- KẾT -
Gửi dì Tư tụi nó giữ giùm, tuy chị em ruột mà tui cũng đâu yên cái bụng. Kỳ rồi về thấy mặt mũi sưng vù, hỏi ra mới biết đang ngồi trên sàng nước rửa chén cái té cấm đầu xuống đất.
Nói tới đó bỗng bà không cầm lòng nổi nữa, khóc rưng rức. Kéo ống tay áo chậm nước mắt rồi nói tiếp:
-Vái trời phật, ông bà độ cho hai vợ chồng tui mua được căn nhà nhỏ nhỏ ở trên đây, đặng đem nó lên trị cho dứt nọc.
Bà dừng lại lau nước mắt một lần nữa rồi nói:
-Phải hết bịnh thì mới có chồng, có con chớ bị như vậy đâu ai chịu cưới.
Vợ Ba Rum cũng chảy nước mắt ròng ròng, lau ướt cả hai vạt áo, ráng lên tiếng an ủi:
-Thôi chị đừng lo, để tui xúi ông nhà tui hùn tiền vô mua cái nhà nầy cho gia đình chị được sum họp.
Thằng Còi nghe như vậy thì mừng thiếu điều muốn nhảy dựng lên luôn!
Còi, má nó và Út anh vừa đi ra tới ngã ba thì một tiếng mời từ phía sau làm nó giựt mình:
-Đi xích lô hông thím Ba?
Má nó liền quay ngang cái mặt, nhìn người đàn ông lớn tuổi đang ngồi trên chiếc xe có cái yên cao nhồng. Ông ta chừng như là người quen nên nhìn bà cười một cách rất thân mật.
Ổng mặc cái áo thiếu tay và cái quần lở cỡ, không ra ngắn, chẳng ra dài, ngang ngang đầu gối. Hai ống cẳng dài thòng gắn vào hai bàn chưn chè bè. Cái đầu với mái tóc cắt ngắn ngủn được để trần, chưn không mang giày dép gì ráo! Ổng chắc cao dữ lắm nên ngồi trên yên mà chân gần chạm đất. Cỡ nó mà lên ngồi, cho dù nhón hết mức, cũng chưa chắc đụng tới cái bàn đạp nữa là!
Má nó lắc đầu đáp:
-Tui đi chợ gần đây thôi, khỏi ngồi xe.
Thấy gương mặt ông ta tiu nghỉu, bà hỏi như an ủi:
-Sáng tới giờ được mấy cuốc rồi anh Hai?
Ông ta thở dài:
-Mới có hai, kiếm vừa đủ trả tiền mướn xe.
Má nó nghe vậy thì động lòng trắc ẩn. Sau một thoáng suy nghĩ, bà dừng lại nói:
-Anh chở tụi tui ra chợ Bến Thành đi!
Người đàn ông mừng húm, lật đật nhấn gót đạp thật mạnh cho chiếc xe trờ tới để dừng ngay trước mặt cho họ khỏi mắc công bước lùi trở lại.
Ông ta nhảy xuống đất, vói tay lấy cái khăn vắt bên hông xe, đập thật mạnh mấy cái lên tấm nệm vải khiến những hạt bụi bay lả tả trong nắng...
Ổng hạ cho càng xe xuống chạm đất để họ bước lên một cách dễ dàng, bằng cách nâng bánh xe sau chổng ngược rồi gồng mình kềm cho thật chắc.
Bà bước lên trước, ngồi sát một bên rồi tới thằng Út. Còi lên sau cùng, nó ngồi giữa họ, phải đặt cái bàn tọa lên hai cái đùi, một to, một nhỏ.
Còi đã nghe Út anh khen chợ Bến Thành rồi nên rất muốn tới một lần cho biết. Nó hiểu má mình chỉ muốn ghé chỗ mà ban sáng nó đã được má thằng Út dắt theo. Nhờ người đàn ông nầy, nó mới được đi cái chợ nỗi tiếng nhứt miền nam ấy. Nó nhìn ông ta một cách hàm ơn rồi dồn tất cả sự chú ý của mình vào chiếc xe có tên ngồ ngộ là "Xích Lô " đang ngồi.
Khác với chiếc xe lôi ở quê nó. Chiếc xe nầy xài lực đẩy mà không dùng lực kéo. Người chở ngồi tuốt đàng sau chớ không đưa cái lưng, ngoái cái mông cho khách tha hồ ngắm như xe lôi.
Ngoài cái mui được lợp bằng vải ni lông trùm trên đầu, còn có thêm một tấm vải cũng bằng ni lông giắt ngang phía trước để khách dùng che nắng che mưa. Xe chỉ có một băng ghế thôi nên không chở khách hoặc hàng hóa nhiều bằng xe lôi. Cho dù ép như gài mắm cũng chỉ được ba người là cùng.
Còi lần đầu đi xích lô nên háo hức lắm! Thế rồi cái niềm vui ấy tàn lụi nhanh chóng.
