← Quay lại trang sách

Chương 12 Một khuôn mặt biến đổi

Khó mà nói ra sự thật, bởi sự thật chỉ có một, nhưng nó sống động nên thành thử nó mang một khuôn mặt biến đổi. Franz KAFKA

1.

Khi Mathilde tới nhà Fawles, cô mang theo khẩu súng săn kiểu bơm. Tóc cô ướt sũng và khuôn mặt cô, đã trôi hết lớp trang điểm, hằn dấu một đêm không ngủ. Cô đã cất đi những chiếc váy hoa dáng ngắn để mặc quần jean rách và áo khoác ngắn có mũ chất liệu không thấm nước.

- Trò chơi kết thúc, Nathan! cô thốt lên trong lúc xông vào phòng khách.

Fawles đã ngồi bên bàn, trước máy tính xách tay của Grégoire Audibert.

- Có lẽ vậy, ông điềm nhiên đáp, nhưng cô không phải người duy nhất xác lập luật chơi.

- Thế mà chính tôi đã đóng đinh xác của Chapuis lên cây đó.

- Vì mục đích gì vậy?

- Rất cần có dàn cảnh tội ác đó để buộc các nhà chức trách phong tỏa hòn đảo và ngăn không để ông chạy trốn.

- Vô ích thôi. Tại sao tôi phải trốn?

- Để tránh bị tôi giết. Để những bí mật nho nhỏ của ông khỏi bị tiết lộ trước toàn thế giới.

- Về phần những bí mật nho nhỏ này, tôi thấy cô xoay xở không tồi đâu.

Để kháng định lời mình nói, Fawles xoay màn hình máy tính về hướng Mathilde, để cô đối diện những bức ảnh được chụp vào buổi tối sinh nhật em trai cô.

- Mọi người đều luôn tin rằng cô con gái nhà Verneuil đi học ôn tốt nghiệp phổ thông tại Normandie. Nhưng điều ấy không đúng. Cả cô cũng có mặt tại nơi diễn ra thảm kịch. Sống với một bí mật như vậy hẳn phải nặng nề lắm, đúng không?

Vẻ rã rời, Mathilde ngồi lên đầu bàn và đặt khẩu súng xuống khay, trong tầm với.

- Nặng nề thật, nhưng không phải vì những lý do như ông hình dung đâu.

- Giải thích cho tôi đi…

- Đầu tháng Sáu, trong lúc ôn thi tốt nghiệp cấp ba, tôi đã cùng cô bạn Iris tới ngôi nhà nông thôn của bố mẹ cô ấy ở Honfleur. Thi thoảng người lớn đến ở cùng chúng tôi vào cuối tuần, nhưng trong tuần thì chúng tôi chỉ có hai đứa với nhau. Chúng tôi nghiêm túc và đã học hành thực sự trâu bò, thế nên sáng ngày 11 tháng Sáu, tôi rủ cô ấy tạm nghỉ.

- Cô muốn về nhà dự sinh nhật em trai, đúng không?

- Đúng thế, tôi cần làm vậy. Đã nhiều tháng, tôi thấy Théo thay đổi. Trước đó, thằng bé vui vẻ và đầy sức sống nhưng bấy giờ thì nó thường xuyên buồn bã và lo lắng, nảy sinh những ý nghĩ đen tối. Bằng sự hiện diện của mình, tôi muốn cho thằng bé thấy tôi yêu nó nhường nào và muốn làm nó hiểu rằng tôi sẽ luôn có mặt mỗi khi nó gặp khó khăn.

Mathilde kể bằng giọng ung dung. Câu chuyện của cô mạch lạc và có thể đoán rằng lời thú tội này nằm trong kế hoạch của cô: đi tìm sự thật, toàn bộ sự thật, trong những ngóc ngách nhỏ nhất của từng trí nhớ. Kể cả trí nhớ của cô.

