Chương 14 Hai kẻ thoát nạn từ hư vô
Địa ngục vắng tanh, mọi quỷ dữ đều đang ở đây. William SHAKESPEARE
1.Một loạt tia chớp sáng lóa soi rọi bên trong căn phòng, chẳng bao lâu sau được tiếp nối bởi một tiếng sấm ầm ì. Ngồi bên bàn phòng khách, Mathilde đã đọc xong lời thú tội của Nathan Fawles. Càng đọc, cô càng có cảm giác không thể thở nổi, như thể ô xy trong phòng đang khan hiếm dần và cô sắp có nguy cơ nghẽn mạch máu não.
Để củng cố câu chuyện mình kể, Fawles không chỉ dừng lại ở lời nói. Ông lấy từ một ngăn tủ tường ra những bằng chứng phục vụ điều tra, ba tập hồ sơ dày đóng bìa cứng mà ông đính kèm với tập giấy vừa gõ bằng máy đánh chữ.
Trước mắt Mathilde là minh chứng cho những hành động bạo tàn khủng khiếp của cha cô. Cô cứ đòi biết sự thật, nhưng sự thật khó lòng chịu thấu đang khiến cô bủn rủn tay chân. Tim cô đập dữ dội đến mức các động mạch dường như sắp rách toang. Fawles đã hứa với cô một tia a xít. Ông không chỉ giữ lời, mà còn nhằm thẳng vào đôi mắt.
Cô tự giận bản thân mình. Làm sao cô có thể mù quáng đến mức đó? Suốt thời niên thiếu cũng như từ khi cha mẹ chết đi, cô chưa bao giờ nghiêm túc tự vấn về nguồn gốc tiền bạc của gia đình cô. Căn hộ hai trăm mét vuông trên đại lộ Beauséjour, căn nhà nghỉ mát ở Val-d’Isère, căn nhà nghỉ dưỡng ở mũi Antibes, những chiếc đồng hồ đeo tay của cha cô, phòng thay đồ của mẹ cô, rộng ngang một căn hộ hai phòng. Được xem như phóng viên, cô đã tiến hành những cuộc điều tra tố giác các chính trị gia bị tình nghi lạm dụng tài sản công, những nhân vật bị kết án trốn thuế hay hành vi vô đạo đức của vài lãnh đạo doanh nghiệp, nhưng cô chưa bao giờ cất công điều tra về bản thân mình. Câu chuyện vĩnh cửu về cọng rơm và thanh xà.
Qua cửa kính, cô trông thấy Fawles đã bước ra sân hiên. Bất động, được che chắn khỏi cơn mưa nhờ những mè gỗ của sân trong, ông nhìn đăm đăm về phía chân trời, chú chó Bronco trung thành đứng gác gần ông. Mathilde lại cầm lấy khẩu súng săn mà cô đã để trên bàn trong suốt thời gian đọc. Khẩu súng có phần báng bằng gỗ hồ đào và ổ đạn bằng thép có khắc hình Kuçedra đáng sợ. Khẩu súng đã tàn sát gia đình cô, giờ thì cô đã biết.
Còn bây giờ? Mathilde tự hỏi.
Cô có thể tự bắn một phát đạn vào đầu mình để hoàn thiện bức tranh. Ở chính thời khắc này, hành động đó hiện ra như một sự nguôi khuây. Biết bao lần, cô đã tự trách mình vì không chết cùng em trai. Cô cũng có thể giết Fawles, đốt lời thú nhận cùng hồ sơ điều tra của ông ta để bằng mọi giá bảo vệ ký ức về gia đình Verneuil. Một bí mật gia đình loại này là vết nhơ khiến ta không tài nào gượng dậy nổi. Một cú bộc phá cấm bạn sinh con. Một sự bêu riếu mà ngay khi được công khai, sẽ làm ô uế dòng họ và hậu duệ của bạn đến nhiều thế kỷ sau. Giải pháp thứ ba là giết Fawles và sau đó tự sát để loại trừ tất cả các nhân chứng của vụ này. Vĩnh viễn nhổ tận gốc bệnh hủi “vụ Verneuil”.
