← Quay lại trang sách

Chương 13 Hoa khôi Sarajevo

Cuộc đời thật khác khi ta trải nghiệm nó và khi ta xem xét nó tỉ mỉ sau khi mọi việc kết thúc. Georges SIMENON

Tôi gặp Soizic Le Garrec vào mùa xuân năm 1996 trên một chuyến bay từ New York tới Paris. Cô ấy ngồi cạnh tôi, gần cửa sổ, và đang mải miết đọc một trong những cuốn tiểu thuyết của tôi. Đó là cuốn Một thành phố nhỏ ở Mỹ, cuốn mới nhất được xuất bản, mà cô ấy mua tại sân bay. Không tự giới thiệu về mình, tôi hỏi Soizic có thích cuốn sách không - bấy giờ cô ấy đã đọc được chừng trăm trang. Ở đó, giữa những đám mây, Soizic bình thản đáp rằng cô ấy không thích nó chút nào và hoàn toàn không hiểu tại sao tiểu thuyết gia này lại tạo được sức hút lớn đến vậy. Toi lưu ý cô ấy rằng dẫu sao Nathan Fawles cũng vừa được nhận giải Pulitzer, nhưng Soizic cam đoan với tôi rằng cô ấy không tin tưởng chút nào vào các giải thưởng văn chương và các dải băng vinh danh làm biến dạng bìa sách chỉ là những cái bẫy dành cho kẻ khờ. Tôi trích dẫn Bergson hòng gây ấn tượng với cô ấy (chúng ta không nhìn thấy chính các sự vật; chúng ta thường chỉ đọc những cái nhãn đính trên sự vật.”), nhưng không gây được ấn tượng gì.

Sau một hồi, không kìm được nữa, tôi tiết lộ với Soizic rằng tôi chính là Nathan Fawles, nhưng chuyện này dường như không khiến cô ấy xúc động hơn. Bất chấp khởi đầu khó khăn này, chúng tôi vẫn chuyện trò không ngừng suốt chuyến bay kéo dài sáu tiếng. Hay đúng hơn, chính tôi không ngừng khiến cô ấy lơ là việc đọc sách, bằng những câu hỏi của mình.

Soizic là một bác sĩ trẻ ba mươi tuổi. Tôi ba mươi hai tuổi. Soizic kể tôi nghe bập bõm một phần câu chuyện của cô ấy. Năm 1992, khi vừa tốt nghiệp ngành Y, cô ấy lên đường tới Bosnia để gặp lại người bạn trai thời đó, một người quay phim cho kênh Antenne 2. Đó là khởi đầu của thứ sắp trở thành cuộc bao vây dài nhất chiến tranh hiện đại: nỗi thống khổ của Sarajevo. Sau vài tuần, gã kia trở về Pháp hoặc lên đường ghi hình những cuộc xung đột khác. Soizic ở lại. Cô ấy gia nhập những tổ chức nhân đạo có mặt trên địa bàn. Suốt bốn năm trời, cô chịu đựng khổ hình cùng ba trăm năm mươi nghìn dân, dốc sức mình phục vụ thành phố bị vây hãm.

Đúng là tôi không thể giảng cho cô một bài trọn vẹn, nhưng nếu cô muốn hiểu điều gì đó về câu chuyện này, về câu chuyện của tôi và cùng đó là câu chuyện liên quan đến gia đình cô, cô cần phải ngược dòng tìm hiểu thực tế thời bấy giờ đã: thực tế về sự tan rã của Nam Tư trong những năm tiếp sau các sự kiện bức tường Berlin sụp đổ và Liên bang Xô viết giải thể. Kể từ thời hậu chiến, vương quốc Nam Tư cổ đã được thống nhất bởi thống chế Tito nhờ việc thiết lập liên bang cộng sản sáu nhà nước thuộc bán đảo Balkan: Slovenia, Croatia, Montenegro, Bosnia, Macedonia vì Serbia. Với sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản, các nước Balkan trải qua thời kỳ chủ nghĩa dân tộc lên ngôi. Trong bối cảnh căng thẳng kịch phát, cường nhân của đất nước, Slobodan Milosevic, khơi lại ý tưởng về một Serbia Vĩ đại tập hợp tất cả các dân tộc thiểu số xứ Serbia vào cùng một lãnh thổ. Slovenia, Croatia, Bosnia và Macedonia lần lượt đòi độc lập, điều này gây nên một loạt xung đột dữ dội và chết chóc. Trên nền tảng thanh trừng sắc tộc và sự bất lực của Liên Hợp Quốc, chiến tranh Bosnia trở thành cái lò sát sinh khiến hơn một trăm nghìn người thiệt mạng.