- Iris bảo nếu tôi quay về Paris thì cô ấy sẽ tranh thủ tới chơi với mấy cô chị họ người Normandie. Tôi đã báo trước với bố mẹ và nhờ bố mẹ đừng nói gì với Théo đế tạo bất ngờ cho thằng bé. Tôi đi xe buýt cùng Iris tới tận Havre, rồi tôi bắt tàu tới Saint-Lazare. Mặt trời rực sáng. Tôi ngược lên đại lộ Champs-Elysées ngó nghiêng các cửa hiệu để tìm cho Théo một món quà. Tôi tìm thứ gì đó thực sự khiến thằng bé thích. Cuối cùng, tôi mua cho thằng bé một chiếc áo của đội tuyển bóng đá Pháp. Rồi tôi đi tàu điện ngầm về quận XVI theo tuyến 9 đến tận La Muette. Tôi về tới nơi lúc 18 giờ. Căn hộ trống không. Mẹ cùng Théo đang từ Sologne về, bố đang ở văn phòng, như mọi khi. Tôi đã gọi cho mẹ để đề xuất là tôi sẽ ghé qua cửa hàng đồ ăn và tiệm bánh lấy đồ ăn và bánh mà mẹ đã đặt.

Fawles bình thản nghe cô gái trình bày phiên bản của cô về buổi tối đáng nguyền rủa đó. Ròng rã hai mươi năm ông ngỡ chỉ có mình ông nắm giữ toàn bộ chìa khóa về vụ Verneuil. Hôm nay ông chợt ngộ ra rằng không hề có chuyện đó.

- Tiệc sinh nhật hôm ấy rất vui, Mathilde nói tiếp. Théo hạnh phúc và tôi chỉ cần có thế. Ông có anh chị em gì không Fawles?

Nhà văn lắc đầu.

- Tôi không biết mối quan hệ giữa chúng tôi sẽ tiến triển thế nào, nhưng ở tuổi đó, Théo tôn thờ tôi và ngược lại. Tôi cảm thấy thằng bé yếu đuối còn mình được giao phó nhiệm vụ bảo vệ nó. Sau trận đấu, chúng tôi ăn mừng chiến thắng rồi Théo ngủ thiếp đi trên trường kỷ. Khoảng 23 giờ, tôi đưa Théo đã lơ mơ tỉnh giấc vào tận giường rồi ru thằng bé ngủ như thỉnh thoảng vẫn làm, rồi tôi về phòng. Tôi cũng đã mệt lử. Tôi lên giường nằm với một cuốn sách. Tôi loáng thoáng nghe thấy tiếng bố mẹ tôi trò chuyện trong bếp, rồi bố gọi điện cho ông nội để bàn về trận đấu. Cuối cùng thì tôi cũng chìm vào giấc ngủ say, tay vẫn cầm cuốn Giáo dục tình cảm.

Mathilde ngừng kể hồi lâu. Trong một lúc, chỉ còn nghe thấy tiếng mưa quất vào cửa kính và tiếng củi lách tách trong lò sưởi. Thật khó cho cô gái để tiếp tục, nhưng giờ không phải lúc thẹn thùng hay trì hoãn. Cô kể phần tiếp theo gần như một lèo. Đây không còn là đối thoại nữa mà là một cú lặn xuống vực sâu, khó mà tin được rằng ai đó có thể từ dưới ấy bước lên bình an vô sự.

2.

Tôi đã ngủ thiếp đi cùng Flaubert và bị đánh thức bởi Cỗ máy tội phạm(23). Một tiếng súng khiến cả căn hộ rung chuyển. Đồng hồ báo thức của tôi chỉ 23 giờ 47 phút. Tôi ngủ chưa được bao lâu nhưng sự đánh thức này là sự đánh thức tàn bạo nhất mà tôi từng biết. Bất chấp mối nguy hiểm mà tôi dự cảm được, tôi bước chân trần rời khỏi phòng mình. Trong hành lang, xác bố tôi tắm trong vũng máu. Cảnh tượng này thật không thể chịu thấu. Người ta đã bắn vào mặt ông ở cự ly gần. Những mảnh óc và máu bắn tóe lên tường. Thậm chí tôi còn chưa kịp hét lên thì phát đạn thứ hai đã rít lên trong tai tôi, và mẹ tôi gục xuống ở cửa bếp. Cảm giác của tôi khi ấy còn hơn cả kinh sự. Không gian chất chứa nỗi khiếp hãi đến độ gần như điên loạn.

