xăm xăm đi ra sau bếp. Trên sàn, một cái mâm nhôm mất vành, bên trong có hai chén cơm bốc khói với hai đôi đũa gát ngang miệng để cúng, một tô đựng nước cơm và một chén mắm rắc tiêu lưa thưa trên mặt đang chờ sẵn.
Thấy nó định ngồi Sung nhắc:
-Rửa mặt, súc miệng cho sạch ke rồi mới ăn!
Vừa nói y vừa chỉ cho nó thấy cái lu nước gần đó. Còi rửa mặt, súc miệng qua quít rồi nhổ nước xuống những khe nhỏ trên sàn. Nó đưa hai cánh tay ra, nghiêng mặt quẹt má phải, má trái vào từng tay một. Cái động tác "lau" ấy chẳng thể làm khô cả mặt. Sung định rầy nhưng thấy cái bộ tịch quýnh quáng ấy, biết nó đang đói lắm nên thôi.
Chờ cho nó húp cạn tô nước cơm, Sung mới hỏi:
-Mầy ngủ đã chưa?
Nó gật đầu. Sung chỉ vào mấy khúc tầm vông và một đống dây làm bằng vỏ của cây gòn nói:
-Vậy thì ôm cái đống nầy đi theo tao.
Nó hỏi:
-Chi vậy?
-Làm bè chuối.
-Làm bè chi vậy? Anh có xe bò rồi mà.
Sung đáp:
-Đặng chống qua chống lại. Tao có đặt mấy cái lộp ở bờ kinh bên kia.
-Sao anh hổng đặt phía nầy, mà sao hổng xài xuồng.
Sung kiên nhẫn cắt nghĩa:
-Sắm nổi xuồng thì tao làm bè chi cho cực? Bờ bên kia cỏ nhiều, tôm nó thích núp hơn phía bên nầy.
Nghĩ tới những bữa cơm với các món tôm kho, tôm nướng khiến Còi phấn chấn. Không chờ Sung sai khiến, nó bưng mâm lại sàn nước, nhúng chén vào thao nước cơm vo, cầm miếng xơ dừa kỳ ken két vào từng cái chén.
Trong lúc đó Sung đi dọn dẹp nơi vừa ngủ. Anh không xếp mà chỉ vắt chân mùng lên nóc. Mền và gối được chiếc chiếu bó tròn lại, lăn sát vô vách cho tiện.
Còi vác bó cây và dây trên vai. Sung tay cầm mác, tay cầm cây sào đi xăm xăm trên con đường cộ, nó là con đường duy nhất ở đây.
Vừa đi sau lưng Sung, Còi vừa ngó dáo dác. Xóm nầy đất rộng nhưng nhà thưa, cất lộn xộn chớ không ngay hàng thẳng lối như xóm của nó. Cây ăn trái được trồng rất ít. Sung nói như để trả lời trước những câu mà nó sắp hỏi:
-Ở đây nước ngập liên miên, mấy cái cây chết yểu hoài nên người ta chán hết muốn trồng. Buồn hiu, không trường, không chợ, chỉ có hai cặp vợ chồng chưa có con tới ở. Còn lại là dân cày thuê, cuốc mướn, như tao không hà!
Đến nơi có hàng chuối rậm rạp mọc lấn ra đường, Sung liền dừng lại, ngó lên đọt từng bụi rồi cầm mác đốn mấy cây. Thấy Sung bỏ qua một cây chuối to, nó hỏi:
-Sao anh không đốn cây nầy?
-Nó chưa trổ buồng, đốn uổng lắm!
Sung chặt đúng sáu cây chuối. Mấy cây tầm vông đem theo từ nhà, được kẹp ngang sáu cây chuối để kết chúng lại. Sung cột hết bó dây bằng vỏ gòn cho chiếc bè thật chắc rồi cả hai cùng đẩy nó xuống kinh.
Nước chảy xuôi chiều, họ chỉ ngồi yên mà chẳng cần làm gì ráo. Cây sào đem theo để chống được ở không. Còi nằm ườn trên bè. Sung kéo nó dậy, chỉ tay xéo xéo với hướng mặt trời mọc hỏi:
-Đố mầy đi mút con kinh nầy, tới ngã ba là nhà của ai?
Nó lắc đầu:
-Em hổng biết!