Khi tôi gặp cô ấy, cả da thịt lẫn tâm trí Soizic đều đã hằn những vết sẹo rỗ của khổ hình Sarajevo. Bốn năm khiếp sợ, bom đạn oanh tạc không ngừng, đói, rét, bốn năm đạn rít bên tai, thao tác phẫu thuật đôi khi được thực hiện không thuốc tê. Soizic thuộc số những người sống giữa lòng đau khổ của thế giới. Nhưng toàn bộ chuyện này khiến cô ấy tổn thương. Đau khổ của thế giới sẽ trở thành gánh nặng thừa sức đè bẹp bạn nếu bạn biến nó thành một vấn đề cá nhân.

*

Chúng tôi hạ cánh vào khoảng 7 giờ sáng trong cảnh sắc âm u trầm uất của Roissy. Chúng tôi chào tạm biệt nhau rồi tôi đứng vào hàng người chờ taxi. Mọi thứ thật vô vọng: viễn cảnh không gặp cô ấy nữa, hơi ẩm lạnh băng của buổi sáng hôm đó, những đám mây dơ bẩn và ô nhiễm chất chồng trên bầu trời và gây cho tôi cảm giác chúng là chân trời duy nhất của cuộc đời tôi. Nhưng một thế lực triệu hồi đã xui khiến tôi phản ứng. Cô biết khái niệm kairos trong tiếng Hy Lạp không? Đó là giây phút quyết định mà ta không nên để trôi qua. Trong mỗi cuộc đời, ngay cả những cuộc đời tồi tệ nhất, Chúa Trời vẫn cho cô, ít nhất một lần, một cơ hội đúng nghĩa để lật ngược số phận của cô. Kairos, đó là khả năng biết nắm bắt cây sào mà cuộc đời chìa cho cô. Nhưng thời điểm thường vô cùng ngắn ngủi. Và cuộc đời thì không dọn lại món. Vậy nên, sáng hôm đó, tôi biết rằng có điều gì đó mấu chốt đang diễn ra. Tôi rời hàng người rồi quay bước. Tôi tìm Soizic khắp sảnh đến và rốt cuộc cũng gặp lại cô ấy đang chờ xe buýt tuyến ngắn. Tôi nói với cô ấy là người ta mời tôi tới ký tặng tại hiệu sách trên một hòn đảo thuộc Địa Trũng Hải. Rồi, không úp mở, tôi rủ cô ấy cùng đi. Vì đôi khi kairos tác động vào hai cá thể cùng một thời điểm, Soizic đã nói đồng ý không chút ngần ngại và chúng tôi lên đường tới đảo Beaumont ngay ngày hôm ấy.

Chúng tôi ở lại trên đảo hai tuần và phải lòng hòn đảo cùng lúc với phải lòng nhau. Đó là một khoảnh khắc phi thời gian vì cuộc sống khốn kiếp này đôi khi ban tặng bạn điều đó để khiến bạn tin rằng hạnh phúc có tồn tại. Một chuỗi khoảnh khắc ngắn ngủi lung linh tựa những viên ngọc trai. Hứng lên, tôi đã vung mười năm quyền tác giả vào Nam Thập Tự. Tôi nhìn thấy chúng tôi lặng lẽ sống những tháng ngày hạnh phúc tại đó và ngỡ đã tìm ra nơi lý tưởng để chứng kiến con cái chúng tôi lớn lên. Tôi cũng thấy mình viết ra những cuốn tiểu thuyết trong tương lai ở đó. Tôi đã nhầm.