Trong tình huống tương tự, đầu óc ta sẽ lệch lạc và không còn tuân theo bất kỳ logic nào nữa. Phản xạ đầu tiên của tôi là lao vào phòng mình. Tôi mất ba giây để ẩn náu. Tôi chuẩn bị đóng cửa phòng lại thì chợt hiểu ra mình đã quên mất Théo. Đúng lúc tôi lại rời khỏi phòng, một tiếng nổ nữa đã phá tan thinh lặng và xác của em trai tôi, trúng một viên đạn giữa lưng, gần như ngã vào lòng tôi.

Bản năng sinh tồn xui khiến tôi nấp dưới gầm giường. Đèn trong phòng tôi đã tắt, nhưng cửa phòng vẫn mở. Trong khung cửa, tôi nhìn thấy xác Théo bé nhỏ của tôi. Chiếc áo bóng đá của nó chỉ còn là một vết máu khổng lồ.

Tôi nhắm mắt lại, tôi bặm chặt môi, tôi bịt chặt tai.

Không nhìn nữa, không gào thét, không nghe nữa. Tôi không biết mình ngưng thở như vậy bao lâu. Ba mươi giây? Hai phút? Năm phút? Khi tôi mở mắt ra, có một người đàn ông trong phòng tôi. Từ chỗ nấp, tôi chỉ nhìn thấy giày của hắn: đôi bốt da màu hạt dẻ với phần cổ chân bằng thun co giãn. Hắn đứng đó vài giây, bất động, không tìm kiếm tôi. tôi suy ra rằng hắn không biết tôi đang ở nhà. Sau một hồi, hắn quay gót rồi biến mất. Tôi vẫn ở đó thêm nhiều phút, lả đi, sững sờ, không thể cử động. Chính tiếng còi hụ của xe cảnh sát đã kéo tôi khỏi trạng thái đờ đẫn ấy. Trong chùm chìa khóa riêng, tôi có chìa khóa mở cánh cửa sập dẫn lên mái nhà. Tôi đã trốn qua lối đó. Tôi không giải thích được phản ứng ấy. Việc cảnh sát ập đến lẽ ra phải khiến tôi yên tâm, nhưng sự thực lại trái ngược.

Sau đó, những ký ức của tôi nhạt nhòa hơn. Tôi nghĩ mình đã hành động máy móc. Tôi cuốc bộ trong đêm tới tận Saint-Lazare rồi bắt chuyến tàu đầu tiên về Normandie. Khi tôi tới Honfleur, Iris còn chưa về. Khi cô ấy về, tôi đã tìm ra sức lực để nói dối cô ấy. Tôi khẳng định mình bị đau đầu sau khi chia tay cô ấy nên rốt cuộc đã không đi Paris. Cô ấy tin tôi, càng dễ dàng hơn nữa khi cô ấy nhận ra vẻ mặt tôi tái nhợt như xác chết nên đã nằn nì để gọi bác sĩ tới khám. Bác sĩ xuất hiện vào giữa giờ sáng, đúng lúc cảnh sát Havre tìm tới nhà, đi cùng với ông nội tôi, Patrice Verneuil. Ông là người đã chính thức cho tôi biết tin về vụ thảm sát gia đình tôi. Và chính lúc đó, đầu óc tôi ngừng hoạt động, tôi lăn ra bất tỉnh.

Khi tôi tỉnh dậy, hai ngày sau, tôi không còn bất cứ ký ức nào về buổi tối đó nữa. Tôi thực sự nghĩ rằng bố mẹ và Théo đã bị sát hại trong lúc tôi vắng mặt. Nhìn từ bên ngoài, chuyện này thật khó tin, ấy thế nhưng mọi chuyện lại xảy ra như thế đó. Một chứng quên đúng nghĩa đã kéo dài suốt mười tám năm. Chắc chắn là giải pháp duy nhất mà tâm trí tôi tìm ra để tôi có thể sống tiếp. Thậm chí trước khi diễn ra cuộc tàn sát, tôi đã sống trong nỗi lo thường trực, nhưng cú sốc chấn thương đã gây ra một shutdown não bộ. Trong một phản xạ phòng vệ, trí nhớ của tôi như thể phân tách khỏi các cảm xúc của tôi. Suốt những năm kế tiếp, tôi cảm thấy rõ ràng rằng có chuyện gì đó không ổn. Tôi mang một nỗi đau đúng nghĩa mà tôi gán cho hoàn cảnh mất gia đình, dẫu phần nào đó không hợp lý cho lắm. Dĩ nhiên tôi đã dằn nén những ký ức này, nhưng chúng đang mục mủn trong tôi, đè nặng lên tôi bằng một trọng lượng vô hình.

