- 3 -
Vợ chồng Ba Rum vốn là dân thương hồ. Hai chữ "thương hồ" nầy áp dụng cho những người sống trên sông và làm nghề buôn bán. Họ chuyên mua hoa quả theo mùa từ miệt thượng nguồn, chở xuống Sài Gòn hoặc các tỉnh lỵ lớn để bán cho mấy người chủ vựa. Cái tết vừa rồi họ trúng đậm chuyến dưa hấu. Hiện giờ trong ghe là dừa khô chất cao tới nóc.
Chiếc ghe bề ngang khá rộng, có lần Còi thử đo bằng cách nằm duỗi thẳng chân, vươn thẳng tay nhưng vẫn còn cách vách cả thước. Chiều dài ghe gần gấp ba chiều rộng, chia làm hai khoang: Khoang chính rất lớn để chứa hàng, khoang sinh hoạt nhỏ hơn nhiều. Chiều cao khoang sau rất thấp bởi có cái sàn cách đáy ghe gần một thước. Khi di chuyển trong khoang nầy phải dùng gối, hoặc ngồi chồm hổm rồi đi lạch bạch như vịt. Khoang đựng hàng không lót sàn, khi để trống đi thẳng lưng một cách bình thường.
Khoang sinh hoạt, nơi để ở, để ngủ nầy có diện tích chừng bốn mét vuông. Nó có một cánh cửa lớn chiếm nửa tấm vách, ngăn hai khoang. Hai cửa sổ nhỏ ở hai vách đối diện và một cửa lớn thông ra cái nhà bếp lộ thiên phía sau. Bên trong chỉ có một cái tủ nhỏ xíu cao chưa đến một mét, kê sát vách. Trên đầu tủ có lót một tấm vải nhựa màu xanh với khung ảnh của một đôi vợ chồng rất già đều bới tóc. Ba cái chén nhỏ xíu cùng cái lư hương bằng đất có cắm đầy chưn nhang, được đặt trước khung ảnh ấy.
Cái sân cuối ghe, gọi là sàn thì đúng hơn, được dùng làm bếp. Nồi, chảo, thau, rỗ, dao, thớt...được treo sát vách, phía ngoài. Hai cái cà ràng được kê trên một tấm ván cột bên hông phải sát bánh lái, đối diện nó là cái nhà tắm nhỏ xíu được làm từ chiếc thùng ván thông.
Mui ghe đóng bằng ván, có bọc thiếc bên ngoài để không thấm nước. Trên mui, phía sau lái, có cơi thêm một cái chòi không có vách, mái lợp lá rất mát. Ba bữa cơm trong ngày đều dọn trong ấy và vào những buổi trưa, tối, khi gió không chịu chui vào hai khung cứa sổ nhỏ trong khoang, nó được dùng làm chỗ ngủ.
Kiểu ghe nầy có tên là "ghe cà dom", có cái mũi và đuôi hơi cong lên một chút. Cái tên cho thấy nó có xuất xứ từ miền biên giới tây nam. Nó được trang trí như một con cá to, hai bên mũi ghe có vẽ hai con mắt, nằm trong cái mang khá lớn sơn màu đỏ với tròng đen to bằng trái chanh, nằm giữa tròng trắng.
Sàn trước có hai cây cột to bằng cườm cẳng, cao cả thước, đứng song song, trên đó có cột cái quai bằng dây luộc to cỡ cổ tay con nít, xoắn lại thành hình số tám để lồng mái chèo vào.
Bánh lái là một tấm ván to dựng thẳng ở sau ghe, cũng được trang trí như đuôi cá. Một khúc cây rất dài, đẽo từ một thân gỗ, to bằng cánh tay được bào rất láng, gắn vào miếng ván hình tam giác gọi là bánh lái đó, chĩa ngang vô giữa cái chòi. Người vợ có nhiệm vụ ngồi trong chòi, tay cầm khúc cây, dịch chuyển sang trái hoặc phải để điều chỉnh hướng đi của chiếc ghe. Khi nước xuôi, không cần phải chèo, người chồng thường lái thay vợ. Những lúc ấy Còi thường cà rà một bên để học cách lái và hỏi đủ thứ.
Nó cũng khoái chèo lắm, nên một hôm năn nỉ:
-Dượng Ba dạy cháu chèo với!
Ba Rum nghiêm giọng:
-Phải kêu bằng ba thì dượng mới dạy!
Thế là nó phải đổi cách xưng hô, bằng cách gọi chữ "dượng " nhỏ dần rồi bỏ hẳn. Với người phụ nữ thì dễ dàng hơn, bởi ngay từ đầu nó hay gọi lộn "dì" là "má". Mỗi lần nó gọi tiếng "má" là bà cảm động ghê lắm! Có một lần không nén được, bà đã ôm và hun nó một cái thật mạnh làm nó mắc cỡ quá trời quá đất. Con nít ở quê, qua cái thời được bồng được ẵm thì những cái hun cũng thưa dần và cỡ tuổi thằng Còi thì gần như là mất hẳn. Cái món quà quý giá không tốn tiền mua ấy, tiếc thay ít khi được dùng!
Hai vợ chồng Ba Rum bàn tính rồi quyết định đặt tên nó là "Hên", bởi nhớ tới cái cảnh phải may mắn thế nào mới kéo kịp nó từ cái bè lên ghe!
Kể ra cả ba đều hết sức hên. Vợ chồng ba Rum khi không còn hy vọng, đâu ngờ lại có được một thằng con ngang hông, ngoan ngoãn, nên vui như bắt được vàng.
Thằng Còi thì khỏi phải nói! Nó mừng như chết đi sống lại bởi chẳng những thoát chết mà còn được cưng, được chìu, sung sướng, phủ phê như chuột sa hủ nếp.