*

Suốt hai năm tiếp theo, chúng tôi đã sống cuộc sống lứa đôi hòa hợp đến viên mãn, mặc dù không phải lúc nào cũng ở bên nhau. Khi bên nhau, chúng tôi dành thời gian ở Bretagne - quê gốc của Soizic và cũng là nơi gia đình cô ấy sinh sống - và trong sào huyệt của chúng tôi, Nam Thập Tự. Phấn khích với tình yêu mới mẻ này, tôi đã bắt đầu viết một tiểu thuyết mới có tên Một mùa hè bất khả chiến bại. Thời gian còn lại, Soizic ra thực địa. Cô ấy quay về với vùng đất thâm tâm mình gắn bó, bán đảo Balkan, và thực hiện nhiệm vụ do hội Chữ thập đỏ giao phó.

Rủi thay, nỗi kinh hoàng chiến tranh vẫn chưa chấm dứt ở khu vực này của thế giới. Kể từ 1998, đến lượt Kosovo bốc cháy. Đến đây, xin thứ lỗi cho tôi lần nữa vì đã đóng vai giáo viên lịch sử, nhưng đây là cách duy nhất để cô hiểu những gì đã xảy ra. Lãnh thổ Kosovo là một tỉnh tự trị của Serbia với dân số phần lớn là người Albani. Ngay từ cuối thập niên 1980, Milosevic đã bắt đầu bớt xén quyền tự trị của tỉnh, rồi Serbia mưu toan tái chiếm lãnh thổ này làm thuộc địa bằng cách đưa vào đó những tên thực dân.

Một phần dân chúng Kosovo bị trục xuất khỏi biên giới. Kháng chiến hình thành, thoạt tiên được tiến hành trong hòa bình, thông qua sự trung gian của thủ lĩnh Ibrahim Rugova, “Gandhi của Balkan” nổi tiếng vì phản đối bạo lực, rồi sau đó bằng vũ lực với sự thành lập Quân đội Giải phóng Kosovo - UCK trứ danh có vùng hậu cứ nằm tại Albani, nơi đội quân này tận dụng sự sụp đổ của chế độ để cướp kho vũ khí.

Soizic bị giết trong cuộc chiến Kosovo, vào những ngày cuối cùng của tháng Mười hai năm 1998. Theo báo cáo do Bộ Ngoại giao Pháp gửi cho cha mẹ Soizic, cô ấy rơi vào một ổ phục kích khi đi cùng một nhiếp ảnh gia chiến trường người Anh để thực hiện một phóng sự cách Pristina chừng ba mươi cây số. Di hài cô ấy được trả về Pháp và chôn cất ngày 31 tháng Mười hai trong một nghĩa trang nhỏ thuộc Sainte-Marine, Bretagne.

*

Cái chết của người phụ nữ tôi yêu đã hủy hoại tôi. Suốt sáu tháng trời, tôi tự giam mình trong nhà, trong màn sương mù của rượu và ma túy. Tháng Sáu năm 1999, tôi ra thông báo ngừng viết, bởi tôi không muốn người ta trông chờ điều gì ở mình nữa.

Thế giới tiếp tục quay. Mùa xuân 1999, sau rất nhiều trì hoãn, cuối cùng Liên Hợp Quốc cũng quyết định bỏ phiếu tán thành can thiệp vào Kosovo dưới dạng chiến dịch ném bom đường không. Đầu mùa hè tiếp theo, sau khi binh lực Serbia rút quân hoàn toàn, Kosovo trở thành một chế độ bảo hộ quốc tế dưới quyền ủy trị của Liên Hợp Quốc. Cuộc chiến khiến mười lăm nghìn người chết và hàng nghìn người mất tích. Phần lớn trong số đó là dân thường. Và toàn bộ chuyện này xảy ra cách Paris vỏn vẹn hai giờ bay.