Hai tuần trước, chính cái chết của ông nội tôi đã xé toang tấm màn của sự không biết nơi tôi. Lúc lâm chung, Patrice Verneuil gửi cho tôi một phong bì lớn trong đó có một lá thư nói rõ ông tôi tin chắc rằng ông chính là thủ phạm thực sự của những vụ giết chóc diễn ra tối đó. Ông tôi còn tỏ ra điên giận vì căn bệnh ung thư đã mang ông tôi đi và ngăn ông tôi đích thân tới giết ông. Phong bì cũng chứa một USB tập hợp những video tra khảo Chapuis và Amrani cùng toàn bộ những bức ảnh tìm thấy trên chiếc máy ảnh thất lạc ngoài khơi Hawaii. Khi phát hiện những bức ảnh cho thấy sự hiện diện của tôi vào buổi tối ngày hôm đó, trí óc tôi đã mở khóa và những ký ức đó trồi lên với sức mạnh của một mạch nước phun. Trí nhớ quay trở lại với tôi bằng những cảnh chớp nhoáng dữ dội cuốn theo chứng mặc cảm tội lỗi cơn thịnh nộ, nỗi hổ thẹn. Tôi bị nhận chìm và có cảm giác chuyện này sẽ không bao giờ dừng lại. Giống như một con đê bằng bê tông cốt thép bỗng nhiên vỡ vụn rồi nuốt chửng cả một thung lũng.

Đó là một sự mất bù đích thực: tôi muốn gào thét, muốn biến mất, tôi như chứng kiến mọi chuyện một lần nữa như thể tôi bị hất văng vào quá khứ. Đó hoàn toàn không phải một sự giải thoát. Mà là một thứ gì đó kinh khủng. Một sự bùng nổ hỗn loạn về mặt tinh thần đã một lần nữa dìm tôi trong nỗi khiếp sợ. Những hình ảnh, những âm thanh, những mùi vị tấn công tôi chính xác, riết ráo đến mức tôi có cảm giác đang sống lại cảnh tượng ở cấp độ mười: âm thanh chói tai của những phát súng, máu phọt ra văng tung tóe, những tiếng kêu, những mảnh óc dính trên tường, nỗi khiếp sợ khi thấy Théo ngã xuống ngay trước mặt tôi. Vậy tôi đã phạm phải tội gì để buộc phải sống trong địa ngục đó lần thứ hai?

3.

Một tia nước tiểu bắn tóe vào Ange Agostini. Viên cảnh sát thành phố vẫn kiên nhẫn và kết thúc việc thay bỉm cho cô con gái Livia. Ông đang chuẩn bị cho cô bé ngủ lại thì điện thoại di động đổ chuông. Là Jacques Bartoletti, dược sĩ của đảo, gọi cho ông để thông báo một vụ tai nạn mà ông ta vừa chứng kiến. Sớm tinh mơ, tranh thủ lệnh phong tỏa kết thúc, Barto lái tàu đi câu cá trác, cá thu và cá tráp xám. Nhưng mưa và gió đã khiến ông quay về sớm hơn dự định. Đúng lúc vượt qua mũi Safranier, ông nhìn thấy một chiếc ô tô chệch khỏi đường rồi văng vào vách đá. Hốt hoảng, Bartoletti lập tức báo cho đội tuần tra bờ biển. Lúc này ông đang tới đó xem trình hình.

Ange đáp rằng ông chưa biết tin. Sau khi gác máy - và trong khi Livia trớ một chút sữa ra chiếc áo phông đã kịp bốc mùi nước tiểu của ông -, ông gọi một cuộc điện thoại để xác nhận rằng đội cứu hộ mặt đất đã nắm được thông tin. Nhưng bên trạm cứu hộ không ai bắt máy, điện thoại di động của trung tá Benhassi phụ trách đảo cũng không hơn gì. Lo lắng, Ange quyết định đích thân tới hiện trường. Tuy nhiên, tình hình không được lý tưởng. Đây là tuần trực của ông và những đám mây bắt đầu tích tụ: trước tiên là Lucca con trai ông bị viêm a mi đan đang nằm bẹp trên giường; tiếp đó, thời tiết tệ hại khiến đường sá trở nên nguy hiểm.