Bây giờ vô mâm cơm nó khỏi phải tranh ăn, tranh múc. Những món ngon nhất đều được má nuôi gắp bỏ vô chén cho nó. Mỗi lần đi chợ bà còn hỏi xem nó thèm quà bánh, món ăn gì rồi mua, nấu liền cho nó.
Sướng như vậy nhưng không hiểu sao đôi khi nó nghe buồn quá đỗi. Nó thích nhất là khi đổ mồ hôi được má nuôi kéo cái khăn đội trên đầu xuống lau mặt, lau mình cho. Những lúc đó nó phồng mũi, cố hít cho bằng hết mùi dầu dừa thấm đẫm trong khăn. Mùi thơm quen thuộc ấy, như loại mực vô hình, tô đậm thêm những đường nét trên gương mặt của má cùng tất cả người thân đã vẽ sẵn trong đầu, đem đến cho nó một niềm an ủi hết sức lớn lao.
Một hôm má nuôi nó đi chợ về, lấy cái gói vuông vuông, mỏng mỏng có bọc giấy nhựt trình kẹp bên nách ra. Bà kêu nó lại đưa cho rồi nói:
-Má mua cho con cái nầy nè!
Nó lật đật bóc ra xem, thấy có hai cuốn tập hàng chiếc, mỗi cuốn 100 trang. Một hộp viết chì màu và cây viết chì đen có gắn cục gôm màu hồng hồng nhỏ xíu ở một đầu, chẳng phải là mấy thứ ăn được, chơi được khiến nó thất vọng tràn trề, cái mặt như cây dù cụp xuống, tiu nghỉu hỏi:
- Con có đi học đâu mà xài mấy món nầy?
Má nuôi cười:
-Sáng hôm qua má thấy con dòm theo mấy đứa ôm tập chạy trên bờ, coi bộ thèm lắm! Không tới được trường thì mình ở nhà học một mình. Con thích viết cái gì thì viết, muốn vẽ thứ gì thì vẽ.
Nó lắc đầu:
- Con không biết vẽ, cũng không thích viết cái gì hết!
Má nuôi rầy:
-Con bỏ lâu cây viết, mai mốt cầm là rớt lên, rớt xuống cho coi. Cái chữ coi vậy chớ quý nhứt hạng đó con. Má nhớ hồi đó má phải ra hội đồng xã ký giấy tờ, đâu có biết chữ, đánh cái dấu thập cũng không xong, người ta xúm nhau cười, má mắc cỡ muốn chết! Mình làm khéo thứ gì hay thứ đó. Viết chữ đẹp đỡ lắm con à! Ai mà biết mai mốt mình làm nghề gì. Cây viết nó nhẹ hơn cây chèo, cây cuốc dữ lắm! Mấy người kiếm ăn bằng cây viết sướng gấp mấy lần người khác, lại còn được thiên hạ trọng vọng. Bộ con hổng thích sao?
Nó hỏi lại:
-Nhưng mà viết cái gì hả má?
Má nuôi nó tần ngần:
-Thì thấy cái gì, nghe cái gì ngộ ngộ mà mình thích thì ghi lại cho khỏi quên. Túng cùng quá thì đặt tuồng bụng mà viết, đại để như con muốn lớn lên làm cái gì, muốn có thứ gì? Ăn món gì ngon, nghe chuyện gì vui thì chép đại vô cũng được. Hay là con nhớ ai thì viết thơ cho người ta, hỏi thăm, mời tới nhà chơi, vậy đó!
Má nuôi càng nói nó càng rầu, một tay cầm cuốn tập một tay gãi đầu sồn sột.
Mấy hôm sau, má nuôi lại hỏi:
-Con có viết được chữ nào chưa?
Nó lắc đầu. Má nuôi chắt lưỡi rồi nói:
-Con đem cuốn tập với cây viết chì ra đây.
Nó riu ríu làm theo. Má nuôi suy nghĩ một lát rồi bảo nó:
-Con chép mấy câu nầy cho má: " Công cha như núi thái sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra, một lòng thờ mẹ kính cha, cho tròn chữ hiếu mới là đạo con".
Nó kêu lên:
-Khoan khoan, má chờ con chuốt cây viết chì đã. Má phải đọc từ từ, đọc lẹ quá con viết hổng kịp.
Má nuôi nó đang ngồi trước một rỗ cóc xanh lè. Một tay cầm cây dao cau mỏng dính, nhọn hoắc, vừa cầm một trái cóc lên, nghe nó nói như vậy liền bỏ xuống. Bà biểu nó đưa cho mình cây viết chì đen đang cầm, sẵn cây dao đang cầm trên tay, bà gọt cho đến khi cái mũi viết nhọn hoắt mới trả lại.
Nó ngậm cái ngòi cho mềm rồi mới viết. Sợ chữ xấu bị chê nên ráng gò, viết xong thì cả bàn tay tê cứng. Hai ngón trỏ và giữa, chỗ kẹp cây viết móp vào, tái ngắt. Mồ hôi cũng tươm ra đầy trán. Như để thưởng công, má nuôi rút một chéo khăn xuống, vừa lau cho nó vừa khen:
-Con viết chữ đẹp quá!
Rồi lựa một trái cóc ngon nhứt, tách múi thật khéo đưa tận tay nó liền.
Nó nhìn mấy nét nguệch ngoạc, y như dấu chân của bầy gà trên sân, mà mắc cỡ đến đỏ ké mặt mày.
Thế là từ đó, mỗi ngày nó đều phải chép cho má nuôi mấy câu ru em mà bà chợt nhớ. Bàn tay dần mềm đi và nét chữ cũng cứng cỏi lên dần. Bà nhớ tới đâu thì cho nó chép tới đó. Nhiều khi nó đang ngủ lơ mơ cũng bị gọi dậy. Bà cười như xin lỗi, nói:
-Con lấy tập ghi liền cái câu nầy vô để hông thôi má quên.