Để tránh ánh nắng chiếu ngay vào người, má nó kéo tấm ni lông trước mặt ra che lại. Cả người nó bị bao kín chẳng ngó được gì hết ráo! Chỉ có thể soi thủng cái sàn xe để nhìn qua khe hở mà rồi chỉ thấy cái mặt đường nhựa đen thui, cùng mấy cái ổ gà nho nhỏ mà thôi!
Vì ngồi ở giữa, bị lèn chặt cứng, thở muốn hổng ra hơi nên nó ngộp gần chết! May mà cái chợ cũng ở gần, chừng mấy phút là tới, lâu hơn nữa chắc nó không thể nào chịu nổi.
Nó so sánh cái cảm giác nầy với mấy lần đi xe lôi còn giữ lại trong ký ức rồi hãnh diện vô cùng. Nó kết luận đi xe lôi sướng gấp trăm, gấp ngàn lần! Tha hồ nhìn lên trời và cả bốn phương tám hướng. Cho dù phải kềm chặt thùng xe vì con đường đất ở quê trải đá lởm chởm nhưng rất ư thoải mái. Dân Sài Gòn thua xa dân xóm Cầu Ván ở cái môn nầy.
Nó ước gì bác Hai, ông Bảy ở xóm mình, đem xe lôi lên đây làm ăn thì mấy chiếc xe xích lô nầy bảo đảm hổng ai thèm bước chưn lên mà đi!
Ông Hai cho xe dừng lại trước cái nhà rất rộng có rất nhiều gióng gánh cùng người bán hàng ngồi rải rác khắp bốn phía. Cái nhà nầy không gắn cửa, cũng không vừng vách. Sát trên nóc có một chiếc đồng hồ hình tròn, to bằng cái nia phơi cau. Má nó mở tấm ni lông ra rồi giục:
-Tới rồi, xuống đi con!
Nó không chờ bà nhắc thêm, lật đật phóng xuống đầu tiên rồi tới thằng Út.
Má nó xuống sau cùng. Bà không hỏi giá mà đưa luôn tờ giấy năm đồng cho ông Hai, nói:
-Giữ luôn đi anh hai, khỏi thối.
Chắc hơi nhiều nên ổng cám ơn rối rít, rồi hỏi:
-Thím có về liền hông để tui chờ?
Má nó nói:
-Về chớ, nhưng mà anh coi có ai kêu thì chở người ta trước đi. Tui mua đồ lũ khủ chắc cũng hơi lâu. Sợ anh chờ cái mất thời gian nhiều lắm!
Nó đang ngước mặt nhìn cái đồng hồ chưa kịp coi mấy giờ thì bị nắm tay lôi đi. Bà hối:
-Lẹ đi con, phải nhanh nhanh cái chưn mới kịp.
Chợ Bến Thành lớn gấp cả một chục lần cái chợ ban sáng, gấp hai chục lần cái chợ Tân Phú dưới quê. Hàng hóa thì nhiều đến gấp trăm, gấp ngàn lần lận.
Má nó ghé qua hàng thực phẩm trước. Thấy nó nhìn đăm đăm vào cái kệ bán thịt heo quay, vẻ thèm thuồng lồ lộ trong ánh mắt. Bà liền ghé vào mua một miếng ba rọi mỡ trong veo, da đỏ tươi giòn rụm. Chờ người bán cân xong bà nhờ ông ta chặt nhỏ ra. Ông bán thịt cầm cái dao bảng to, mài sáng giới chặt đều và nhanh không gián đoạn một giây. Động tác của ông ta hết sức thuần thục, nhát nào ra nhát ấy, miếng nào ra miếng nầy, bằng chan nhau, nhìn thiệt là đã con mắt. Chỉ cần thưởng thức cái màn chặt thịt đó thôi, cũng đáng đồng tiền, bát gạo bỏ ra rồi!
Kế đó bà qua cái sạp đối diện mua nửa ký mỡ. Tới ngã ba bà rẽ qua trái để mua bánh hỏi, khóm, giá, dưa leo, rau sống... để ăn kèm.
Bà định đi thẳng, chợt nhớ hôm trước mình có hứa làm món bánh mì tôm, nên tạt vô hàng cá, lựa hơn một chục con tôm bạc thẻ to bằng ngón tay còn tươi roi rói.
Qua hàng củ quả bà mua một cái bắp cải. Người bán cho thêm mấy tép hành, dù có trồng sẵn nhưng bà cũng không từ chối. Rồi bà mua thêm cà rốt, trái su...những món mà miệt ruộng ít trồng.
Đến chỗ bán gia vị bà mua dầu phọng, tiêu, tỏi, muối, đường...Cầm gói bột ngọt một trăm gờ ram lên tay rồi ngần ngừ bỏ xuống. Khi người bán cân và tính tiền xong bà dợm bước đi bỗng đứng sựng lại, bóc cái gói bột ngọt ban nãy lên một cách dứt khoát, hỏi giá, móc tiền ra trả rồi đi tiếp.
Đến hàng quần áo may sẵn bà mua hai cái áo thun ba lỗ, một lớn, một nhỏ cho hai cha con nó.