Địa ngục gì thế này… Ange khẽ khàng đánh thức Lucca rồi giúp thằng bé mặc quần áo ấm. Bế con gái và con trai trên tay - lũ nhóc này phải nặng đến cả tấn… -, Ange rời khỏi nhà theo lối cửa dẫn vào ga ra. Ông giúp Lucca leo lên khoang sau chiếc xe ba bánh chở hàng, hạ mui xuống rồi buộc cái nôi ấm áp của Livia lên ghế phụ lái. Mũi Safranier chỉ cách nhà ông vỏn vẹn ba cây số, một trang viên kiểu Provence mà ông cho xây trên mảnh đất do cha mẹ để lại, nhưng Pauline, vợ cũ của ông, thấy “bé tẹo”, “hướng xấu”, “quá hẹp và tối”.

- Chúng ta cứ thong thả đi tới đó thôi; các con.

Qua gương chiếu hậu, Ange trông thấy con trai đang giơ ngón cái về phía ông. Chiếc xe ba bánh chở hàng khó nhọc ngược lên con đường hình chữ chi dẫn ra Đường chính.

Cơn mưa khiến đất đai trơn tuột và chiếc Piaggio gặp khó khăn tại những nơi dốc nhất. Bụng Ange quặn lại khi nghĩ tới những nguy cơ mà ông đang bắt hai con phải chịu. Ông thở phào nhẹ nhõm khi ra tới đường lớn. Nhưng chưa loại trừ được toàn bộ nguy hiểm. Cơn giông đang ập xuống hòn đảo với sức mạnh hiếm thấy. Ange luôn có cảm giác lo sợ vào những ngày mưa bão. Bấy giờ hòn đảo của ông, bình thường vốn hiếu khách là vậy, bèn xuất hiện dưới một hình hài dẹo dọ và đầy đe dọa, giống như một tiếng vọng tới phần đen tối mà mỗi sinh vật đều mang trong mình.

Chiếc xe ba bánh lắc lư, mưa gõ thình thình lên cửa kính. Bé gái khóc thét, còn trong thùng xe, Lucca hẳn cũng chẳng được yên tâm. Vừa vượt qua bãi Vịnh Bạc thì họ bị tắc lại ở khúc ngoặt do một cành thông to bị cơn bão bẻ gãy nằm chắn ngang đường. Ange đậu xe ở cuối đường rồi ra hiệu cho con trai lên khoang lái ngồi cùng em gái nó trong khi ông giải phóng mặt đường.

Viên cảnh sát bước xuống xe dưới trời mưa và tốn nhiều sức lực mới có thể dịch chuyển ra xa cành cây cùng các mảnh vụn án ngữ lôi đi. Ông toan lên xe đi tiếp thì nhận ra xe cứu hộ của lính cứu hỏa đậu cách đó chừng năm mươi mét, ngay trước ngã tư đường mòn Các Nhà Thực Vật Học. Ông đỗ chiếc xe ba bánh sát gần chiếc xe tải đó, lại dặn Lucca không được nhúc nhích rồi chạy đi gặp đám lính cứu hỏa. Ông ướt như chuột lột, có phần thảm hại, nước chảy ròng ròng xuống cổ áo polo rồi giàn giụa trên lưng ông. Ông nhìn thấy bên dưới vực một bộ khung ô tô dúm dó.

Cái bóng cao lớn của Najib Benhassi - trung tá lãnh đạo lực lượng lính cứu hỏa Beaumont - hiện ra trong sương mù.

- Chào Ange.

Hai người đàn ông bắt tay nhau.

- Là xe của ông chủ hiệu sách, Benhasse nói luôn vì đã đoán trước được câu hỏi.

- Grégoire Audibert ư?

Đội trưởng đội cứu hỏa gật đầu rồi nói thêm:

- Ông ta không đi một mình. Cậu nhân viên trẻ cũng ngồi trong xe cùng ông ta.

- Raphaël hả?