Khi mùa thu đến, tôi quyết định tới Balkan. Trước tiên là tới Sarajevo, rồi tới Kosovo. Tôi muốn nhìn ngắm những nơi chốn từng rất quan trọng với Soizic, những nơi chốn cô ấy trải qua quãng thời gian cuối đời. Trong vùng, chiến sự vẫn đang âm ỉ. Tôi đã gặp những người Kosovo, Bosnia, Serbia. Những cư dân nhớn nhác, mất phương hướng, vừa trải qua mười năm trong lửa đạn và hỗn loạn và đang cố gắng phục hồi được đến đâu hay đến đấy. Tôi kiếm tìm ký ức về Soizic, nơi đó tôi tìm thấy hồn phách cô ấy ở khúc ngoặt một con phố, một khu vườn, một bệnh xá. Một bóng ma chăm chú dõi theo tôi và đồng hành với nỗi đau của tôi. Đau đến xé lòng, nhưng điều đó khiến tôi thấy dễ chịu.

Qua chuyện trò, tôi gần như bất đắc dĩ góp nhặt thông tin từ những người từng gặp gỡ Soizic trước khi cô ấy qua đời. Một tâm sự chỗ này kéo theo một câu hỏi chỗ kia, và cứ như thế mãi. Dần dà, những nhánh này tạo thành hình một mạng nhện biến quãng thời gian bắt đầu chịu tang của tôi thành một cuộc điều tra về hoàn cảnh Soizic bị sát hại. Đã lâu rồi không quay trở lại với nhiệm vụ nhưng tôi vẫn giữ được các phản xạ và giác quan địa chấn thu được trong thời gian tham gia các hoạt động nhân đạo. Tôi có vài mối liên hệ và nhất là, có thời gian.

Tôi luôn thắc mắc về việc Soizic đi cùng một phóng viên trẻ của tờ Guardian khi cô ấy bị sát hại. Người đàn ông đó tên là Timothy Mercurio. Tôi chưa từng nghĩ đó có thể là một người tình qua đường - và sau này tôi biết được Mercurio là người đồng tính công khai. Nhưng tôi cũng không đời nào tin rằng hai người tình cờ có mặt tại đó. Soizic thạo tiếng Serbia-Croatia. Tay phóng viên hẳn đã nhờ cô đi cùng để hỏi chuyện mọi người. Tôi đã nhiều lần nghe được tin đồn: bấy giờ Mercurio điều tra về Ngôi nhà của Quỷ, một trang trại cổ ở Albani bị biến thành trung tâm giam giữ chuyên cung cấp cho một đường dây buôn bán nội tạng.

Sự tồn tại của các trung tâm giam giữ người Kosovo tại Albani thực sự không phải điều gì đặc biệt. Albani vốn là vùng hậu cứ của UCK, Quân Giải phóng, và họ đã dựng lên tại đó những trại tù binh. Nhưng Ngôi nhà của Quỷ thì lại khác. Theo lời đồn, đó là nơi người ta dẫn tù binh tới - đa phần là người Serbia, nhưng cũng có cả người Albani bị kết tội hợp tác với Serbia - để phân loại họ theo các tiêu chuẩn y khoa. Sau quá trình phân loại rùng rợn này, một số người bị giết bởi một viên đạn găm vào đầu rồi nội tạng của họ bị lấy ra. Người ta nói việc buôn bán bỉ ổi này nằm dưới quyền kiểm soát của Kuçedra, một nhóm mafia mờ ám gieo rắc khiếp sợ khắp lãnh thổ.