Có những câu nó đã quen biết từ trước, cũng có những câu lạ hoắc. Những câu nó thích, hiểu và cảm động nhứt, là những câu nói về tình mẹ. Nó nghe bà đọc mấy câu đó, chỉ cần một lần là thuộc liền, ghi liền một mạch, không cần phải nhờ lập đi lập lại. Nhưng cũng có những câu mà nó chẳng khoái chép chút nào. Đó là mấy câu làm nó thắc mắc, chẳng hạn: " Khoan khoan bớ mụ chèo đò, bớ cô cầm lái dặn dò trước sau", thì nó phải hỏi cho hiểu rồi mới chịu chép:
-Ai dặn, mà dặn cái gì hả má?
Bà cười, áy náy:
-Má cũng hổng biết! Bài nầy chắc người ta đặt ra để dỗ con nít, cho nó êm tai dễ ngủ mà thôi! Mấy bài kia thì để chỉ dạy. Nói suông khó lọt tai, khó nhớ nên phải ráp cho có vần, có điệu.
Rồi bà chép miệng:
-Ngẫm lại, ông bà mình sao mà khéo quá! Nói cái gì cũng hay, dạy cái gì cũng đúng. Như cái câu " Chiều chiều ra đứng ngõ sau, trông về quê mẹ ruột đau chín chiều", sao mà y chang cái cảnh của má khi đi làm dâu. Bà nội con hồi đó khó lắm! Má làm gần chết mà không dám ăn no. Quầng quật cả ngày nên gà vừa lên chuồng thì hai con mắt cũng híp lại. Vậy mà đâu dám chui vô mùng ngủ, phải chờ trong nhà ngủ hết, coi đóng cổng, gài cửa rồi mới đi ngủ sau cùng. Bị rầy hà rầm nên cứ chiều chiều là nhớ nhà rồi lén ra sau hè ngồi khóc.
Nói tới đó bà lại rươm rướm nước mắt, kể tiếp:
-Ba với má đâu có muốn sống trôi nổi như vầy! Tại má không có con nên ông bà nội biểu ba con bỏ má mà cưới người khác. Rầy rà hoài nên ba má phải bỏ trốn. Ban đầu đem theo cái xuồng nhỏ xíu, rồi ráng làm, từ từ để dành tiền sắm ghe lớn. Cũng nhờ ông bà ngoại giúp đỡ nên mới được như hôm nay.
Nó nghe thương bà quá, chưa biết an ủi nên chỉ hỏi:
-Hai người trong tấm hình thờ là ông bà nội hay ngoại vậy má?
Bà chép miệng:
-Ông bà nội?
Nó ngạc nhiên:
-Sao má hổng thờ ông bà ngoại?
Hai giọt nước mắt nằm trên khóe ban này bây giờ đã lăn đến nửa gò má. Bà kéo khăn lau cho khô rồi nói:
-Đàn bà có chồng làm sao dám thờ cha mẹ ruột hả con?
Trưa đứng bóng. Mặt sông như chiếc khiên bạc khổng lồ ngăn chặn những tia nắng nóng rát, bén ngót, đâm thẳng xuống đầu. Chiếc ghe cà dom với những nhịp chèo uể oải, đang từ từ trôi sát bờ. Nó quá nhỏ bé và thầm lặng, chẳng đáng để mấy con sóng bận tâm. Chỉ đến khi một chiếc o bo trắng toát xuất hiện, với cái máy đuôi tôm thật to gắn phía sau khiến cái mũi chổng ngược, phóng như điên mới làm chúng nổi giận đùng đùng. Chúng nhảy chồm lên, cố tóm đầu cái con quái vật phách lối đó mà dìm xuống nước. Vồ hụt hoài khiến chúng tức tối, lao thẳng vô bờ, táp liên tục vào bãi bùn và cây cầu dừa đang nằm chịu trận cho đã nư.
Tiếng động cơ đánh thức mấy đứa con nít trong những căn nhà lá ven sông. Những bé trai đang chơi trò rượt bắt, hoặc đang ngồi vắt vẻo, đu đưa trên cây ổi, cây mận, cây me...liền nhảy phóc xuống đất. Chúng chưa kịp mang dép là đâm đầu chạy bổ xuống sông. Đa số đứng lại trên bờ vừa hò hét vừa vẫy tay. Chỉ có hai đứa con trai, lưng trần, quần xà lỏn là nhảy ào xuống nước để đè đầu con sóng.
Còi nhìn chúng bằng đôi mắt thèm thuồng. Mới hôm nào nó còn là một trong hai thằng bé đó. Mới hôm nào nó và mấy đứa bạn, còn bơi theo chiếc ghe chở hàng đi ngang qua khi đang tắm, để bắt chuyện với một thằng nhỏ trạc tuổi nó, ngồi trong ghe. Thằng bé ấy cũng ló mặt ra cửa sổ, hau háu nhìn một cách thèm muốn, y như nó bây giờ. Tụi nó đã cùng cười với nhau. Còn nhớ chúng hỏi thằng bé:
- Nhà mầy ở đâu?
Nó lắc đầu:
-Tao không có nhà. Chỉ có ghe thôi!
Chúng hỏi tiếp:
-Mầy có đi học hông?
Nó lắc đầu thêm lần nữa:
-Tao không có đi học!
-Mầy biết chữ hông?
Trước sự ngạc nhiên của chúng, nó gật đầu:
-Biết, ba tao dạy!
Chúng hỏi thêm như thách đố:
-Mầy thuộc hết bảng cửu chương chưa?
Thằng bé đáp không do dự:
-Thuộc.
Thấy chúng tỏ vẻ không tin, nó thách:
-Tụi bây đố đi, tao đọc cho coi.
