← Quay lại trang sách

Chương 13 TUYỆT VỌNG- -

Vào mùa xuân năm 1389, Colombo còn ở Castiglia. Bị nhụt chí, ông bắt đầu nghĩ đến việc đi sang Pháp. Một lần nữa, ông đã thố lộ tâm sự mình cho Cha Marchena và cha đã khuyên ông không nên đi nơi khác và nói ông nên tìm cách yết kiến công tước có thế lực ở Medina Sidonia (nước Tây Ban Nha). Ngài Enrico đi Guzman người của một trong những đại gia của Tây Ban Nha. Giàu có và đầy quyền lực. Las Casas còn nói rằng thời đó ở toàn bộ Tây Ban Nha không có ai giàu hơn ông ta. Nhưng Colombo không được gì từ công tước này!

Colombo lại quay sang một vị công tước khác: Don Luis de la Cerda Medinaceli sống tại Puerto Santa Maria. Medinaceli đã hỏi tỉ mỉ về kế hoạch của Colombo và đã suy nghĩ về kế hoạch đó như Las Casas nói cho chúng ta biết:

Medinaceli có cảm tình với sự thận trọng và lương tri của Colombo; ông đã xem xét cuộc đi biển một cách tích cực. Medinaccli coi mọi chi phí cần thiết là không thành vấn đề, nhất là khi Colombo đòi hỏi rất ít cho bản thân mình. Những ngày đó, Medinaceli biết Colombo có ít phương tiện chi tiêu thông thường, ông đã ra lệnh cung cấp mọi thứ mà Colombo cần.

Công tước bị thuyết phục bởi những lập luận Colombo đưa ra và đã hiểu tầm quan trọng và giá trị kinh tế, nếu không phải sự quang vinh, của sự nghiệp do Colombo đề nghị. Với sự rộng lượng và cởi mở, công tước đã quyết định không thảo luận nữa về vấn đề liệu sự nghiệp đó có thành công hay không, tựa như ông đang đề cập đến một vấn đề chắc chắn Ông đã ra lệnh cấp cho Colombo mọi thứ, lên tới ba hoặc bốn nghìn duca để ông có được ba tàu hoặc thuyền buồm, đồ tiếp tế cho hơn một năm, các thủy thủ và mọi thứ cần thiết, bảo đảm tàu được làm trong xưởng đóng tàu cảng Santa Maria và việc làm tàu sẽ không gián đoạn cho tới khi hoàn thành.

Tuy nhiên để có giấy phép chính thức, công tước đã kiến nghị Vua và Hoàng hậu ủng hộ

và giúp đỡ ông, với nguồn tài chính của bản thân ông và gia đình ông cho con người đã đưa ra mọi chỉ dẫn rằng người đó có thể phát hiện ra những thứ tuyệt vời và nguồn của cải Iớn.

Nhưng Hoàng hậu Isabella lại nghĩ khác. Một sự nghiệp như thế, nếu được thực hiện thì phải là mối quan tâm của Nhà Vua và chỉ Nhà Vua mà thôi: Bản thân Hoàng hậu sẽ chịu trách nhiệm- Las Casas cho biết thêm - và Hội đồng Hoàng gia sẽ phải thu xếp mọi chi phí cần thiết.

Như vậy, ngay cả những ý định tốt của công tước Medinaceli cũng không thể ảnh hưởng đến kế hoạch, những ý định ấy đã có một kết quả quan trọng: Hoàng hậu Isabella thiết lập lại việc tiếp xúc với Colombo. Bà đã gửi một bức thư lịch sự mời ông đến triều đình ngay lập tức. Isabella đã tiếp Colombo tại Jaén. Đó là vào mùa hè năm 1489 Hoàng hậu tiếp một mình, vì Vua Ferdinando đang tham gia việc bao vây Baza. Trong cuộc nói chuyện Hoàng hậu đã bày tỏ hy vọng tích cực là khi ‘‘sự kiện Granada’’ được giải quyết thì vấn đề này sẽ được giải quyết. Colombo lại phải kiên nhẫn chờ đợi cho đến khi kết thúc thành công chiến dịch Baza. Với chiến dịch này, Vua và Hoàng hậu hy vọng chấm dứt cuộc Thập Tự Chinh nhiều thế kỷ chống những người Hồi giáo. Trong thời gian đó Colombo có thể sống tại triều đình.