Sung dùng cả hai bàn tay, vò rất mạnh cái đầu của nó cho tóc xù ra như trái gáo, rồi quở:
-Nhà của mầy chớ của ai mà hổng biết!
Nó cười bẽn lẽn rồi hỏi:
-Xài sào khó hông anh Năm?
Sung gật đầu:
-Khó gấp mấy lần xài cây dầm lận!
Còi ngạc nhiên:
-Vậy sao anh hổng xài dầm?
Sung đáp:
-Cái bè phải dùng sào nó mới đi.
Thấy Còi rờ rẩm cây sào, Sung hỏi:
-Mầy muốn học chống sào hông?
Còi mừng húm:
-Muốn!
Sung đứng thẳng lưng, lấy cây sào từ tay nó, chống mạnh xuống nước, dồn sức vào hai cánh tay mà đẩy, chiếc bè lướt mạnh làm Còi chới với vội ngồi thụp xuống. Làm được vài lần Sung kêu nó đứng dậy, bụng ép sát lưng nó rồi cầm tay mà dạy. Lập đi, lập lại hoài ba động tác: Cắm, chống, rút sào.
Đến căn nhà sàn nhỏ nằm trên bờ mương, Sung cho bè tắp vào rồi gọi vang:
-Anh Hai ơi!
Một người đàn ông ốm nhom, cao nhồng như cây sậy, từ đám lau bên cạnh bước ra hỏi:
-Có chuyện gì mà réo om sòm vậy Năm?
Sung hỏi cắc cớ:
-Anh làm cái gì mà chui vô bụi sớm vậy?
Hai Móm đáp:
-Tao thăm mấy cái trúm, còn mầy đi đâu mà tấp vô đây?
Sung chỉ xuống chân nói:
-Tui đốn hết cái vườn chuối của anh đặng kết cái bè nầy nè! Anh coi có được hông?
Hai Móm nhìn chầm chầm, dùng mắt để đo độ chắc của cái bè khá lâu mới nói:
-Coi cũng được! Mà mầy làm bè chi cho mắc công, có đi đâu thì qua tao cho mượn xuồng...
Sung khoát tay:
-Tui xài mỗi ngày mượn hoài coi sao được? Chị Hai có ở nhà hông anh?
Hai Móm lắc đầu:
-Bả mới đội thúng thuốc đi bán hôm qua, chi vậy?
Sung thở ra một cách thất vọng:
-Tính nhờ chỉ dắt thằng cháu nầy gửi trả cho ba má nó. Nó trốn nhà theo tui, chắc ổng bả đang kiếm tưng bừng tở bở.
Còi điếng hồn, thì ra Sung không muốn nuôi nó như đã hứa.
Sung đâu có nhận ra điều đó, hỏi tỉnh bơ:
-Chừng nào chỉ về hả anh?
Hai Móm gãi đầu:
-Bán hết mới về, đâu có biết ngày nào mà hẹn trước. Chuyến nầy bả đi Châu Ma, ít gì cũng phải ba, bốn ngày.
Sung nói bằng giọng nài nỉ:
-Chừng nào chỉ về anh nhớ hú liền cho tui nghen, để lâu quá ba má nó rầu thúi ruột!
Hai Móm hứa, giọng chắc nịch:
-Ừ! Khỏi lo, bả về là tao cho mầy hay liền. Mai chiều có rảnh xuống nhậu với tao một bữa nghe Năm!
Sung vừa gật đầu vừa nói:
-Tui mà bắt được con tôm đầu tiên là xuống kiếm anh liền. Hủ rượu chuối còn hông?
Hai Móm đáp, hơi phật ý:
-Còn chớ sao không, chuối chín hà rầm, tao làm gối đầu hoài, dễ gi hết!
Sung hồ hởi:
-Rồi, để tui kiếm coi có ai đi xóm Cầu Ván, gửi thằng nhỏ xong là tới anh liền.
Còi nghe Sung nói vậy thì càng rung dữ, phen nầy là chết chắc!
Tối hôm ấy chờ nghe Sung ngáy đều, nó lồm cồm bò dậy, đẩy cái bè xuống mương rồi cong lưng chống về hướng mặt trời lặn. Chiếc bè đi êm ru, được một đổi thì gặp lớp đất sét dẻo ngoẹo ôm dính khắn cây sào. Còi dốc toàn lực vào hai cánh tay để rút nó lên, nhưng cây sào vẫn không nhúc nhích. Chiếc bè bị nước kéo đi theo, bỏ lại cây sào đứng bơ vơ giữa dòng đời.