Đôi dép của thằng Út khôn ghê, lựa đúng cái lúc đi ngang qua chỗ bán giày dép mà giẫm lên cái vỏ chuối, chủ của né té một cái đụi, quai dép đứt một cái bực thế là...
Mấy người bán hàng thấy cảnh đó, không bỏ qua cơ hội, tay ngoắc, miệng mời om sòm. Bà liền ghé vô cái sạp gần nhứt, mua cho hai đứa nó mỗi đứa một đôi làm bằng cao su, giống hệt nhau. Thằng Út xin tấm giấy nhựt trình, gói đôi dép cũ lại xách về cho ba nó lấy dây kẽm nối lại mà xài tiếp!
Trả tiền xong bà chợt nhớ đến con Út em ở nhà. Ngại nó thấy ai cũng có còn mình thì không rồi tủi, nên lựa thêm cho nó một đôi, kiểu con gái có gắn cái bông mai trên quai.
Ngang qua hàng bán thức ăn. Còi liên tưởng đến món chuối chiên mà thằng Út đòi mua ban sáng nên nắm tay bà kéo lại rồi bấm một cái.
Bà ngạc nhiên hỏi:
-Chuyện gì vậy Hên?
Nó nói:
-Con thèm ăn chuối chiên!
Bà lại lật đật kiếm tìm cái món đó, phải ngó tới ngó lui, nhìn ráo riết hồi lâu mới thấy.
Cô gái bán chuối chiên không ngồi trên sạp cao như những người kế bên. Cô ngồi chồm hổm, ghé mông tọa lên cái ghế nhỏ xíu, đóng bằng tấm ván to cỡ nửa miếng gạch tàu kê sát đất. Trước mặt cổ là một cái mâm nhôm đựng chuối đã chiên chín. Phía tay phải của cổ, một cái rề sô được đặt ngay trên nền xi măng. Phía tay trái là một cái thau trộng trộng đựng bột sền sệt, có mấy trái chuối khỏa thân đang bơi lóp ngóp trong đó.
Cái chảo to đựng dầu ngập hơn phân nữa, nằm ngửa trên rề sô đang sôi sùng sục. Mấy miếng chuối bọc bột to bằng bàn tay, vàng rộm, liên tục trồi lên, hụp xuống trong chảo. Những miếng chuối chín đều được vớt ra để vô cái máng bện bằng dây kẽm đặt trên miệng chảo. Những giọt dầu còn bám trên mình chúng lại long tong rơi trở về chảo.
Thấy họ đến, cô gái vẫn không chịu dừng cái bàn tay đang cầm đôi đũa rất dài trở qua, trở lại mấy chuối. Cổ gắp hết chuối trong chảo ra để lên cái máng dây kẽm ấy rồi gát đôi đũa lên miệng chảo. Kế tiếp cổ cầm cái vá nằm trong thau bột hớt từng trái, từng trái chuối cùng một lượng bột vừa phải cho vào chảo. Cổ lột từng trái chuối đã chín mùi ra, ép hơi dẹp rồi bỏ thêm vô thau bột. Từng ấy động tác được cổ làm trong nháy mắt!
Cổ vừa nhìn họ, vừa gật đầu chào, vừa cười, vừa quảng cáo, vừa mời:
-Mua chuối giùm con đi cô, chuối mới vớt ra còn giòn lắm!
Má nó rút một tấm lá chuối kẹp dưới đáy mâm ra rồi xé làm đôi. Bà lựa hai miếng chuối ngon nhứt đang nằm trong máng đặt lên từng tấm lá rồi đưa cho nó và thằng Út mỗi đứa một phần.
Còi vừa thổi vừa cắn từng miếng lớn. Út anh mắc cỡ nên nhơi nhơi từng chút một. Còi thúc cùi chỏ vô hông nó rồi hỏi bằng một giọng bực bội:
-Mầy hổng thèm mà hồi sáng đòi mua làm chi vậy?
Út anh không đáp, chỉ cười trừ.
Ra đến cửa chợ, đúng cái chỗ ban nãy chiếc xích lô ghé vào, bà chưa kịp tìm đã thấy ông Hai đạp xe trờ tới. Ba người họ cũng ngồi đúng y vị trí cũ.
Lượt về nầy thằng Còi còn cảm thấy khổ gấp đôi lượt đi. Mấy cái bọc hàng được đặt hết vào trong lòng nó. Nó phải ngồi im ru như chịu hình phạt, không cục cựa được chút xíu nào!
Câu nói "tới rồi" của ông Hai y như hồi chuông cứu rỗi. Má nó vừa tháo miếng ni lông che ngang mặt xe ra là nó hai tay ôm hai túi, phóng cái ào xuống xe liền.
Trước mắt nó hiện ra một cảnh tượng hết sức ồn ào huyên náo: Hai người đàn bà đang quần thảo dữ dội ở lề đường bên kia. Họ đánh nhau trông rất ác liêt! Mái tóc dài của cả hai đều rối tung và bị đối phương ngoái chặt giữ rịt trong tay. Họ nghiến răng lại mà ghì cho chặc, chẳng ai chịu buông ra.