Colombo cảm thấy an tâm. Ông đã có lời hứa của Hoàng hậu. Ông tháp tùng Hoàng hậu và triều đinh tới chiến trường Baza. Đúng 27 ngày sau khi Hoàng hậu đến chiến trường, pháo đài chinh của người Moor đã thất thủ.

Ngày 4 tháng 12 là ngày lễ Thánh Barbara. Những sự kiện nối tiếp dồn dập, Ngày 22 tháng 12, Vua và Hoàng hậu theo Công giáo đã vào Almeria và ngày 30 tháng 12 họ vào Guadix. Cuộc chiến tranh hình như đã kết thúc. Sự thật là Vua Hồi giáo Boabdil vẫn ở Granada, nhưng theo một hiệp ước ký năm 1487 ông ta là chư hầu của của Vua và Hoàng hậu Tây Ban Nha. Họ phải trao thủ đô Vương quốc Hồi giáo càng sớm càng tốt khi hoàn cảnh cho phép. Bây giờ đã đến lúc đối thủ đáng ghét của ông vua Tây Ban Nha là vua Guadix phải biến khỏi chính trường, vĩnh viễn.

Hoàng hậu đã cho Colombo "hy vọng chắc chắn” rằng bà ta sẽ xem xét lại kế hoạch của ông ngay khi cuộc chiến tranh kết thúc. Bây giờ là lúc quyết định. Nhưng một lần nữa những hy vọng của ông bị tan vỡ. Cuộc chiến tranh không hoàn toàn kết thúc. ‘‘Những người Moor trả lời rằng họ không thể thực hiện những điều họ đã hứa’’. Các nhà sử học đã tường thuật một cách vắn tắt như vậy. Tiếp theo là cuộc trao đổi những đại sứ và những bức điện giữa Ferdinando và Boabdil, kết quả là cuộc chiến tranh để chinh phục dứt khoát Granada lại nổ ra.

Tháng kéo dài thành năm và mãi đến ngày 2 tháng Giêng năm 1492, khi cuộc đầu hàng của Granada kết thúc cuộc chiến tranh và hủy bỏ những tàn dư cuối cùng của quyền lực Moor trên bán đảo Iberia, lời hứa tháng 7-1489 mới được thực hiện. Trong thời gian đó, Colombo lúc là khách của công tước Medinaceli, lúc là khách của Quintanilla lúc là khách của những người Francesci ở Rábida, đã thay đổi từ hy vọng đến thất vọng, rồi lại từ thất vọng đến hy vọng. Công tước chủ quản ngân khố, Cha Deza và Cha Marchena, tất cả đều khuyên Colombo nên kiên nhẫn, nhưng Colombo đã chán ngấy; sự tuyệt vọng đã khống chế ông. Ý nghĩ bỏ Tây Ban Nha đi để thử vận may tại nước Pháp luôn ở trong tâm trí ông.

Tại La Rábida, nơi ông đến lần thứ hai vào mùa thu năm 1491, Colombo đã gặp Cha Juan Pérez, thông qua Cha Marchena. Sau này Colombo thường nói hai vị tu sĩ này là những người duy nhất luôn luôn trung thành với ông, không bao giờ ngừng ủng hộ ông. Cha Pérez là người làm lễ giải tội cho Hoàng hậu. Ông đã cưỡi lừa đi từ Palos đến triều đình. Hoàng hậu nói với cha Juan Pérez rằng: bà không quên người thủy thủ nước ngoài và gởi cho Colombo hai mươi nghìn Maravedis, kèm theo một chiếu thư gọi Colombo đến. Như thế, một lần nữa Colombo đến triều đình, và một lần nữa ông ta đi cùng một người thuộc dòng tu Francesco lần này là Cha Péfez. Đó là tháng 12 năm 1491. Triều đình khi đó đóng ở Santa Fe. Cuộc chiến tranh gần kết thúc

Ngày 2 tháng Giêng năm 1392, Colombo cùng với Vua và Hoàng hậu đi vào Granada. Colombo viết trong lời giới thiệu cuốn Nhật ký của ông: Tôi trông thấy những lá cờ của Hoàng gia bay trên những tháp của Alhambra và tôi đã trông thấy vua Moor đi ra ngoài cổng thành, hôn tay bệ hạ và hoàng tử. ‘‘Cuộc chiến tranh kết thúc. Người Hồi giáo cuối cùng rời khỏi Tây Ban Nha, chấm dứt vương quốc Moor trên bán đảo Iberia, được thành lập từ năm 711 tại Jerez de la Frontera, kết thúc năm 1492 tại Granada. Gần chín thế kỷ!