Tôi không biết nên nghĩ sao về tin đồn này. Ban đầu, tôi thấy nó có vẻ điên rồ, rồi tôi nhận ra rằng thời kỳ đó khá thuận tiện cho những tin tức phóng đại đủ loại nhằm hạ uy tín phe này hay phe kia. Nhưng tôi đã quyết định tiến hành lại từ đầu cuộc điều tra của Mercurio và Soizic vì tin chắc rằng không ai khác ngoài tôi có thể làm xong việc ấy. Thời đó, Nam Tư cũ có khoảng mười nghìn người mất tích. Các bằng chứng nhanh chóng bốc hơi, mọi người sợ phải nói. Tuy nhiên tôi muốn đi tới cùng câu chuyện này, và càng điều tra sâu thêm, tôi càng thấy có cơ sở để tin vào sự tồn tại của Ngôi nhà của Quỷ.

Sau khi cất công tìm kiếm, tôi đã xác định được những nhân chứng tiềm năng của việc buôn bán này, nhưng họ không hề nhiều lời khi cần phải đi vào chi tiết. Nhiều người trong số đó là nông dân hoặc thợ thủ công chuyên bị tay chân của Kuçedra khủng bố. Tôi đã nói với cô về Kuçedra, cô còn nhớ chứ? Trong văn hóa dân gian Albani, đó là một con rồng có sừng độc ác. Một quái vật giống cái quỷ quyệt có chín lưỡi, mắt bạc, thân dài dị dạng phủ đầy gai và nặng nề với đôi cánh khổng lồ. Theo tín ngưỡng dân gian, Kuçedra luôn đòi hiến tế nhiều mạng người hơn nữa, nếu không nó sẽ khạc lửa và dìm ngập xứ sở trong máu lửa.

Một ngày kia, sự kiên trì của tôi đã mang lại kết quà: tôi đã tìm ra một tài xế từng tham gia chở các tù nhân tới Albani. Sau những cuộc mặc cả không dứt, ông ta nhận lời lái xe đưa tôi tới tận Ngôi nhà của Quỷ. Đó là xác của một trang trại cổ đổ nát nằm tách biệt giữa rừng. Tôi đã rảo bước dọc ngang khắp chốn đó mà không tìm thấy gì nhiều để xác chứng. Khó mà tin được rằng tại đây từng diễn ra những thủ thuật y khoa. Ngôi làng gần nhất nằm cách đó mười cây số. Người dân trong vùng thì giữ thái độ thù địch. Mỗi lần tôi đề cập đến chủ đề này, người nào cũng im bặt vì sợ thuộc hạ của Kuçedra trả thù. Để khỏi phải tiếp chuyện tôi, tất cả bọn họ đều khẳng định mình không thể nói quá ba từ tiếng Anh liên tiếp.

Tôi đã quyết định cắm trại tại chỗ suốt nhiều ngày liền. Cuối cùng, vợ của một công nhân sửa đường vốn cảm động và rủ lòng thương hại trước câu chuyện của tôi đã nhắc lại cho tôi biết những gì chồng bà từng kể. Ngôi nhà của Quỷ chỉ là nơi trung chuyển. Một dạng nhà ga phân loại nơi các tù nhân buộc phải trải qua hàng loạt những cuộc kiểm tra y tế và phân tích máu. Sau đó, những người hiến tạng tương thích bị đưa đến bệnh viện Phoenix, một cơ sở nhỏ bất hợp pháp nằm ở ngoại ô Istok.

*

Nhờ các chỉ dẫn của bà, rốt cuộc tôi cũng lần ra vị trí của bệnh viện Phoenix. Tại Kosovo mùa đông 1999, đó là một ngôi nhà bỏ hoang và đổ nát bị bọn cướp khoắng sạch trang thiết bị. Chỉ còn lại đôi ba cái giường han gỉ, vài máy móc y tế đã hỏng, những thùng rác chứa đầy túi nylon và hộp thuốc rỗng. Điểm mấu chốt mang tính quyết định là cuộc gặp của tôi với một kẻ vô gia cư đang chiếm dụng bất hợp pháp nơi này. Hắn nghiện lòi và nói tên hắn là Carsten Katz. Đó là một bác sĩ gây mê người Áo từng làm việc tại bệnh viện khi nó còn hoạt động. Sau đó, tôi phát hiện ra rằng hắn cũng được biết đến với hai biệt danh không mấy vui tai: Lái buôn cát và Dược sĩ canh phòng.