- Raphaël Bataille, đúng vậy, Benhassi đáp trong lúc tra cứu các ghi chép.

Ông ngừng một lúc rồi vừa nói thêm vừa chỉ sang đội của mình:

- Chúng tôi đang đưa hai người đó lên. Cả hai đều đã chết.

Cậu nhóc tội nghiệp! Ange tỏ ra xúc động, sững sờ đón nhận sự xuất hiện trở lại của cái chết đúng lúc gọng kìm của lệnh phong tỏa bắt đầu nới lỏng. Ông bắt gặp ánh mắt của đội trưởng đội cứu hỏa và nhận thấy vẻ băn khoăn hằn sâu trên gương mặt ông ta.

- Anh đang nghĩ gì vậy, Najib?

Sau một thoáng im lặng, trung tá quyết định chia sẽ nỗi băn khoăn của mình:

- Có điều gì đó kỳ lạ lắm. Tay chân cậu nhóc đều bị trói chặt.

- Trói bằng cái gì vậy?

- Bằng ống vặn căng. Cậu nhóc bị trói gô bằng ống vặn căng.

4.

Cơn bão nổi lên dữ dội. Mathilde đã kết thúc câu chuyện của mình được hơn một phút. Nhốt mình trong thinh lặng, cô đe dọa Fawles lần nữa bằng cách chĩa súng vào ông. Nhà văn đứng dậy. Đứng trước ô kính rộng, hai tay chắp sau lưng, ông quan sát những cây thông oằn mình và dường như quằn quại vì đau đớn dưới cơn mưa nặng hạt. Hồi lâu sau, ông điềm nhiên quay sang cô gái:

- Nếu tôi hiểu đúng, cô cũng nghĩ là chính tôi đã giết cha mẹ cô?

- Apolline tin chắc là đã nhận ra ông trong bãi đỗ xe. Còn tôi, khi trốn dưới gầm giường, tôi cũng đã nhìn thấy rõ rành đôi giày của ông. Vậy nên đúng thế, tôi nghĩ ông là một tên sát nhân.

Fawles cân nhắc lý lẽ ấy mà không tìm cách gạt nó đi. Sau một hồi ngẫm nghĩ, ông thắc mắc:

- Nhưng động cơ của tôi là gì?

- Động cơ của ông hả? Vì ông chính là người tình của mẹ tôi.

Nhà văn không giấu nổi niềm kinh ngạc.

- Vô lý. Tôi chưa từng gặp mẹ cô!

- Thế mà ông đã viết thư cho bà ấy. Vả chăng mới đây ông đã lấy lại chỗ thư đó.

Mathilde chĩa nòng súng vào tập thư mà Fawles đã dùng một sợi ruy băng buộc gọn lại rồi để trên bàn. Nhà văn phản công:

- Làm cách nào cô có được những lá thư này?

Mathilde lại đột nhập vào quá khứ một lần nữa. Vẫn là buổi tối ấy, vẫn chuỗi sự kiện ấy, trong vài giờ, đã làm đảo lộn số phận của biết bao người.

- Buổi tối ngày 11 tháng Sáu năm 2000, trước khi bữa tối mừng sinh nhật bắt đầu, tối đã thay quần áo để có trang phục thích hợp. Tôi đã tìm thấy trong tủ quần áo của mình một chiếc váy hè xinh xắn nhưng lại không có giầy phối cùng. Tôi bèn sang lục tủ quần áo của mẹ như thi thoảng vẫn làm. Mẹ có hơn trăm đôi giày khác nhau. Và chính tại đó, trong một hộp bìa các tông, tôi đã bắt gặp chỗ thư này. Khi đọc lướt qua chúng, trong tôi đã nảy sinh những cảm giác trái ngược. Trước tiên là cú sốc khi phát hiện ra mẹ mình có nhân tình, và sau đó, gần như ngoài ý muốn, là cảm giác ganh tị vì một người đàn ông đã viết cho bà những bản văn thi vị và nồng cháy đến thế.

- Và cô đã giữ những lá thư này suốt hai mươi năm?