Hoàng hậu Isabella chưa bao giờ quên dự án của Colombo. Bà hiểu và kính trọng ông. Bà đã triệu tập một Hội đồng đặc biệt để có một kiến nghị dứt khoát. Hội đồng gồm có ba Tổng giám mục, mười bốn Giám mục, hai trưởng dòng tu, chín công tước bốn hầu tuớc, mười bá tuớc, cùng nhiều nhà triết học, thiên văn học và vũ trụ học. Tại những cuộc họp trước ở Salamanca và Córdoba, mọi người đã nhất trí bác bỏ dự án; tất cả đã nói đề nghị của Colombo là không thể thực hiện được. Trái lại trong dịp này, ‘‘ý kiến đã phân tán’’. Đức ông Geraldini ở Amelia Umbria đã cho chúng ta biết thông tin quan trọng đó; ông là nhân chứng đã có mặt tại tất cả các cuộc thảo luận bàn bạc.

Tại Santa Fe, có thể Hồng y giáo chủ Mendoza đã bảo vệ sự nghiên cứu của vị Đô đốc tương lai; chắc chắn Geraldini cũng đã bảo vệ Colombo kể cả thông qua người anh nay đã quá cố, nhưng đã từng giúp đỡ Colombo tại Seviglia. Las Casas nói có thể một số học giả cũng đã ủng hộ Colombo. Họ hành động một cách dè dặt, vì đa số trong Hội đồng vẫn phản đối. Những người trong triều đình, bè bạn của Colombo, cùng đã ủng hộ kế hoạch của ông một cách nhiệt tình. Tuy nhiên đại đa số vẫn chống lại dự án.

Đối diện tình thế đó, Cha Fernando de Talavera, chủ tịch Hội đồng đặc biệt Santa Fe, đồng thời là linh mục nhận lễ xưng tội của Hoàng hậu Isabella có thể làm gì khi ông ta chỉ có thể khuyên Hoàng hậu không nên bảo trợ một sự nghiệp mà theo sự xem xét của những nhà thông thái trong Vương quốc, có vẻ không đạt được. Không những thế người nước ngoài khinh suất này còn đòi những danh vọng và chức tước cao nhất, ngoài những phần thường về kinh tế đáng kể: chức Đô đốc và Phó vương vĩnh viễn, cho đến lúc đó chỉ mới ban cho ngài Alfonso Enriquez, chú của vua Ferdinando. Xét điểm cuối này, người ta có thể hiểu bầu không khí trong Hội đồng như thế nào, và điều đó đã không cho phép cha Talavera can thiệp với Vua và Hoàng hậu để giúp Colombo.

Sau thất bại dứt khoát này. Colombo từ biệt bạn bè, cảm ơn tất cả sự quan tâm và giúp đỡ mà họ đã dành cho ông trong suốt những năm ông đã ở trong triều đình và chuẩn bị rời nhóm người ủng hộ để đi Córdoba. Colombo sẽ đi một nơi nào khác để theo đuổi kế hoạch lớn của ông. Nhưng đi đâu? Không sang Bồ Đào Nha, hoặc nước Anh. Ông đã giao nhiệm vụ cho người anh của ông là Bartolomeo, đưa trình bày lần cuối cùng lên nhà vua Bồ Đào Nha và sau đó đi Luân Đôn, đề nghị việc đảm nhận công việc thám hiểm. Mười ba năm trước đây Colombo đã biết lòng dũng cảm, tính kiên cường và ý thức đi biển vốn có của người Anh, và như vậy ông hy vọng họ sẽ đánh giá cao dự án của ông. Nhưng sự việc cũng không suôn sẽ tại Luân Đôn. Bartolomeo không đạt được gì và chuẩn bị về Pháp.