Chúng lựa hai bài khó nhất là cửu chương bảy với chín. Thằng bé đọc ro ro, cả xuôi lẫn ngược làm chúng cụt hứng. Coi như tụi nó thua, bèn tìm cách gỡ:
-Mầy có bạn nhiều hông?
Thằng bé lắc đầu tiu nghỉu. Chúng hơn thằng bé một thứ, vậy là huề, bèn rủ:
-Nhảy xuống tắm với tụi tao cho vui.
Nó rút vai, le lưỡi:
-Ba tao hổng cho đâu!
Thấy chúng định bơi vào bờ nó bèn năn nỉ:
-Lội theo chơi với tao một chút nữa đi!
Cho rằng rủ suông không thuyết phục, nó nói:
-Chờ một lát, để tao lấy cái nầy cho tụi bây!
Nghe vậy chúng đâm ra tò mò nên bám tay vào ghe nán lại chờ. Thấy thằng bé biến mất, sợ bị lừa nên một đứa trèo lên ghe, nhoài người để nhìn theo. Chiếc ghe chở khẳm nên nó vói tay bám vào bậu cửa sổ rất dễ, thót lên ngồi gọn hơ, liếc vào khắp ghe rồi nhảy xuống thông báo:
-Chiếc ghe nầy chở nhóc ké dưa hấu, tụi bây ơi!
Lát sau thằng bé ban nãy lại nhô đầu ra cửa với hai trái dưa hấu nhỏ xíu cầm trong tay. Nó đưa hết cho chúng, rồi nói:
- Dưa gốc ngọt lắm đó, ăn liền đi!
Chúng chuyền tay nhau hai trái dưa hấu, bơi ngay vào bờ trước sự thất vọng của thằng nhỏ. Chúng được chào đón bằng tiếng hoan hô vang vội của mấy đứa đang tắm gần bờ. Hai trái dưa bị đập vô đầu gối bể đôi. Cả bọn chia nhau, đứa nầy cạp một miếng rồi đưa cho đứa khác. Dưa tuy nhỏ nhưng rất ngọt, chúng khá đông nên chuyền vừa đúng giáp một vòng là hết. Mẫu dưa có chút xíu càng làm dạ dày thêm thổn thức, khiến cả bọn còn thèm hơn khi chưa nếm. Chúng đều ao ước, phải chi được làm thằng bé đó để ăn dưa hấu cho đã đời. Còn bây giờ...
Hai đứa vừa nhảy xuống nước, mê nhồi sóng nên không thèm nhìn đến chiếc ghe. Chúng đang dang rộng hai tay, ngửa mặt nhìn trời, tận hưởng cái cảm giác bềnh bồng do được sóng nâng lên, hạ xuống, kéo ra, đẩy vào...Chúng không thể bắt gặp tia mắt khát khao, nụ cười và câu hỏi: "Tụi bây muốn ăn dừa hông?" của nó. Chẳng đứa nào đáp, chẳng đứa nào nhìn, chẳng đứa nào cười với nó lấy một lần, khiến nó thấy tủi và buồn quá đỗi!
Ba Rum bắt gặp cảnh đó. Ông biết nó rất thèm được chơi với chúng. Chiều hôm đó ông dừng ghe, lấy cớ là mò ốc để nó có dịp tắm sông với mấy đứa con nít.
Xóm nầy nhà thưa thớt, bến vắng teo, không thấy ai xuống tắm. Ba Rum thấy vậy bèn thôi mò ốc mà chơi với nó. Bà cũng không ngồi trên ghe, tắm bằng cách múc nước xối lên người nữa, mà nhập bọn rồi rủ nó thi bơi, thi lặn...
Để cho vui, ông đồng đồng nó lên vai rồi ném thật mạnh, thật xa làm bà hết hồn còn nó thì khoái chí cười khanh khách. Hai cha con nô đùa cho tới khi mắt đỏ ké còn chưa chịu thôi. Bà phải bắt họ ngưng rồi kéo nó lại gần để kỳ lưng, cổ, lỗ tai... Hai ngón tay cái của bà liên tục miết trên da của nó. Lớp đất bám trên đó bị se lại thành những sợi ngắn ngủn, đen thui, rơi lả lả, y như một bầy lăng quăng bơi, lặn rồi chìm trong nước.
Trong lúc cả hai lo kỳ cọ, Ba Rum đi dọc bờ sông kiếm đất sét về để dạy nó nặn đồ chơi. Một trái xoài khá to của cây xoài tượng sát mé sông, rớt ngay trước mặt. Ông lượm lên rồi đem đưa cho vợ. Bà mừng rơn nói:
-Hên quá! Để tui bầm xoài, luộc ốc, nướng thêm một con khô sặc bổi, trộn cho hai cha con ông một dĩa gỏi.
Một người đàn ông dắt hai con bò xuống sông cho uống uống nước, thấy chiếc ghe, đoán Ba Rum là chủ nên hỏi:
-Ghe đi đâu? Chở món gì vậy ông anh?
Ba Rum đáp:
-Chở dừa đem bán ở Sài Gòn.
Ông ta mừng húm nói:
-Tui có mấy chục trái trong nhà, anh lấy giùm, trả bao nhiêu cũng được.
Ba Rum nói:
-Tui mua của người ta giá nào thì trả cho anh giá đó. Anh có bao nhiêu thì gom hết, đem lại đây tui mua cho!
Khi cả ba đang ăn cơm thì ông ta đội một thúng dừa đến. Ba Rum mời:
-Gặp bữa ăn ba hột lấy thảo ông anh.
Người đàn ông định từ chối nhưng nhìn vào mâm cơm thấy có dĩa gỏi và chén nước mắm tỏi ớt quá hấp dẫn, cầm lòng chẳng đặng nên nói:
-Cơm thì tui ăn rồi, còn nhậu thì chưa? Nếu anh có lòng thơm thảo thì chờ tui lên nhà xách bình rượu thuốc xuống, mình lai rai cho vui.