Tôi hỏi hắn về bệnh viện, nhưng gã đàn ông đang lên cơn vật thuốc. Vã mồ hôi hột, ánh nhìn hoảng hốt, hắn quằn quại vì đau. Nghiện moóc phin nên Katz sẵn sàng làm mọi chuyện để thỏa cơn nghiện. Tôi hứa với hắn một lát sau sẽ quay trở lại với thứ hắn cần. Tôi đã khẩn trương tới Pristina và dành trọn phần thời gian còn lại trong ngày để kiếm alcaloit. Tôi có đủ đô la để mở những cánh cửa cần thiết và vơ vét toàn bộ lượng moóc phin có thể tìm thấy.

Khi tôi quay trở lại bệnh viện thì trời đã tối từ lâu. Carsten Katz trông đáng sợ như một xác sống. Hắn đã biến một trong những ống thông gió thành lò sưởi và nhóm một đống lửa từ những tấm ván bằng gỗ dán. Vừa nhác thấy hai ống moóc phin, hắn bèn nhảy xổ vào tôi như một kẻ điên. Tôi đích thân tiêm cho hắn rồi đợi hồi lâu để hắn trấn tĩnh lại. Rồi gã bác sĩ gây mê ngồi vào bàn kể cho tôi nghe mọi chuyện.

Trước tiên hắn khẳng định với tôi chức năng phân loại của Ngôi nhà của Quỷ. Rồi việc chuyên chở một số tù nhân đến tận bệnh viện Phoenix, chính tại đây, họ bị hành quyết bằng một phát súng nhằm thẳng vào đầu trước khi nội tạng của họ - chủ yếu là thận - bị lấy đi để ghép cho người khác. Chẳng có gì đáng ngạc nhiên, người nhận nội tạng là những bệnh nhân ngoại quốc giàu có, có thể trả từ 50.000 đến 100.000 euro cho mỗi cuộc phẫu thuật. “Công việc kinh doanh đã diễn ra suôn sẻ,” Carsten Katz kể tiếp. Gã bác sĩ gây mê khẳng định đã nhận diện được đám thuộc hạ của Kuçedra, một nhóm nhỏ được điều hành bởi một bộ ba ma giáo. Một thủ lĩnh quân sự người Kosovo, một tay mafia người Albani và một bác sĩ phẫu thuật người Pháp: Alexandre Verneuil. Nếu hai tên đầu tiên đảm bảo việc bắt giữ và vận chuyên tù nhân thì chính cha cô, Mathilde ạ, giám sát toàn bộ mảng “y khoa”. Ngoài Katz, cha cô còn tuyển thêm một ê kíp bác sĩ: một bác sĩ phẫu thuật người Thổ, một bác sĩ phẫu thuật khác người Rumani và một y tá trưởng người Hy Lạp. Những người này thành thạo công việc trên phương diện chuyên môn, nhưng không trong sạch cho lắm so với lời thề Hippocrate của họ.

Theo Katz, khoảng năm mươi cuộc phẫu thuật man rợ đã được thực hiện tại bệnh viện Phoenix. Đôi khi, những quả thận không được ghép ngay tại chỗ mà được gửi theo đường hàng không tới các bệnh viện nước ngoài. Tôi đã tra hỏi gã người Áo tối đa sau khi nhử hắn bằng những ống moóc phin khác. Lái buôn Cát trả lời dứt khoát: Alexandre Verneuil là đầu não thực sự của phi vụ, kẻ đã hình dung ra việc buôn bán và dẫn dắt hoạt động. Điều tệ hại nhất, đó là Kosovo không phải cuộc thử nghiệm đối với cha cô, mà là sự tiếp tục một phi vụ buôn bán mà ông ta đã triển khai thuần thục ở những nơi khác, qua các chuyến công tác nhân đạo của mình. Nhờ mạng lưới và vị thế riêng. Verneuil tiếp cận được cơ sở dữ liệu tại nhiều nước để bắt liên lạc với các bệnh nhân lâm trọng bệnh, sẵn sàng chi trả nhiều tiền cho một nội tạng mới. Dĩ nhiên mọi giao dịch đều sử dụng tiền mặt hoặc thông qua các tài khoản ngân hàng ở nước ngoài.