Nó thấy những người xung quanh đều đứng xem mà không ai nhảy vô can thì bất mãn hỏi:
-Sao hổng ai can vậy má?
Má nó thở dài:
-Dân Cầu Muối dữ có tiếng, nên ít ai dám đụng vào.
Bà nói tiếp:
-Đúng là người ở chợ, mạnh ai nấy sống, chuyện như vậy mà thò lõ mắt nhìn, chắc còn cầu cho họ đánh nhau cho tới chết đặng nhìn cho đã!
Ông Hai nghe má nó nói vậy, hay tự ông cảm thấy bất nhẫn, liền chạy vội qua can. Một người đàn bà, dáng vóc lực lưỡng thấy ông sắp xông vô bèn nói:
-Ông là đàn ông, coi chừng đụng tay, đụng chưn bị họ vu vạ, thôi để tui can cho.
Hai đối thủ đã mệt nhoài. Người phụ nữ ấy ung dung chen vào, tháo tay người nầy khỏi tóc người kia rồi tách họ ra một cách khá dễ dàng.
Ông Hai quay người lại, leo lên xe đạp đi. Má nó kêu lại:
-Anh hai?
Ổng kéo cái thắng tay gắn ngay dưới yên xe, chiếc xe đứng sửng cả ba cái bánh một lượt. Ổng quay đầu lại hỏi má nó, giọng hết sức ngạc nhiên:
-Bộ đi đâu nữa hả thím?
Má nó cười:
-Tui chưa trả tiền xe.
Ổng cãi:
-In là thím đưa rồi mà!
Má nó lắc đầu:
-Đâu mà có!
Ổng chưa chịu tin, móc túi lấy tiền trong túi ra đếm lại rồi mới chịu cầm.
Đám người đứng xem đánh lộn vẫn chưa chịu bỏ đi. Họ bàn tán râm ran, chê bai đủ thứ. Có người còn không thèm che giấu vẻ thất vọng vì cuộc chiến bị dừng lại giữa cao trào.
Đây là một trong những tính cách của một số người sinh sống ở Sài Gòn, nhất là những nơi quy tụ những anh chị giang hồ tứ chiến như bến tàu, bến xe.
Ở xóm Cầu Ván người lớn chẳng bao giờ đánh nhau. Tụi con nít tuy cự lộn hà rầm nhưng ít khi nào đấm đá. Hể tụi nó sắp xáp lá cà là có một đứa đứng chen vào giữa, dang thẳng hai cánh tay ra mà nói "xin can hai đàng hửi địch. Đàng ăn trứng vịt, đàng ăn trứng gà...", nghe tới đó là mấy đứa đứng xem cười rũ rượi. Những nụ cười đó như cây kim chích vô cái tự ái đang phình to của hai đối thủ. Tụi nó xìu xuống rồi hạ tay, lui chưn... ai về nhà nấy hoặc ở lại rồi cùng chơi tiếp.
Họ đang đứng tần ngần thì con Út em không biết từ đâu kêu to:
-Anh Út!
Út anh nhìn về hướng phát ra tiếng gọi, vừa thấy cái bàn tay vói lên ngoắc ngoắc thì chạy vội đến đưa cái miếng chuối chiên mới ăn được một phần ba ra:
-Ngon lắm, ăn đi.
Bây giờ Còi mới hiểu ra, Út anh ăn lai rai không phải vì hết thèm, chỉ vì nó rất thương con Út em nên ăn cái gì, làm cái gì cũng nghĩ đến em mình trước nhứt.
Má nó cũng tiện tay cầm đôi dép có gắn cái bông đang nằm trên cùng trao cho Út em, bà nói:
-Thím cho con nè, cầm đi!
Con bé như không tin vào mắt, vào tai minh. Nó không dám nhận mà hỏi lại:
-Thím cho con sao?
Má nó gật đầu rồi dúi vào tay Út em luôn.
Hai má con vừa bước xuống ghe là nghe ba nó cự liền:
-Bà mua cái giống gì mà tới mấy tiếng đồng hồ vậy?
Má nó cười cầu tài:
-Dẫn thằng Hên đi chợ cho biết!
Ba nó gắt:
-Bộ hồi sáng nó đi chưa đã sao?
Bà vẫn cười mà đáp:
-Hồi sáng nó mới biết cái chợ Cầu Muối. Cái chợ nầy toàn là mấy cái vựa bán sĩ không hà, có cái gì đâu mà coi, thấy người, xe ì xèo chớ...
Ba nó ngắt ngang:
-Vậy bà dắt nó đi chợ gì
Bà đáp cái rụp:
-Chợ Bến Thành.
Ba nó thở ra:
-Hèn gì tui đi kiếm cùng cái chỗ nầy mà hổng thấy!