Nó hoảng hồn đưa mắt ngó dáo dát. Dưới ánh trăng, con sông rộng mênh mông khoác gương mặt đen thui trông vô cùng bí hiểm. Tưởng tượng như tụi ma da và cả bầy thủy quái đang chờ bên dưới, khiến nó không đủ can đảm nhảy xuống nước lội vào bờ.
Chiếc bè bị nước đẩy ra đến giữa sông. Hai bờ đều xa nên tiếng kêu yếu ớt của nó chẳng đến được tai người. Nó tu lên khóc, Chiếc bè nhờ có ông tà bà độ nên không cần chèo chống cũng tấp êm ru vào cây cầu gòn dưới bến nhà nó. Còi mừng muốn phát khùng, không thèm đẩy bè lên cho nước khỏi trôi, nhảy phóc lên bờ rồi ba chưn, bốn cẳng chạy ào lên nhà.
Đang giờ trưa nên cả cái xóm Cầu ván vắng lặng. Tụi bạn chẳng có đến một đứa đi lang thang để đụng mặt, cũng không có ông lính nào tay lăm le súng chờ bắt, nên nó rất an tâm đi thẳng vô nhà.
Cha, má và hai đứa em của nó đang ngồi ăn cơm trên cái chõng tre quen thuộc kê sát giàn rau. Cha nó đang vói tay hái trái ớt đỏ tươi, cúi đầu dầm vô chén nước mắm để ngay trước mặt, không để ý đến sự xuất hiện đột ngột của nó.
Má nó đang cầm đôi đũa bếp to xới tung nồi cơm, ngước mắt nhìn nó cười hết sức hiền. Bà cũng làm thinh nhưng bới liền một chén cơm đầy vun, cắm đôi đũa tre đứng sửng y như cắm nhang vào cái lư hương rồi đưa cho nó.
Còi mừng húm! Chẳng những không bị đánh, bị rầy mà còn được cho ăn. Nó đưa hai tay bưng chén cơm, dùng vai lấn con út Đẹt giạt ra mút đầu chõng rồi chen vào ngồi sát bên cạnh má, nơi cách xa tầm tay của cha nó nhứt cho chắc ăn.
Bữa cơm hôm nay có đủ các món mà nó ưa thích. Trong cái mâm thau cũ xì đã bị ra teng xanh lè nhiều chỗ, quá đổi quen thuộc ấy có một tô canh chua lươn nấu với bắp chuối, dĩa thịt gà xào mặn đầy vun và một cái dĩa kiểu đựng một con cá chiên bự bành ky có chan nước mắm tỏi ớt ngập mình. Chao ơi, toàn những thứ cao lương mỹ vị, hiếm khi xuất hiện riêng lẻ trên mâm cơm nhà nó, nói gì đến chuyện tập trung cùng một lúc như vầy!
Còi ta vốn khoái tất cả các món xuất thân từ lươn như cháo lươn, lươn xào cà ri, lươn kho mắm...Không chỉ bởi thịt lươn ngọt hơn cá, mà còn do một lý do quan trọng nhứt đối với đám con nít: Con lươn chỉ có cái xương sống mà thôi! Những đứa trẻ bận rộn như nó, vừa nhai, vừa nuốt, vừa nghĩ tới mấy cái chuyện trên đọt cây, khỏi lo bị mắc xương như khi ăn cá.
Nó được má gắp cho cái khúc mập nhứt,ngon nhứt ngay giữa bụng con lươn. Đang đưa lên miệng Còi liền bỏ xuống vì thấy hai đứa em đang tranh nhau dĩa thịt gà. Nó lật đật gắp cục thịt to nhứt, chôn xuống chén để dành.