Tôi lấy ra thêm hai ống moóc phin từ túi áo măng tô. Gã bác sĩ nhìn chúng bằng đôi mắt điên dại.

- Bây giờ, tao muốn mày kể tao nghe về Timothy Mercurio.

- Cái gã làm cho Guardian hả? Katz nhớ lại. Bấy giờ gã đã theo dõi chúng tôi được nhiều tuần. Gã đã lần ra trình tự từ dưới lên trên nhờ một tên chỉ điểm: một nam y tá người Kosovo từng làm việc cho chúng tôi lúc phi vụ bắt đầu.

Tay người Áo cuốn một điếu thuốc rồi rít như thể đời hắn phụ thuộc cả vào đó.

- Lũ thuộc hạ của Kuçedra đã nhiều lần hăm dọa Mercurio để ngăn gã tiếp tục điều tra, nhưng gã phóng viên lại muốn đóng vai người hùng. Một buổi tối, đội gác tóm được gã ngay tại đây cùng với máy quay của gã. Phần gã đúng là hoàn toàn vô ý thức.

- Gã không đi một mình.

- Đúng vậy, gã mò tới cùng một ả tóc vàng hẳn là trợ lý hay phiên dịch gì đó.

- Các người đã giết họ?

- Chính Verneuil đích thân khử họ. Và không có cách giải quyết nào khác.

- Còn những cái xác?

- Bọn tôi đã chở đến gần Pristina để khiến mọi người tin rằng gã và cô ả kia rơi vào ổ phục kích. Buồn thật đấy, nhưng tôi sẽ không khóc thương họ đâu. Mercurio biết rất rõ những nguy cơ mà gã phải đối đầu khi tới đây.

*

Cô muốn sự thật, Mathilde ạ, vậy thì sự thật là thế đó: cha cô không phải vị bác sĩ xuất sắc và hào hiệp như ông ta mạo xưng. Đó là một tên tội phạm và một kẻ sát nhân. Một con quái vật ghê tởm mà lương tâm phải chịu trách nhiệm trước hàng chục cái chết. Và là kẻ tự tay giết chết người phụ nữ duy nhất mà tôi từng yêu.

*

Khi trở lại Pháp, tôi quyết tâm tiêu diệt Alexandre Verneuil. Nhưng tôi vẫn thong thả sao chép và ghi lại tất cả những lời chứng có được từ Balkan. Tôi rửa và sắp xếp toàn bộ những bức ảnh mà tôi đã chụp, tôi ráp nối những hình ảnh mà tôi ghi lại và điều tra tỉ mỉ về những sân khấu tác chiến khác nơi cha cô từng hoành hành, để hợp thành hồ sơ tố giác chi tiết nhất. Tôi không chỉ muốn Verneuil phải chết, mà còn muốn phơi bày bản chất quái vật của ông ta giữa thanh thiên bạch nhật. Tóm lại, chính xác là điều mà cô ngỡ đang làm với tôi.

Một khi bản cáo trạng hoàn thành, khi thời khắc chuyến sang hành động đã điểm, tôi bắt đầu theo dõi, dò xét ông ta trong từng đường đi nước bước. Tôi không còn biết chính xác mình đã tiến hành việc đó như thế nào. Tôi muốn khổ hình kéo dài, muốn ông ta cảm nhận nỗi đau đến tận cùng. Nhưng thời gian càng trôi thì một lẽ hiển nhiên càng lộ rõ: cuộc báo thù của tôi quá nhẹ nhàng. Khi giết Vemeuil, tôi có nguy cơ biến ông ta thành một nạn nhân và chấm dứt quá nhanh chóng khổ hình mà tôi muốn chứng kiến ông ta chịu đựng.