Rồi ông giải thích:
-Ông Bảy ổng hối như giặc. Cả đoàn ghe người ta chờ có một mình mình. Tui lo gần chết! Rủi mà huốt cái chuyến nầy là phải đợi thêm một ngày nữa lận.
Bà vừa vào ghe xong, ông liền rút cây đòn dày, gát lên mui, tháo dây, nhổ sào rồi chống ra xa.
Thằng Còi đứng trên mui ghe mình. Anh em thằng Út cũng đứng trên mui ghe của chúng. Tụi nó cùng nhìn nhau cho đến khi hai chiếc ghe xa dần rồi mất hút.
Bữa cơm chiều hôm ấy vô cùng thịnh soạn. Ngoài bánh hỏi thịt quay, bánh mì tôm bọc bột chiên, bà còn nấu thêm cơm canh để cúng ghe, cúng sông nước, ông bà.
Sau mỗi chuyến hàng cho dù lời hay lỗ, dân thương hồ đều dọn một mâm cơm, bưng ra đặt trước mũi ghe để cúng. Họ tin tưởng rằng, luôn có những lực lượng thiêng liêng yểm trợ cho chuyện làm ăn của mình được xuôi chèo mát mái. Điều nầy giúp tinh thần họ thêm phấn chấn.
Cái buồn chia tay thằng Út bị mùi khói từ mấy cái nồi, cái chảo trên hai cái cà ràng, tạm thời đánh văng xa lắc. Còi ngồi sát bên bếp xem má nó làm thức ăn mà nuốt nước miếng từng chập. Thỉnh thoảng bà nhờ nó đưa cho mình chai dầu, lọ tiêu, hủ đường...Nó làm răng rắc, một cách hết sức nhiệt tình.
Để nó vui, khi nấu xong món gì bà cũng kêu lại cho nếm ké một miếng, rồi hỏi:
-Ngon hông?
Nó gật thiếu điều gãy cổ:
-Ngon, ngon!
Bà bắt nồi canh ra khỏi bếp- đó là món nấu sau cùng- để đặt ấm nước lên, rồi sai nó lau mâm, dọn chén. Bà bới ba chén cơm sắp thành một hàng, gác ba đôi đũa ngang miệng, rồi múc thức ăn ra tô, ra dĩa. Cái mâm đường kính gần sáu, bảy tấc, vậy mà đựng không hết. Bà phải trải thêm tấm ni lông ra phía trước mâm, bày lên đó cho đủ.
Ba nó cúng trước tiên. Ông đi rửa mặt, thay đồ sạch sẽ rồi mới ra trước mũi ghe, nhận ba cây nhang do bà đốt sẵn đưa cho. Đặt ba cây nhang vào hai bàn tay chấp lại, đưa ngang trán, ông khấn rất to:
-Nam mô a di đà phật. Con tên Nguyễn văn Rum, bốn mươi bốn tuổi, quê quán ở Lấp Vò. Hôm nay kỉnh mâm cơm nầy để tạ ơn, trời phật, thần thánh, ông bà đã phù hộ cho con mua may, bán đắt. Xin thỉnh chư vị cùng về thọ hưởng, chứng nhận cho tấm lòng thành của con. Nam mô a di đà phật.
Kế tiếp là má nó. Bà cũng làm y như ba nó, trong lúc ông cúng bà lo thay đồ vuốt tóc lại cho gọn gàng. Đốt ba cây nhang khác nhưng đưa cao quá trán và khấn nhỏ hơn ông một chút. Nó ráng lắng tai nên nghe không sót một tiếng nào. Bà cũng khấn y như ông, có điều cám ơn thêm về việc vớt được nó. Bà cũng xin các vị ấy phù hộ cho nó mạnh khỏe, dễ sai, dễ dạy, biết nghe lời, biết thương hai vợ chồng bà như cha mẹ ruột. Về phần mình bà cũng hứa, coi nó như đứa con từ trong bụng mình chui ra.
Tuy trông bà cúng cho lẹ đặng được ăn, nhưng nghe vậy nó cũng rất cảm động. Nên dù bà khấn lâu gấp đôi ông nó cũng không dám trách!
Tưởng tới đó là xong, nào ngờ bà còn đốt thêm ba cây nhang đưa cho nó rồi nói:
-Con cúng đi!
Nó hỏi:
-Vái cái gì hả má?
Má nó nói:
-Con thích cái gì thì xin, thương ai thì nhờ phù hộ giùm người đó. Con phải hứa sau nầy ráng học cho thiệt giỏi đặng đi làm việc để có tiền mà trả lễ đàng hoàng.
Còi bèn đưa ba cây nhang lên trán. Nó không dám khấn lớn sợ bà nghe, chỉ lâm râm trong miệng:
-Xin trời phật, ông bà phù hộ cho con Mén thành tiên, hay là đi đầu thai làm con nhà giàu có để nó đừng có giận con nữa. Phù hộ cho ba má ruột con mạnh khỏe, làm lúa trúng mùa. Phù hộ cho con Đèo, con Đẹt học giỏi, được ăn nhiều món ngon, có nhiều quần áo đẹp. Phù hộ cho ba má nuôi của con cũng thiệt là mạnh giỏi, bán dừa chuyến nào cũng lời thiệt là nhiều.