Con Đèo, nhỏ em kế, chĩa đũa qua dĩa cá chiên. Con cá dãnh to bằng bàn tay xòe, nằm chổng ngược cả đuôi lẫn đầu, cái mình vàng ươm điểm mấy đốm trắng trắng, đỏ đỏ của tỏi và ớt, còn nguyên chưa ai đụng đũa. Theo lệ là phải rỉa từ đuôi lên, thế nhưng con Đèo lại đặt đũa vào ngay cái lưng, chỗ thịt đầy vun sát đầu con cá. Cái lối ăn ngon trước, dở sau nầy bị cha má nó cắm ngặt, vậy mà hôm nay chẳng ai lên tiếng la rầy. Còi ngứa con mắt quá, quên béng cái tội tày đình mà mình đang mắc phải, cũng quên cái câu "trời đánh tránh bữa ăn" mà cha má nó hay lặp đi lặp lại trong các bữa cơm, khi nó và hai con em tranh giành hục hặc. Nó cong mấy ngón tay cú cái cóc lên đầu con nhỏ.
Con Đèo vừa la, vừa khóc chói lói. Cha nó không nói không rằng, cầm chén cơm đang chan canh đầy nhóc đập vào trán nó một cái bốp.
Còi ta mở choàng cả hai con mắt. Bàn tay mát rượi đang đặt lên trán nó liền rút lại, giọng mừng rỡ của một người đàn bà cất cao:
-Ông ơi, nó tỉnh rồi nè!
Còi nhắm chặt hai mắt như muốn chui vào giấc chiêm bao trở lại. Nỗi nuối tiếc như con nước ngày rằm, tràn ngập cả cõi lòng. Than ôi! Nó chưa kịp ăn tới một miếng mấy món ngon ê hề trong cái mâm thau cũ đó! Cũng chưa kịp và cơm, chưa kịp húp một muỗng canh, chưa kịp nhúng đầu đũa vào chén nước mắm để mút một cái trước khi ăn (thói quen mà nó cùng cha lập lại đều đều trước mỗi bữa cơm)...Ôi phải chi nó bỏ cái tật ưa giành ăn với hai đứa em thì hay biết mấy!
Thấy hai giọt nước đang chui ra từ mắt, sắp lăn vô hai lỗ tai của nó. Người đàn bà ấy vội kéo cái khăn lông nhỏ đang đội trên đầu xuống, lau nhẹ rồi hỏi, giọng đầy thương cảm:
-Cháu tên gì? Nhà ở đâu? Con cái nhà ai? Mắc tội gì đến nổi bị đóng bè thả trôi sông vậy?
Còi không muốn và cũng không dám trả lời. Hai mắt nó cứ nhắm khít rịt, đó là cách duy nhất để nó chối bỏ thực tại và khỏi phải trả lời. Thấy vậy người đàn bà còn dịu giọng hơn:
-Thôi đừng khóc nữa! Cháu phải nói thì dì, dượng mới biết chỗ mà đưa về chớ!
Lúc nầy người đàn ông vừa bước tới, vội can:
-Nó chưa nhớ nổi đâu! Chắc là hồn phi phách tán hết rồi! Cha mẹ gì mà bất nhơn...Không biết nó trôi bao lâu rồi? Cái bụng lép xẹp chắc là đang đói teo ruột. Bà đi hâm lại nồi cháo rồi múc cho nó một chén, chờ con người ta ăn no rồi muốn hỏi cái gì thì hỏi.
Chỉ mấy phút sau, mùi cháo cá hành tiêu đã lan tỏa trong không khí. Còi chỉ mở mắt khi hai bàn tay rắn rỏi của người đàn ông lòn xuống lưng, xốc nách nó nâng dậy. Người đàn bà đưa cho nó một tô cháo nóng bốc hơi nghi ngút, có cái cán muỗng nhôm thò ra ngoài miệng. Còi đưa cả đôi tay ra để bưng chén cháo. Thấy hai bàn tay nó yếu xìu, run lẩy bẩy, bà nói:
-Thôi để dì đút cho, coi bộ cháu yếu lắm, cầm không có nổi đâu!
Rồi múc liền một muỗng, đưa lên miệng thổi, thè lưỡi ra nếm thấy nguội mới đút cho nó. Nó không thèm nhai, nuốt một cái ót, vừa nuốt xong là liền há miệng ra chờ sẵn. Người đàn bà hấp tấp, hớt vội, hớt vàng lớp cháo trên mặt, thổi phù phù thật mạnh, chưa kịp nguội là đút ngay. Chén cháo hết vèo! Hai con mắt của nó hau háu, lộ vẻ còn đói muốn ăn nữa. Người đàn bà định đi múc thêm thì bị chồng ngăn lại:
-Cho nó ăn từng chút thôi! Ăn cho đã một lần là giãn cái dạ dày, sa cái ruột không có tốt. Bây giờ cho nó uống một miếng "Chánh khí đơn" cho ấm bụng, dễ tiêu, lát nữa hãy cho ăn tiếp!