Ba Rum, vốn đang thèm bạn nhậu, còn mừng gấp đôi y nên đồng ý cái rụp liền:
-Rồi, anh đem lẹ lẹ nghen!
Ông chưa kịp nhai, nuốt miếng cơm vừa và vô miệng là đã thấy y ta xuất hiện, chẳng những bưng theo hủ rượu mà còn cặp nách cây đàn.
Họ vừa nhậu vừa đàn ca, thỉnh thoảng dừng lại để chuyện trò, một cách hết sức hào hứng. Dịp nầy Ba Rum khiến Còi khâm phục và tự hào quá đỗi, bởi làn hơi của ông cũng ngọt không thua Hữu Phước.
Người đàn ông kia cũng đâu có kém. Nó dán mắt vào mấy ngón tay kéo lê trên những sợi dây đàn, lướt nhẹ, bấm và rung ấy với tràn ngập một lòng mến mộ. Cái cách ông ta rướn cổ lên để bắt đầu một câu vọng cổ, rồi nhắm mắt lại để xuống "xề" khiến nó phải căng cả người theo. Nó cố ghìm cái cảm xúc đang dâng cao trong ngực, đẩy xuống hai bàn tay, bắt chúng chờ cho đến đúng lúc đó mới ào ra như sóng!
Nó ngồi mãi, chờ mãi, nghe mãi...
Gió từ lòng sông thổi vào mát rượi, tiếng đàn, ca quá êm tai khiến hai mắt nó từ từ sụp mí, nằm mẹp xuống rồi ngủ hồi nào cũng không hay.
Thiếu mất sự cổ vũ nhiệt tình của nó, hai người đàn ông cũng cạn dần cảm hứng. Họ quay sang trò chuyện, hỏi thăm từ công việc, gia đình, con cái rồi lần tới nguồn cội của nhau. Người đàn ông nầy là nông dân thuần túy vì ngoài huê lợi từ ruộng vườn, y ta chẳng có thêm một nguồn thu nhập nào khác.
Họ đã biết thứ, biết tên, biết tuổi của nhau. Tuy mới quen có mấy tiếng đồng hồ nhưng cảm xúc do lời ca tiếng nhạc cùng sự trợ giúp của men rượu, khiến tình bạn của họ tăng trưởng một cách vô cùng nhanh chóng!
Buổi nhậu kết thúc khi một thằng bé trai đứng trên bờ gọi:
-Ba ơi về ngủ!
Tư Chắc, tên và thứ của người đàn ông đó, vội cáo từ. Vừa quay mình vừa ngoáy đầu, mời đi mời lại mấy lần rằng sáng mai Ba Rum phải lên nhà y uống trà. Khi đặt chân lên tấm đòn mỏng, y còn nhắc lại lời mời rồi nhấn mạnh:
-Anh hứa là phải giữ lời đó nhe!
Lòng còn quyến luyến nên Ba Rum gật đầu lia lịa:
-Tui mà hứa là như đinh đóng cột, anh đừng có lo!
Sáng hôm sau, ăn xong chén cơm chiên, Ba Rum lấy tấm đòn mỏng gác trên mui bắc lên bờ trở lại. Ông dắt thằng Còi theo để nó dịp trò chuyện với đứa con trai hồi tối, bởi biết nó rất thèm có bạn.
Căn nhà lá khá rộng nằm lọt thỏm trong chòm cây ăn trái. Chủ nhà đã ngồi sẵn ở chiếc bàn uống trà giữa nhà để đợi khách. Vừa nghe tiếng chó sửa là y phóng ra liền để đón bạn. Thấy thằng Còi đi sau lưng Ba Rum, ông mừng rở gọi to:
-Chọn ơi, ra chơi với bạn nè con!
Một thằng bé đen thui, gầy và thấp hơn thằng Còi một chút, ló mặt ra cửa buồng, nhìn một cái rồi rút vô liền. Chủ nhà hơi ngượng, giải thích:
-Cái thằng nầy nhát còn hơn con gái nữa. Tối nào cũng phải có tui nằm tấn cái cửa mùng nó mới chịu ngủ. Sao anh hổng rủ chị lên chơi cho biết nhà?
Không chờ Ba Rum trả lời, y ngoái đầu ra sau gọi vợ:
-Má con Trơn! Bà xuống ghe mời chị Ba lên nhà uống nước giùm tui!
Bà vợ đang cho heo ăn ngoài sân liền quay mặt vô nhà gọi đứa con gái:
-Trơn, con ra coi chừng con heo giùm má. Đừng cho nó thọt cẳng vô cái máng nghe hông!
Bà bước lại lu, múc một ca nước rửa tay, vừa đi vừa chùi vô quần rồi bước xăm xăm xuống sông.
Lát sau hai người đàn bà đã nắm tay nhau, bước đến bàn trà một lượt. Họ chào ra mắt hai người đàn ông rồi rút vô nhà sau nói chuyện. Ở thôn quê, phòng khách, bàn trà, cái chõng ngoài hiên là chỗ dành cho đàn ông. Bếp, sàn nước, cái võng nhà sau là nơi gặp gỡ của chị em phụ nữ.
Tư Chắc vào buồng cầm tay thằng con dắt ra, khoe để giúp nó tự tin:
-Cái thằng nầy nó bắn chim giỏi số dzách đó con!
Hai đứa nhỏ nhìn nhau bẽn lẽn. Tư Chắc giục:
-Dắt anh Hên ra vườn đi Chọn.
Chúng nó có vẻ lúng túng trước mặt người lớn, nhưng vừa ra khỏi tầm mắt của họ là nhìn nhau cười mỉm chi liền. Còi móc trong túi ra mấy cục kẹo mà má nó đã bỏ sẵn vô túi, đưa cho Chọn rồi hỏi:
-Ăn hông?