Rồi nó đưa nhang cho bà cắm giùm. Bà vừa làm vừa hỏi ghẹo:
-Con vái cái gì? Nói cho má nghe có được hông?
Nó đỏ mặt vì mắc cỡ:
-Con vái cho ba má mạnh khỏe, mua may bán đắt.
Bà nhắc:
-Con có xin cho mình học giỏi để mai mốt làm quan hông?
Nó lắc đầu, bà giục:
-Nhang còn cháy, con vô vái thêm đi. Mình phải xin cho mình trước tiên, rồi mới xin cho người khác chớ!
Nó lại chấp tay lên trán, khấn bổ xung.
Lúc ăn cơm, khi đỡ cái chén không ông đưa ra nhờ bới, bà chợt phát hiện chiếc cà rá bằng vàng y nặng một chỉ, ông đeo trên ngón tay áp út đã biến mất.
Bà hỏi thất thanh:
-Chiếc cà rá của ông đâu rồi?
Ba nó cười:
-Tui đặt cọc nhà rồi.
Bà chới với:
-Trời đất! Ông làm cái gì mà lẹ dữ vậy? Mua nhà chớ đâu có phải mua tôm mua cá hay sao mà làm một cái rột vậy? Cũng phải bàn đi tính lại chớ!
Ông gắt:
-Tui biết, tui biết...Tại anh Năm ảnh thích quá! Tụi tui ngồi một chút thì thấy có hai vợ chồng khác tới xem nhà nữa. Coi bộ họ chịu lắm! Anh Năm thấy họ vừa nói chuyện, vừa chỉ trỏ vừa gật đầu với nhau từng chập, ảnh đâm lo nên bức râu hoài. Thấy vậy nên tui liền đồng ý. Phải đặt cọc để họ tin chắc rằng mình đã chịu mua, không bán cho ai mà giữ lại cho mình. Nhờ vậy mà anh Năm ảnh yên tâm, để hai bàn tay ở không với cái bộ râu nằm yên. Chớ hông thôi trong bụng ảnh cứ phập phồng, lo họ bán cho người khác rồi ăn không ngon, ngủ không yên, chắc hàm râu trụi lủi.
Bà hỏi:
-Sao lúc trước ông tính mua đất gần vợ chồng Tư Chắc?
Ông gãi đầu:
-Nói thiệt với bà, tui ưa về quê hơn làm ruộng hơn. Mua cái nhà nầy cũng giống như đi chùa làm phước.
Bà ngạc nhiên:
-Ông nói cái gì mà nghe ngộ quá vậy?
Ông giải thích:
-Anh Năm ảnh muốn sống ở Sài gòn dữ lắm! Để trị bịnh cho đứa con gái lớn. Mình mà hổng nhúng tay vô, một mình ảnh mua không có nổi. Mình muốn giúp ai là phải làm liền, hể tính tới tính lui là tiếc tiền rồi dội ngược. Bởi vậy tui mới phải quyết định gấp rút. Tại bà hổng có ở đó. Bà mà tận mắt chứng kiến cái cảnh ảnh mừng như chết đi sống lại, thì không có tiếc chút nào cái đồng tiền mình bỏ ra đâu!
Bà gật đầu:
-Hồi sáng tui có nói chuyện với chị Năm. Chỉ vừa nói mà vừa khóc nên tui cũng tính xúi ông hùn vô để giúp gia đình họ. Cái nhà đó ra làm sao hả ông?
Ông nhăn trán như cố gắng vẻ lại toàn bộ căn nhà trong đầu, rồi nói:
-Nó có mái tôn, tường gạch, nền tráng xi măng hẳn hoi. Bề ngang được chín bước chưn, bề dài mười chín bước. Phía trước có cái sân nhỏ nhỏ để phơi đồ.
-Ông nhắm ở đó có làm ăn buôn bán gì được hông?
Ông gật đầu:
-Ở ngã ba gần đó có cái chợ chồm hổm. Bà với chị Năm nấu chè, nấu cháo đem ra đó bán chắc được.
Vậy là cái mơ ước ở gần Út anh của Còi đã được toại nguyện. Đáng lẽ phải thật vui nhưng không hiểu sao nó nghe lòng tràn ngập một nỗi buồn. Phải đến mấy ngày sau nó mới biết vì đâu mà mình buồn đến vậy.
Hôm ấy khi đi qua con sông rộng má nó chỉ vào cái xoáy nước xa xa mà nói:
-Đó là cái chỗ mà ba má vớt được con đó!
Nhìn theo tay bà, nó thấy cái xoáy nước đó y như họng của cái cối xay bột thiệt lớn. Ai rủi rơi vô chắc bị hút chìm sát đáy. Nó rùng mình một cái, chợt nghĩ chắc chỗ nầy đi lên nữa là dám tới xóm mình lắm. Nó bỗng nghe tim đập đùi đụi trong ngực, tay chưn bủn rủn như bị ai rút hết mấy sợi gân đem bỏ.