Bà vợ nghe theo, dẹp cái chén, rót cho nó một ly nước trà. Bà mở gói giấy lấy từ cái hộp thiếc đặt trên đầu cái tủ nhỏ xíu xuống, lấy ra một miếng cao đen thui vuông vức chừng ba ngón tay, bẻ một góc, biểu nó hả miệng, bỏ vào rồi nói:
-Nhai cái nầy cho nát rồi hãy uống nước!
Nó nhăn mặt khi nghe mùi thuốc. Vị đắng nghét, cay xè khiến nó chỉ muốn nhổ ra. Bà liền dỗ:
-Ráng nuốt xuống đi cháu! Thuốc nầy hay lắm đó! Ráng uống cho hết bịnh đặng ăn cơm, cho có sức mà chạy đi chơi.
Chờ nó nuốt xong bà mới chịu đưa cái ly trà đang cầm sẵn trên tay. Còi chụp vội ly trà, trà nguội ngắt, nó không cần thổi mà uống liền một hơi cạn tới đáy. Mồ hôi tươm ra đầy mặt. Người đàn bà lại lấy cái khăn ban nãy, chưa kịp đội còn vắt tạm trên vai, để lau mặt cho nó. Cái khăn nầy nằm thường xuyên trên đầu bà, nên toát ra mùi dầu dừa, y hệt mùi tóc của má nó. Cái mùi quen thuộc ấy khiến nó nghe nhớ nhà đến rưng rưng nước mắt.
Người đàn ông hỏi vợ:
-Cây quạt đâu rồi bà?
Người vợ lật chiếu moi ra một cây quạt lá vông te tua đưa cho chồng. Cây quạt đã cũ lắm rồi! Cán quạt được bó lại bằng mấy sợi dây thun xanh xanh, đỏ đỏ. Ông ta cầm lấy, quạt phành phạch vào lưng, đầu và mình của nó. Ông bảo vợ:
-Cái áo nó ướt nhẹp. Bà lấy cái áo của tui cho nó mặc, để mồ hôi ngấm ngược vô mình hổng tốt!
Bà vợ cự lại:
-Áo của ông bự bành ky nó mặc đâu có vừa! Để tui lấy cái áo túi của tui cho nó mặc đỡ.
Bà đổ nước trong bình thủy ra cái thau nhôm nhỏ, lại lấy cái khăn vắt trên vai xuống, nhúng vào thau nước rồi vắt cho thật ráo. Bà giũ mạnh cái khăn, lau cái mình của nó từ trước ra sau, xã khăn rồi lau đi lau lại cho đến khi da đỏ ửng, mới mặc cái áo trắng cụt tay vào cho nó
Cơn bịnh của Còi chỉ do cái đói, cái sợ sanh ra, nên khi được ăn no, vững bụng là dứt nhanh, hết lẹ.
Vợ chồng Ba Rum, chủ cái ghe nầy, đã vớt nó tại Vàm Nao ngay khi chiếc bè sắp chui vào xoáy nước.
Họ vốn chưa có con. Cả hai đã kẻ trên, người dưới bốn mươi, chuyện sanh con đã từng trở thành nỗi ám ảnh thường xuyên, cấp bách, đã được họ chấp nhận không còn thôi thúc nữa.
Người khổ tâm nhất là bà, vì vẫn còn mang mặc cảm có lỗi (không hiểu tại làm sao mà thiên hạ trút hết cái tội vô sinh nầy lên vai của mỗi mình người vợ), nên hể nghe đồn thầy nào, thuốc gì hay là liền tìm đến, mua cho bằng được. Thậm chí có người mách uống nước tiểu heo nái, bà cũng mua liền một con, cột theo ghe để dùng. Đeo đuổi theo cái phương pháp hết sức phản khoa học nầy đến gần nửa năm, không thấy công hiệu mới chịu thua rồi bán heo luôn chẳng thèm nuôi nữa.