Thằng kia không đáp, cầm lên một chiếc, lột tấm giấy bao có in hình trái khóm bỏ vô miệng liền. Bây giờ Còi mới dám chắc rằng thằng bé nầy nhỏ tuổi hơn mình, bởi cái miệng nó trống lổng vì hai cái răng cửa còn chưa kịp mọc lại.
Ba Rum vừa nhìn cái cơ ngơi là biết ngay hai vợ chồng Tư Chắc là những người làm ăn chăm chỉ, đàng hoàng.
Căn nhà tuy không to lắm nhưng rất gọn gàng, sạch sẽ. Nền đất màu nâu đen được nện rất chặt, phẳng lì như mặt trống, láng mướt chẳng kém gì lót gạch. Tuy cột tre, mái lá nhưng mát mẻ sáng sủa nhờ hàng ba thông thoáng và trổ nhiều cửa sổ.
Miếng vườn bao quanh nhà sum xuê cây ăn trái. Mấy luống rau được vun liếp rất cao, chăm sóc cẩn thận nên ra lá xanh mướt. Giàn bầu, giàn mướp cũng đầy nhóc trái. Chuồng bò, chuồng heo sát bên nhà nhưng chẳng nghe mùi nồng nặc, chắc chúng được tắm và chuồng được dọn rửa mỗi ngày.
Những người vốn là nông dân, yêu ruộng đất, nhưng vì hoàn cảnh phải xa vườn, lìa ruộng như Ba Rum thì nơi đây đúng là miền đất hứa. Ông bất giác buông lời khen và ao ước một cách thực lòng:
-Chỗ ở của anh coi mát con mắt quá. Phải chi tui được ở một nơi như vầy!
Tư Chắc chụp liền câu nói đó mà rủ:
- Anh thiệt lòng muốn như vậy thì tui sẽ để ý. Hể có ai bán đất là cho anh hay liền.
Ba Rum cười, hỏi lấp lửng:
-Tiền đâu mà mua?
-Đất ở đây không có mắc lắm đâu! Nhiều hổng dám nói, chớ chừng vài công thì trúng mấy chuyến dưa mùa tết là anh dư sức sắm.
Thấy bạn quá nhiệt tình, Ba Rum cảm động nói:
-Nói thiệt với anh, cực chẳng đã tui mới làm nghề nầy. Mỗi lần nghe gà gáy, chó sủa lá bắt buồn muốn chết. Vợ chồng tui cũng tính với nhau, đeo theo ghe ít năm nữa rồi ráng kiếm một chỗ để cắm dùi cho con đi học. Mai mốt trăm tuổi cũng khỏi lo không có đất chôn.
Tư Chắc hỏi tới:
-Thằng con anh cái mặt coi sáng quá, nó mấy tuổi, có đi học chưa?
Ba rum trả lời ngắn gọn rồi đánh trống lảng:
-Mười. Hồi nảy tui nghe anh kêu "má con Trơn". Trơn là con gái lớn của anh phải hông?
-Ờ! Nó mới có chín tuổi hà!
Ba Rum vỗ tay lên đùi nghe cái "chách" rồi nói:
-Nhứt gái lớn hai, nhì trai hơn một, vậy là tui với anh làm sui được rồi đó. Nó học tới lớp ba rồi hả?
Tư Chắc gãi đầu:
-Nó nghĩ học hồi năm ngoái rồi. Tại cái trường quá xa, qua tới ba bốn cây cầu khỉ. Nó đi học về bị rớt xuống sông, may mà có người vớt chớ hông thôi dám toi mạng lắm! Má nó sợ quá nên bắt nghĩ học luôn. Tội nghiệp! Con nhỏ sáng dạ lắm, để tui kêu nó vô chào cho anh coi mặt hén!
Rồi cất giọng dõng dạt:
-Trơn, vô ba biểu coi!
Tiếng "dạ" cao vút và một đứa con gái với hai tay áo xăn tới cùi chõ chạy từ hàng ba vào. Tư Chắc sai liền:
-Con khoanh tay chào bác Ba rồi chạy vô bếp xách cái bình thủy đem ra đây cho ba.
Con bé khoanh tay cúi đầu nói:
-Cháu chào bác Ba!
Ba Rum vừa nhìn nó một cái là thấy ưng bụng liền, nghĩ thầm: " Con nhỏ nầy bong bắn lẹ làng, hơn hẳn thằng em của nó, cao cũng xấp xỉ thằng Hên, mặt mũi sáng láng. Coi bộ được à nghen!"
Y nghe thương nó liền nên móc bóp, lấy ra tờ giấy một đồng còn hơi mới mới đưa cho, vừa cười, vừa nói:
-Bác cho con một đồng nè, lấy đi để dành mua bánh ăn.
Con Trơn chưa dám cầm, nhìn ba nó có ý dò hỏi. Tư Chắc biết ý nên nói:
-Cám ơn bác đi con!
Nó cầm tiền bằng cả hai tay rồi nói:
-Cháu cám ơn bác Ba.
Rồi chạy ra nhà sau để lấy cái bình thủy. Má nó đang đứng trước cái lò trấu để nấu nước, cạnh bên là một người đàn bà lạ. Nó liền bị má gọi lại, bảo y như ba nó:
-Con khoanh tay chào bác Ba rồi bưng cái bình thủy ra cho ba con, má mới châm đầy rồi đó!
Con Trơn lại làm y, nói y như khi nãy, lòng tràn trề hy vọng. Người đàn bà không cho tiền, chỉ kéo nó lại rồi hun vô hai gò má.
Nó bưng cái bình thủy ra. Thấy ba nó và ông bác Ba mới tinh kia đang ngoéo tay, vỗ lưng nhau rồi cười ha hả như con nít!