- Để thỏa sức đọc chúng, tôi mang chúng về phòng mình rồi giấu trong túi xách, tự hứa khi nào ở nhà một mình sẽ đọc lướt qua, rồi sau đó cất trả vào chỗ cũ. Nhưng tôi đã không bao giờ có cơ hội làm vậy. Sau thảm kịch, tôi cùng lúc mất đi cả dấu vết lẫn ký ức. Ông nội tôi, người sống cùng tôi sau vụ thảm sát, hẳn đã cất tạm chúng ở đâu đó, cũng như nhiều đồ vật có khả năng đưa tôi trở lại buổi tối hôm ấy. Nhưng Patrice Verneuil không quên chúng, và ông tôi đã liên hệ tới ông sau những tiết lộ của Apolline. Ông tôi gửi chúng cho tôi cùng với chiếc USB. Không còn nghi ngờ gì nữa: đó là nét chữ của ông và chúng được ký tên ông.

- Đúng thế, chúng đúng là do tôi viết, nhưng điều gì khiến cô tin rằng chúng được gửi cho mẹ cô?

- Chúng được gửi cho S. Mẹ tôi tên là Sofia và chúng được tìm thấy trong phòng bà. Những thứ đó tạo nên cả mớ đầu mối khớp nhau, đúng không?

Fawles không đáp. Thay vào đó, ông tiến một con tốt khác:

- Chính xác thì tại sao cô lại tới đây? Để giết tôi chăng.?

- Không phải ngay lập tức. Trước tiên, tôi muốn tặng cho ông một món quà.

Cô lục tìm trong túi để lấy ra một vật hình tròn rồi đặt xuống bàn. Thoạt tiên Fawles ngỡ đó là một cuộn băng dính đen rồi bỗng hiểu ra đó là dải mực của máy chữ.

Mathilde tiến về phía giá sách để lấy chiếc máy chữ Olivetti rồi đặt nó lên bàn.

- Tôi muốn lời thú tội đầy đủ, Fawles ạ.

- Lời thú tội ư?

- Trước khi giết ông, tôi muốn một chứng cứ bằng văn bản.

- Một chứng cứ bằng văn bản về cái gì?

- Tôi muốn mọi người biết điều ông đã làm. Tôi muôn mọi người biết rằng Nathan Fawles vĩ đại là một kẻ sát nhân. Ông sẽ không còn là thần tượng đối với hậu thế, tin tôi đi!

Ông nhìn chiếc máy chữ một lát, ngước mặt về phía cô rồi chống chế:

- Ngay cả khi tôi là một kẻ sát nhân đi nữa, cô cúng chẳng thể làm gì chống lại những cuốn sách của tôi.

- Đúng thế, tôi biết, lúc này cái mong muốn tách bạch con người ra khỏi nghệ sĩ đang rất thịnh hành: người đó đã phạm phải những tội ác tàn bạo, nhưng vẫn là một nghệ sĩ thiên tài. Xin lỗi, nhưng đối với tôi, chuyện không đơn giản như vậy đâu.

- Đó là một cuộc tranh luận hết sức quy mô, nhưng dẫu cô có thể giết người nghệ sĩ thì cô vẫn không bao giờ giết được tác phẩm nghệ thuật.

- Tôi nghĩ những cuốn sách ông viết được đánh giá quá cao đấy.

- Vấn đề không phải ở chỗ đó. Và tự trong thâm tâm, cô biết là tôi nói đúng.

- Tự trong thâm tâm, tôi muốn găm cho ông hai viên đạn vào người, Nathan Fawles ạ.

Bằng một động tác bất ngờ, cô dùng báng súng thúc mạnh vào thắt lưng Nathan để buộc ông ngồi xuống.

Fawles nghiến răng ngã quỵ xuống chiếc ghế tựa.

- Cô nghĩ giết một ai đó là chuyện dễ dàng sao? Cô… Cô nghĩ mớ đầu mối dồn tụ kia có thể cho cô cái quyền giết tôi chăng? Chỉ vì đó là thú tiêu khiển lành mạnh của cô?

- Không, ông có quyền bào chữa, đúng thế. Chính vì lẽ đó mà tôi chừa cho ông khả năng trở thành luật sư của chính mình. Đó chính là điều ông vẫn thích nhắc đi nhắc lại trong các cuộc trả lời phỏng vấn: “Từ thời niên thiếu, vũ khí duy nhất của tôi luôn là chiếc bút Bic cũ kỹ bị gặm mòn và một tập giấy ghi chép có kẻ ô li.” Vậy thì đấy: để bào chữa cho mình, ông có một chiếc máy chữ, một ram giấy và nửa giờ đồng hồ.