Việc cứu Còi đã xóa bỏ cái mặc cảm ấy! Vốn mê tính nên bà cho rằng Còi ta do chính Phật bà Quan Âm ra tay. Ngài đã nghe thấu những lời cầu khẩn, cùng hàng ngàn phẩm kinh Phổ Môn mà bà kiên trì tụng niệm mỗi đêm, nên cảm ứng rồi gửi tặng. Điều nầy được minh chứng bằng cái vẻ lơ mơ như người cõi trên của nó.
Bởi tin tưởng hết lòng nên thoạt đầu bà còn tìm cách hỏi đon, hỏi ren để cố moi ra từ cửa miệng của Còi, một vài câu về tông tích nó. Sau đó thì chẳng những không hề đá động tới, mà còn can ngăn mỗi khi ông chồng tra hỏi thằng nhỏ, với ý định là mang đem trả cho cha mẹ nó.
Ngay hôm sau bà bắt ông ghé vô chợ Long Xuyên để mua hai bộ đồ, một dài, một ngắn cho Còi. Bà còn bấm bụng xài sang, mua thêm một hộp sữa bò, một chục cam để tẩm bổ cho nó.
Từ ngày có Còi, chiếc ghe cà dom ấy bỗng ngập tràn sinh khí. Bà trổ tài bếp núc, cố nấu thật ngon, thay đổi món liên miên để nó ăn được nhiều cho mau khỏe, mau lớn. Ông cũng siêng bắt cá hơn. Ngoài tấm lưới được căng dưới lườn ghe, ông còn làm thêm mấy sợi dây câu thả hai bên hông. Để đủ mồi, mỗi lần cặp bến để ăn ngủ, nghỉ ngơi hoặc cho bà đi chợ, ông đều nhảy lên bờ, tay xách theo một cái xuổng để đào trùn. Số trùn nầy ông thả vào mấy cái chậu đất trên mui. Những chậu nầy được bà dùng để trồng mấy loại rau như tần dày lá, ngò gai, hành, ớt, cần tây, bạc hà, cà gió...Đây gọi là một công hai lợi. Mấy con trùn mê đào đường hầm lắm! Nhờ vậy mà đất thêm tơi, thêm xốp, giúp rau xanh tốt. Ngoài ra phân trùn còn là món ăn ngon số một cho hầu hết các loại cây nữa. Nhờ đủ mồi tươi ngon nên trong cái rộng to cột sau lái, lúc nào cũng nghe tiếng cá hớp bọt nước. Lắm khi gặp may còn có thêm mấy chú tôm càng xanh búng tay lách tách.
Khi phát hiện Còi ta đã biết rành hết các mặt chữ, Ba Rum mừng còn hơn trúng lô độc đắc. Thế là ông được thoát khỏi cái công việc mà mình ghét nhứt: Đêm đêm gò lưng đọc truyện cho vợ. Bà có tật mê nghe mấy cái chuyện bên Tàu, vừa nghe vừa ngủ gục. Hể nghe bà ngáy êm êm là ông bỏ sách xuống liền, chưa kịp làm gì thì bà mở mắt ra tức thì rồi hỏi:
-Tới đâu rồi ông?
Thế là ông phải cầm sách lên đọc tiếp.
Vậy là Còi ta có thú tiêu khiển mới. Những cảnh bày binh, bố trận, điều binh, khiển tướng đó khiến nó say mê theo dõi, đâm ra ghiền nên dán mắt vào mấy trang chi chít chữ đó mà đọc suốt ngày. Bà được nghe thỏa thích, mọi lúc mọi nơi, cả khi giặt đồ, vá áo, lượm thóc...
Có một lần cả nhà phải ăn cơm khét. Đó là khi thằng Còi ôm cuốn truyện "Tiết Đinh San chinh tây" ngồi bên cạnh cái cà ràng trong lúc bà đang nấu cơm. Nó đọc thao thao cái đoạn Tiết Đinh San đi theo kiểu "tam bộ nhứt bái" để cầu Phàn Lê Huê. Bà nghe say sưa cho đến nỗi quên phức công việc đang làm, chắt nước nồi cơm mà không thèm bớt lửa.
Ông cũng tạo cho mình một sở thích mới: Dạy võ và hớt tóc cho nó.
Võ thì Còi khoái lắm, học hết sức hăng say, còn hớt tóc thì nó sợ đến hết hồn. Bởi ở ngay cái lần đầu tiên, ông đã nhấp kéo trúng cái vành tai của nó.