Kể từ lúc đó nó không dám ngồi trên mui giúp bà cầm lái mà chui xuống khoang, ngồi nép bên khung cửa sổ, đưa chỉ một con mắt ra mà nhìn chầm chập vào bờ.
Bữa cơm trưa đó ăn món gì? Nếu có ai hỏi chắc nó cũng không biết cho dù mới vừa buông đũa.
Bà để ý thấy gương mặt nó rất không bình thường, khi thì nhớn nhác lúc lại lừ đừ. Cứ lùa cơm vô miệng mà quên gắp thức ăn thì lo ghê lắm!
Ăn cơm xong nó vâng lời bà nằm xuống, ráng nhắm khít rịt hai con mắt mà chẳng thể nào ngủ được. Lại phải choàng dậy rồi ngồi y như lúc trước.
Thế rồi cây sung, cây dừa quen thuộc bỗng từ từ hiện ra trước mặt. Nó muốn nhìn chúng rõ hơn nhưng lại thụt sâu vào khoang thêm một chút.
Giờ nầy là trận tắm buổi chiều, cái bến trước đây luôn ì xèo bởi hầu hết mấy đứa con trai trong xóm đều quy tụ lại đây để tắm, để thi nhảy từ cây sung xuống coi đứa nào làm nước văng nhiều. Vậy mà bây giờ vắng ngắt! Trên cây sung chẳng thấy có đứa nào ngồi hay đánh đu rồi buông tay cho rơi tỏm xuống.
Căn nhà của cô Út Đẹp cũng mất tiêu mất biệt. Thay vào đó, dưới gốc sung, xuất hiện cái miễu làm bằng lá nhỏ xíu, ngó mặt ra bờ sông. Trước mặt miễu là cái lư hương có mấy cọng chưn nhang và một cây nhang đang tỏa khói.
Nếu không nhận ra căn nhà lá, cái sân trống trải không có hàng rào, cùng cái bàn thông thiên làm bằng cây gòn xanh um lá. Không nhìn thấy con xe, con pháo đang nằm nhai rơm trong chuồng bò sát bờ sông, chắc nó nghi rằng đây không phải là cái xóm Cầu Ván của mình.
Thế rồi chiếc ghe chầm chậm đi ngang qua căn nhà của nó. Bất giác nó chồm đầu ra để nhìn. Một người phụ nữ ốm nhom, đội cái khăn sọc rằn trắng đen quen thuộc. Bà đang bưng thau đồ từ bờ sông đi lên.
Miệng nó lắp bắp không ra tiếng:
-Má, má...
Người phụ nữ ấy, má ruột của nó, đặt thau đồ lên đống củi đang phơi gần đó. Bà cầm cái áo lên giũ mấy cái rồi buông một tay ra. Bà đặt bàn tay ấy lên ngang trán che mắt, nhìn đăm đăm vào chiếc ghe đang đi sát bờ. Bà đứng hầu như bất động với cái tư thế như chào, như đón. Bà cứ đứng mãi, đứng mãi cho đến khi cả cái thân hình gầy guộc ấy, hoàn toàn ra khỏi tầm nhìn của nó.
Ông trời như đang vói tay xuống để đặt một tảng đá lên ngực của thằng Còi mà dằn xuống. Thân hình nó vẫn bất động, không nhúc nhích, không xê dịch cho dù chỉ một mi li mét, cho dù nó rất muốn bay vèo qua cái khoảng cách chừng hơn chục thước đó, để ôm chầm lấy má ruột của mình!
Cái gì đã ngăn cản nó? Chính cái mặc cảm có tội, chính cái nỗi khiếp sợ phải đối mặt với cái tai họa mà mình trót gây ra đã khiến nó ngồi như bị đóng đinh dính khắng. Để rồi kể từ lúc ấy cho đến suốt đời nó phải chịu sự dày vò. Suốt đời làm kẻ tha hương. Suốt đời làm đứa con tội lỗi tày trời...
Nó không dám cắn vỡ cái lớp vỏ đắng chát của trái măng cụt, nên chẳng bao giờ được nếm mùi vị ngon lành bên trong. Nó không có can đảm đền tội nên chẳng bao giờ có được cái cảm giác nhẹ nhỏm của sự giải thoát. Nó quá nhút nhát mà lại khao khát đi ngược lại bản chất, để rồi vô tình làm thay đổi hướng đi của dòng đời mình.
Mãi về sau, cái hình ảnh má nó lấy tay che mắt nhìn theo chiếc ghe cứ ám ảnh nó hoài. Khi thì chúng xuất hiện trong giấc mơ nhưng với một phiên bản khác. Khi thì đang đi, nó bỗng nghe văng vẳng bên tai giọng nói thân yêu ngày xưa đang gọi " Còi ơi!". Khi thì trong làn gió nó bỗng bắt gặp một mùi thơm quen thuộc...