- Chính xác thì cô muốn gì?

Tức tối, Mathilde kê nòng súng vào thái dương nhà văn.

- Sự thật! cô gào lên.

Fawles thách thức cô:

- Cô có cảm giác sự thật sẽ giúp cô gạt phăng quá khứ, giúp cô thoát khỏi những khổ đau và bắt đầu lại từ con số không ư? Xin lỗi, nhưng đó là một ảo tưởng.

- Cứ để tôi là người duy nhất quyết định chuyện đó.

- Nhưng sự thật không tồn tại, Mathilde ạ! Hay đúng hơn, nếu sự thật tồn tại thì nó cũng luôn biến động, luôn sống động, luôn thay đổi.

- Tôi chán ngấy những lời ngụy biện của ông rồi, Fawles.

- Dù cô có muốn hay không thì loài người cũng không hai mặt đâu. Tất cả chúng ta đều đang vận động trong một vùng màu xám và bất ổn nơi con người tốt đẹp nhất vẫn có thể phạm phải tội lỗi tệ hại nhất. Tại sao cô muốn ép bản thân mình chịu đựng thứ đó? Một sự thật mà cô không có khả năng chịu đựng. Một tia a xít bắn vào vết thương vẫn chưa khép miệng.

- Tôi không cần ai bảo vệ. Dẫu sao thì cũng không phải là ông! cô thốt lên.

Rồi cô chỉ chiếc máy chữ.

- Ông vào việc đi. Ngay tức khắc! Hãy kể cho tôi phiên bản của ông: những sự việc thuần túy, chỉ những sự việc thôi. Không văn phong, không chất thơ, không tán rộng, không cường điệu. Nửa giờ nữa tôi sẽ thu bài.

- Không, tôi…

Nhưng cú thúc báng súng thứ hai đá khiến ông đầu hàng. Ông nhăn mặt, cúi gập người sau cú thúc, rồi chậm rãi nhét dải mực vào máy chữ.

Nói cho cùng, nếu hôm nay ông phải chết, thì chi bằng là chết ngồi sau một chiếc máy chữ. Chỗ của ông là ở đó. Nơi ông luôn tự cảm thấy mình ít xấu xa nhất. Cứu mạng mình bằng cách sắp hàng câu chữ trên một bàn phím: đó là thách thức mà ông có thể vượt qua.

Để khởi động, ông gõ từ đầu tiên thoáng qua tâm trí. Một câu của Georges Simenon, một trong những bậc thầy của ông, mà ông thấy có vẻ phù hợp với cảnh huống.

Cuộc đời thật khác khi ta trải nghiệm nó và khi ta xem xét nó tỉ mỉ sau khi mọi việc kết thúc.

Sau hai mươi năm, tiếng lách tách của các phím dưới ngón tay ông khiến ông rùng mình. Ông nhớ nó, dĩ nhiên, nhưng không phải do ông cố tình vắng mặt sau bàn phím. Đôi khi, ý chí không thể làm gì nếu không bị kèm riết bởi một khẩu súng gí vào thái dương.

Tôi đã gặp Soizic Le Garrec vào mùa xuân năm 1996 trên một chuyến bay từ New York tới Paris, cô ngồi cạnh tôi, gần cửa sổ, và đang mải miết đọc một trong những cuốn tiểu thuyết của tôi.

Và thế đó, thế là xong phần mở đầu… Ông vẫn ngập ngừng vài giây, ném cho Mathilde ánh mắt sau cùng ngụ ý: vẫn còn thời gian để dừng mọi chuyện lại, vẫn còn thời gian để không rút chốt quả lựu đạn sắp nổ tung trước mặt chúng ta và giết cả hai chúng ta.

Nhưng ánh mắt Mathilde chỉ hồi đáp ông bằng một ý tứ duy nhất: Cứ ném quả lựu đạn của ông đi, Fawles ạ. Cứ phụt tia a xít của ông đi…

Chú Thích

(25) Nhân vật giả tưởng từng xuất hiện nhiều lần trong các tác phẩm trinh thám của Agatha Christie.