Vợ Tư Chắc dụi lửa, tắt bếp, vừa vói tay lấy cái thúng úp trên miệng bồ đầy vun lúa, vừa nói:
-Để tui dắt chị ra vườn cắt mấy mớ rau, mớ trái.
Lúa bám trên miệng thúng rơi ra, bà ta khom lưng nhặt lên từ hạt. Vợ Ba Rum cũng làm phụ, lớp vỏ nhám cùng hai đầu nhọn của chúng chạm vào tay làm lòng bà bỗng xót. Mấy hạt lúa vàng ươm ấy, gợi cho bà nhớ đến cánh đồng mênh mông và những vụ mùa xa xưa ở quê mình. Những hạt lúa, cho dù ở đâu, cũng mang màu sắc và hình dáng giống hệt nhau. Chúng hiền lành và thân thuộc quá chừng! Bà hỏi:
-Năm ngoái lúa trúng hông chị?
-Cũng khá, nhưng không bằng năm kỉa, năm kia.
-Sao vậy?
-Nước lên sớm quá nên không kịp chín, trúng mà cũng như không.
Họ dừng lại dưới cái giàn cao, lợp đầy những chiếc lá to gấp đôi bàn tay xòe rộng. Cái giàn rất lớn nầy cho cả mướp và bầu leo chung, thứ nào cũng đầy nhóc trái. Vợ Ba Rum ngửa mặt đếm rồi hỏi:
-Chị bón phân gì mà tốt quá vậy?
Vợ Tư Chắc lắc đầu:
-Không có bón thứ gì hết ráo!
Những trái mướp hương dài gần bằng cánh tay, xanh như cẩm thạch với những cái sọc đậm màu hơn chạy dọc theo thân. Những trái bầu tuy to gấp đôi, gấp ba chúng mà vẫn còn non, chưa lớn hết. Có da căng bóng, màu xanh lợt lốm đốm trắng được phủ một lớp lông mịn như nhung trông vô cùng gợi cảm. Những trái cà khoác tấm áo sa ten bóng lưỡng màu tím thẫm cũng được chui vào nằm ké.
Cái thúng gần đầy mà vợ Tư Chắc còn chưa chịu dừng tay. Vợ Ba Rum vội ngăn lại:
-Thôi thôi nhiều lắm rồi!
Vợ Tư Chắt bèn chỉ vào mấy vạt rau sống, bù ngót, cải dún....bên cạnh hỏi:
-Chị xài thứ gì nữa hông?
Vợ Ba Rum từ chối:
-Bây nhiêu đây là ăn lòi bảng họng rồi! Chị đừng cắt thêm mà uổng, để dành đó...
Vợ Tư Chắc ngắt lời:
-Để dành cũng bỏ chớ nhiều quá ăn đâu có hết!
Bà chỉ vào cái nia to kê trên đống củi gần đó, nói:
-Chị coi nè, tui phơi đầy một nia bầu.
Rồi bà chỉ vào mấy trái mướp khô queo còn bám trên giàn:
-Ba cái nầy thì lấy xơ để kỳ mình, rửa chén.
Vợ Ba Rum tiếc hùi hụi, chắc lưỡi:
-Sao chị hổng bán bớt.
Vợ Tư Chắc thở ra:
-Ở đây nhà nào cũng có, bán cho ai? Chị ăn giùm là tui khỏi bỏ mang tội, cám ơn hổng hết!
-Sao chị hổng trồng ít lại một chút?
-Mỗi thứ có một hai cây thôi chớ đâu có nhiều.
Vợ Ba Rum khen:
-Đất ở đây tốt quá!
Vợ Tư Chắc giải thích:
-Hể năm nào bị ngập là năm sau trồng cái gì cũng tốt!
Cả hai khiêng cái thúng lên ghe. Vợ Tư Chắc ngó thấy mấy chậu rau đứng trên mui ghe, khóm nào cũng xanh lặc lè, um tùm lá, liền tấm tắc:
-Chà, chị cũng mát tay dữ hén! Rau tốt quá chừng luôn!
Vợ Ba Rum đáp, khiêm tốn pha chút xíu hãnh diện:
-Thì nước đầy cả sông, tha hồ mà tưới. Ổng thả trùn đầy nghẹt trong đó nên đất tơi xốp lắm!
Khoang ghe chất đầy nhóc dừa, họ phải trèo lên mui mới đi tới bếp.
Vợ Ba Rum lật tấm ván đậy cái hầm nhỏ ở đuôi ghe, xếp mướp, bầu, cà vào đó. Vợ Tư Chắc ngó vô hầm thấy than, củi, bình dầu hôi và mấy món đồ linh tinh xếp rất thứ tự trong ấy. Bà nhìn vào khoang sinh hoạt, nơi có cái tủ nhỏ xíu và đống mền gối xếp rất gọn. Hai cây chổi lông gà, một lớn, một nhỏ treo cạnh nhau sát vách ghe. Bà miết tay vào ván sàn thấy nó láng mướt, mấy ngón tay không bám đến một hột bụi thì nghĩ thầm:
-Người đàn bà nầy coi bộ vén khéo, kỹ lưỡng lắm đây!
Vợ Ba Rum mời:
-Mình lên cái nhà chòi trên mui ngồi cho mát đi chị!
Rồi kéo tay cho vợ Tư Chắc đu lên, vừa an tọa là lấy chiếc bình trà ủ trong vỏ trái dừa khô ra, rót vào hai cái ly trên khay. Bộ đồ trà và hộp bánh có mặt thường trực ở đây. Bà mở hộp bánh, cầm lên một gói giấy màu trắng có dính những vệt mỡ trong trong. Tháo tấm giấy bìa có in ba chữ " Tân Hiệp Thành" màu đỏ, lấy một cái bánh bía hình tròn, dày chừng hai lóng tay, nhỏ hơn miệng chén một chút, cắt đôi. Lớp vỏ tơi xốp, có đóng dấu tròn màu đỏ bên ngoài rơi ra. Phía trong là phần nhưn màu trắng ngà làm từ đậu xanh, mứt bí, chính giữa có khối tròn màu cam rất đẹp.