Một lần trong lúc mơ màng nửa thức, nửa ngủ. Nó bỗng cảm nhận gương mặt má mình đang kề sát một bên, tay bưng chén thuốc y như lúc nó đang bị phỏng. Bà nói:
-Nằm sắp lại để má bôi cái nầy vô cho nó mau lên da non đi con!
Đó là chuyến đi đầu tiên và cuối cùng của thằng Còi. Sau hôm đó nó bị bệnh, được đưa vào nhà thương tỉnh, rồi chuyển xuống Sài gòn. Khi hết bịnh nó không trở lại ghe mà về ở trong ngôi nhà mới.
Trong suốt thời gian nó bịnh, má nuôi luôn túc trực và chăm sóc hết lòng. Nó xuất viện với mái tóc lưa thưa thì má nuôi nó liền xuống tóc trả lễ. Hai má con cùng mang hai cái đầu trọc lóc. Ba nuôi nó không cạo đầu nhưng cũng ăn chay theo vợ một tháng.
Bây giờ ba nó không còn đi ghe nữa. Ông sắm chiếc Hon đa rồi làm nghề chạy xe ôm. Má nó và má thằng út anh mở quán ăn tại nhà, sáng bán cơm tấm, trưa và chiều bán cơm bình dân, nhờ nấu ngon và rẻ nên khách ngày một đông.
Tình thân của hai nhà ngày một khắng khít. Ba Rum và Năm già gọi nhau bằng anh sui, nhưng hai bà vợ thì không, mấy bà mẹ đều coi con mình là số một, chẳng ai sánh bằng.
Còi biết ba má nuôi lấy sự học của nó làm niềm hãnh diện, nên báo hiếu bằng cách học thật giỏi để họ vui. Mỗi năm trên vách nhà nó lại có một cái hình chụp nó lãnh thưởng được treo lên theo thứ tự.
Lúc nó đậu tú tài đôi, má nó đi coi thầy rồi bảo:
-Cái lá số tử vi nầy nói con có tay phục dược, làm nghề khác là không có được.
Nó nghe vậy là biết ngay đó là nguyện vọng của má mình. Nó thi đậu cái ót vào trường y, lần nầy cả hai vợ chồng Ba Rum lại ăn chay một tháng.
Năm thứ nhì học y, nó gặp một cô bạn, không hiểu sao ngay cái nhìn đầu tiên nó đã có cảm tình. Dù xuất thân trong gia đình giàu có nhưng Lan, cô gái mà nó thích, trông rất bình dị, không hề kênh kiệu như mấy cô gái học trường tây khác.
Để chiếm cảm tình của nàng, Còi ta phải nổ lực gấp đôi, gấp ba ngày xưa, nó nổi tiếng khắp trường nhờ tài học và cái tính hiền lành, thích giúp đỡ người khác.
Tết năm ấy, Lan, giờ đã trở thành người yêu, rủ nó:
-Anh về quê ăn tết với gia đình em đi!
Nó hỏi:
-Quê em ở đâu?
Lan đáp:
-Tân châu!
Tim nó bỗng nhảy vọt lên đến tận cổ, nó hỏi:
-Tân châu Tây ninh hay Tân châu An giang?
-Tân châu Ang giang!
Không chờ hỏi qua ý kiến ba má nuôi nó gật đầu cái rụp.
Bắt đầu từ hôm đó, thời gian bỗng như sợ dây thun luồn quần, mỗi ngày một dãn. Nó thức, ngủ, ăn, học, đi chơi chỉ bằng một nửa tâm trí, một nữa kia hướng về hình ảnh của người phụ nữ che mắt nhìn theo chiếc ghe ngày nào.
Mùng một tết, có một đôi thanh niên nam nữ, ghé vào căn nhà ở đầu con mương để hỏi thăm coi đây có phải là nhà của thằng Còi hay không.
Một cô gái mà thoạt nhìn là Còi nhận ra là con Đẹt, em của nó, nhìn hai đứa đăm đăm rồi hỏi:
-Bộ anh với chị đi kiếm cậu Còi để xin có con hả?
Nó ngớ ra nhưng rồi cũng gật đầu.
Cô gái chỉ tay xuống sông rồi nói:
-Nhà của Cậu Còi ở dưới bến sông chớ hổng phải ở đây.
Còi ngạc nhiên quá! Tại sao con Đẹt lại kêu nó bằng cậu, tại sao nhà nó lại ở dưới bờ sông? Nó nhìn theo hướng ngón tay trỏ của con Đẹt, nhận ra đó là một cái miễu khá to!
Nó hiểu ra liền, thì ra nó đã bị khai tử và được khoác lên người một cái áo linh thiêng. Một người phụ nữ đang ngồi cạnh miễu, mặt hướng về con sông lưng quay về hướng nó, thế nhưng có một tiếng nói trong sâu thẫm tâm hồn báo cho nó biết đó chính là má nó.
Nó chạy nhanh cũng y như ngày xưa chạy trốn, đến sau lưng bà và gọi thật to:
-MÁ!
HẾT