Ngày 11 tháng Sáu năm 2000, tôi đẩy cửa bước vào nhà hàng Dôme trên đại lộ Montparnasse, nơi cha cô thường xuyên lui tới. Tôi đã để lại cho viên quản lý nhà hàng một bản sao hồ sơ tố cáo của tôi, yêu cầu ông ta chuyển nó lại cho Verneuil. Tôi đã chuồn đi trước khi ông ta nhận ra tôi. Tôi quyết định ngay ngày hôm sau sẽ giao những phát hiện và bằng chứng của mình cho tòa tư pháp và các phương tiên truyền thông. Nhưng trước đó, tôi muốn Verneuil phải sợ chết khiếp. Tôi muốn cho Verneuil biết trước sự thể vài giờ để ông ta có thời gian hình dung ra gọng kìm dang siết lại và chầm chậm nghiền vụn xương ông ta. Vài giờ đau đớn với trọn vẹn ý thức để canh cánh khôn nguôi khi hình dung cơn sóng thần sắp ập xuống tàn phá cuộc đời ông ta, cuộc đời vợ ông ta, cuộc đời hai đứa con ông ta, cuộc đời cha mẹ ông ta. Hủy diệt ông ta.

Trong lúc chờ đợi, tôi về nhà, chẳng biết phải làm gì, và tôi có cảm giác Soizic sẽ chết lần thứ hai.

*

- ZIDANE TỔNG THỐNG! ZIDANE TỔNG THỐNG!

Tôi thức dậy lúc 23 giờ kém - đầm đìa mồ hôi và chộn rộn không yên - bởi các cổ động viên bóng đá đang ăn mừng chiến thắng của đội tuyển Pháp. Tôi đã dành cả buổi chiều để uống nên lúc ấy tâm trí tôi mờ mịt. Nhưng tôi cứ dằn vặt mãi một nỗi lo. Một sinh vật quỷ dữ như Verneuil sẽ phản ứng ra sao? Có ít cơ may ông ta sẽ khoanh tay ngồi đó mà không làm gì. Tôi đã hành động mà không lường trước hậu quả hành vi của mình, chính xác là không nghĩ đến vợ và hai đứa con của ông ta.

Bị xâm chiếm bởi một dự cảm không lành, tôi chạy khỏi nhà. Tôi lấy xe tại bãi đỗ Montalembert rồi băng qua sông Seine tới tận vườn Ranelagh. Khi tới đại lộ Beauséjour, trước tòa nhà nơi cha mẹ cô sống, tôi lập tức hiểu rằng có điều gì đó không bình thường. Cánh cổng điện của ga ra dưới tầng hầm đang mở.

Tôi đưa chiếc Porsche của mình vào bãi đỗ theo lối cầu bộ hành.

Rồi mọi chuyện diễn ra rất nhanh. Trong khi gọi thang máy, tôi nghe thấy hai tiếng súng nổ trên tầng. Tôi chạy vội ra thang bộ rồi leo lên tầng hai. Cửa ra vào mở hé. Đúng lúc bước vào bên trong căn hộ, tôi bắt gặp cha cô đang cầm một khẩu súng săn. Sàn nhà và các mặt tường của sảnh vào ngang dọc những tia đỏ ối. Tôi nhìn thấy xác của mẹ cô và em trai cô ở cuối hành lang. Và cô là người tiếp theo trong danh sách của ông ta. Giống như những kẻ khác trước ông ta, cha cô đã trở thành con mồi của một cơn điên cuồng giết chóc: ông ta tàn sát gia đình mình trước khi tự sát. Tôi lao vào để cố gắng tước vũ khí của ông ta. chúng tôi vật lộn trên sàn nhà và một phát đạn bắn ra đá khiến sọ ông ta nổ tung.

Chính nhờ đó, tôi đã cứu mạng cô mà không hể hay biết.