Giờ đây chính Colombo cũng đang nghĩ đến

việc đi Pháp; thậm chí ông cũng không quên nghĩ đến việc trở về Genova. Trong văn bản viết năm 1535 nhiều năm sau cuộc phát kiến, Ramusio đã thuật lại, từ nguồn tin của nhà sử học trong triều đình, Pietro Martire d’Anghiera rằng: Colombo, lúc bốn mươi tuổi (năm 1491), đã đề nghị sự nghiệp Đại Tây Dương với quê hương ông. Pietro Martire d’Anghiera là một người thông minh khác thường, nghiêm túc và chính xác trong những báo cáo của ông và là một người bạn của Colombo khi Colombo trở thành Đô đốc. Pletro Martire là một nguồn tin cậy nhất cho loại thông tin này. Chứng cứ của ông được khẳng định bởi nhà địa lý học Thổ Nhĩ Kỳ vĩ đại nhất của thời đại, Piri Reis. Đây là một sự khẳng định quan trọng vì rằng Piri Reis biết được chứng cớ ấy từ một nô lệ Tây Ban Nha gần gũi Colombo và người nô lệ này không có thể bịa thông tin này.

Một lần nữa Colombo nghĩ đến Genova khi những cố gắng của ông tại triều đình Tây Ban Nha không đưa đến kết quả gì. Ông đã nghĩ về thành phố này, mặc dù năm 1479 ông đã nhận thấy có ít hy vọng ở chốn này. Những bạn người Genova ở Seviglia và Córdoba đã gợi ý: ‘‘Tại sao ông không thử với quê hương chúng ta một lần nữa?’’ Có lẽ Colombo đã thử, dù ông không thể tránh được sự từ chối nữa của các nhà lãnh dạo Genova, những người không tin vào thành công cuối cùng của sự nghiệp Đại Tây Dương. Không phải họ không tin. Trong thực tế chính những người Genova là những người đầu tiên vấp phải vấn đề Đại Tây Dương và những người đầu tiên vượt qua những mê tín thời trung cổ về Nam bán cầu và những nơi ở bên kia trái đất. Họ không coi Colombo là một người mơ mộng, cũng như những người Genova ở Seviglia và Córdoba không cho Colombo là người mơ mộng; họ luôn là những người gần gũi với Colombo, ủng hộ ông và tài trợ cho ông.

Như đã chỉ rõ, lý do của khuynh hướng hoài nghi ở những người Genova là ở chỗ khác, ở tính cách của những người dân vùng Liguria, những con người không bao giờ làm một việc gì quá sức mình: Họ biết rõ những giới hạn của họ. Ho thực tế một cách đáng sợ. Những người Genova biết rõ rằng họ có thể phát hiện ra những đảo và những lục địa khác, như những đồng bào của họ, Antonio da Noli, Lanzarotto Marrocello, Usodimare và Niccoloso da Rocco đã làm. Nhưng thành công như đã có lần thành công thì những kẻ khác sẽ hưởng kết quả chứ không phải họ. Những người Genova biết những giới hạn của họ trong một thời đại, khi các quyền lực quốc gia ở khắp châu Âu - trừ Ý và Đức - đang thay thế những quyền lực của vùng và thành phố. Những người Genova dần dần giảm vai trò của họ trong việc buôn bán đồ tiếp tế cho tàu biển và quay sang hoạt động ngân hàng. Vào thế kỷ thứ XVIII họ trở thành những nhà tín dụng đối với Tây Âu; vào thời gian đó Genova trở thành một thành thị lớn, một trung tâm mở rộng nhanh chóng của chủ nghĩa tư bản. Như vậy cố gắng làm ăn với Genova, hoặc thông qua nước Cộng hòa, hoặc qua ngân hàng San Giorgio đều vô ích. Không có khả năng quay về Bồ Đào Nha, nhất là sau cuộc thám hiểm của Bartolomeo Dias đã mở ra tuyến đường phía Đông, đi sang các đảo và vùng đất Ấn Độ. Công việc của người anh là Bartolomeo tại triều đình nước Anh đã thất bại. Colombo tuyệt vọng. Ông phải ra đi. Rời Santa Fe trên lưng lừa hướng thẳng đến Palos, từ đó dự định đi thuyền sang Pháp.