Đưa miếng bánh có tròng đỏ hột vịt muối nhiều hơn cho vợ Tư Chắc, bà mời:
-Mời chị ăn một miếng với tui!
Vợ Tư Chắc lắc đầu:
-Mới ăn cơm còn no lắm!
Bà nhét cho bằng được miếng bánh vào tay bạn rồi nói:
-Có nhiều nhỏi gì đâu, ăn cho vui mà!
Vợ Tư Chắc chẳng thể từ chối, cầm để đó, chưa nếm vội.
Vợ Ba Rum lại mời:
-Ăn đi mà!
Vợ Tư Chắc bèn đưa bánh lên cắn một miếng nhỏ. Miếng bánh thơm mùi sầu riêng ấy tan ngay trong miệng, đẩy lời khen trào ra ngoài:
- Chị mua bánh mới ra lò hay sao mà nó còn mềm và thơm quá!
Vợ Ba Rum chụp lấy câu đó mà nói liền:
-Tui mua chỗ quen, họ đưa bánh mới không hà. Để lát nữa tui gửi biếu chị một cây ăn lấy thảo.
Vợ Tư Chắc lắc đầu, chưa kịp mở miệng từ chối thì bị chặn ngang:
-Chị mà không nhận là tui bưng trả mấy trái cà, trái mướp lại hết đó!
Rồi mở cái hộp bằng giấy lấy ra một cây bánh cho vào thúng tức thì.
Vợ Tư Chắc đã ăn xong miếng bánh. Bà ngừng nhai, cầm ly trà lên uống tráng miệng, hắt chút cạn xuống sông, úp ly xuống khay rồi bưng thúng đứng lên cáo lui.
Mấy bụi lục bình núp sau bánh lái, nãy giờ đứng yên hóng chuyện, bỗng buông tay, xoay mình một vòng. Chúng từ từ xếp thành hàng dọc, nối đuôi nhau bập bềnh trên sóng.
Vợ Ba Rum tiễn bạn lên tận nhà xong, ghé lại bàn trà nơi hai người đàn ông đang chuyện trò rôm rả, kề miệng sát tai chồng nói thầm:
-Mình phải đi cho kịp con nước đó ông!
Ba Rum chợt nhớ ra, lật đật đứng lên, vỗ vai Tư Chắc một cái thật mạnh rồi nói:
-Vậy nghen! Bây giờ tui phải đi rồi, để không thôi lỡ con nước, chèo ngược mệt lắm!
Vợ chồng Tư Chắc đưa họ xuống bến, con Trơn cũng đi theo. Ba người đều lộ vẻ bịn rịn.
Ở nông thôn, đất rộng người thưa nên khách lạ đến nhà là cả một sự kiện. Đôi khi gia chủ hãnh diện đến độ mở tiệc đãi đằng bà con lối xóm, để giới thiệu vị khách quý của mình.
Khách khứa mang đến niềm vui, làn gió mới, màu sắc lạ... cho cuộc sống bình lặng của họ. Những câu chuyện nghe từ khách được họ cất giữ như món quà quý, chờ dịp mang ra kể đi, kể lại.
Những nhà khá giả, cái tủ kính đặt một nơi trang trọng ở nhà ngoài, chưng mấy bộ gối thêu và mền mùng mới tinh, được sắm để dùng cho khách. Chiếc chiếu bông gác trên cái kệ cao quá đầu trong buồng, lâu lâu lại được đem hong nắng, tránh mối mọt ẩm mốc, dọn sẵn mình để khách có một giấc ngủ ngon lành.
Cái tủ chén với những hàng tô, dĩa, chén, muỗng... kiểu, đũa mun, sắp ngay hàng thẳng lối cũng được sắm để bày trên mâm cơm đãi khách. Tất cả bọn chúng đều tận lực giúp nâng chất lượng, giá trị của món ăn và đẹp con mắt khách!
Bầy gà, bầy vịt mỗi lần có khách đến nhà là rầu ghê lắm! Chúng biết rằng đây chính là dịp tử biệt hoặc sinh ly, có khi cả hai cùng một lúc. Bởi nếu khách cứ tấm tắc khen cái miếng gà xé phai sao mà ngon quá xá! Thì chắc mẫm rằng khi khách giã từ, trong cái giỏ đệm mà gia chủ trao tận tay, có một hoặc hai con gà bị trói thúc ké, nằm im trong đó!
Khi trong nhà có khách là bầy gà nhớn nhác, lo âu. Đêm đến chúng không dám ngủ yên, xao xác suốt. Sáng ra rải lúa trên sân cho ăn, chúng cũng chẳng dám cắm đầu mổ lia lịa như ngày thường, cứ vừa ăn vừa đưa mắt liếc chừng. Mấy con nhát hích thì đứng thủ thế bên ngoài, chờ đến khi không thấy bóng dáng người mới dám chạy vô ăn mót.
Hủ rượu thuốc ngâm bìm bịp, cắc kè đặt trên đầu tủ, cho dù ngon và bổ cách mấy đi nữa, cũng ít khi được gia chủ mang ra uống một mình.
Gói thuốc rê với tờ giấy quyến nằm yên trong túi áo của ông chủ. Cái dĩa kiểu nhỏ, đựng gói thuốc thơm, (sang thì Ru by, tầm tầm thì con két (A ra) hoặc Bát tô(Bastos), vừa được bà chủ hoặc một trong mấy đứa con chạy vắt giò lên cổ từ tiệm tạp hóa đem về) được đặt ngay ngắn trên cái bàn uống trà để mời khách.