Trong đầu cô, những hình ảnh về Théo không buông tha cô. Những ký ức hạnh phúc. Xót xa. Gương mặt thích pha trò của em trai cô toát ra sự tử tế. Cặp kính màu sắc và hàm răng thưa của thằng bé. Théo từng gắn bó với cô đến thế. Thằng bé từng tin tưởng cô đến thế. Mỗi khi sợ hãi - đêm tối, những con quái vật trong truyện cổ tích, những tay anh chị tép riu trong sân chơi của trường cấp hai, - cô thường trấn an Théo và lúc nào cũng nhắc đi nhắc lại với thằng bé rằng đừng sợ, cô vẫn luôn ở đó khi nó cần đến cô. Những lời cam kết mà cô không hề thực hiện bởi vì lần duy nhất nó gặp nguy hiểm thực sự, cô đã không thể làm gì. Tệ hơn, cô chỉ nghĩ đến bản thân mình và đi nấp trong phòng riêng. Cô không sao chịu đựng nổi ý nghĩ ấy. Cô sẽ không bao giờ có thể sống cùng ý nghĩ ấy.
Qua cửa kính, cô trông thấy Fawles vẫn bước xuống cầu thang bộ bằng đá dẫn tới mũi đất nơi tàu Riva được buộc, bất chấp cơn mưa. Trong khoảnh khắc, cô ngỡ ông sắp tìm cách lên tàu, nhưng cô nhớ đã nhìn thấy chùm chìa khóa trong khay dốc túi gần cửa ra vào.
Tai cô ù đi. Trí óc cô sục sôi. Cô chuyển từ suy nghĩ này sang suy nghĩ kia, từ cảm xúc này sang cảm xúc khác. Nói cô chưa từng thắc mắc về gia đình mình thì không hoàn toàn đúng. Ngay từ tuổi lên mười - và có lẽ thậm chí từ trước đó, - cuộc sống của cô đã xen kẽ những thời kỳ chói sáng và những giai đoạn ảm đạm. Những khoảnh khắc cô bị giày vò bởi nỗi lo lắng và chán sống mà cô không rõ nguyên nhân. Sau đó, những cơn rối loạn dinh dưỡng xuất hiện khiến cô hai lần phải nhập viện tới Nhà thiếu niên.
Hiện tại, cô hiểu rằng ngay từ thời ấy, bí mật về cuộc đời hai mặt của cha cô đã mục mủn trong cô. Và nó bắt đầu lây nhiễm sang em trai cô. Quãng đời cô khi ấy bỗng nhiên được soi rọi bằng một thứ ánh sáng mới: vẻ buồn bã của Théo, bệnh hen suyễn, những cơn ác mộng tồi tệ, vẻ tự ti và kết quả học tập giảm sút của thằng bé. Bí mật ở bên trong hai chị em từ thời thơ ấu giống như một chất độc ngấm ngầm giết chết chúng. Dưới lớp vỏ bọc gia đình hoàn hảo, đứa em trai và cô chị gái đã thâu nhận những vùng tối và hơi hướm độc hại. Toàn bộ chuyện ấy diễn ra trong vô thức. Giống như những người có thần giao cách cảm, chúng hẳn đã nắm bất một vài lời tối nghĩa không cần đến ngữ cảnh, một vài thái độ, những ẩn ý, những sự im lặng đã tiêm vào chứng một nỗi lo sợ lan tỏa.
Và mẹ cô thực sự biết gì về những tội ác của chồng mình? Có lẽ không nhiều, nhưng có lẽ Sofia đã thích nghi hơi dễ dàng và không đặt quá nhiều câu hỏi về cuộc sống sung túc của gia đình.
Mathilde cảm thấy cô đang chìm nghỉm: trong vài phút, cô đánh mất mọi dấu mốc, mọi cọc tiêu vốn xác định danh tính cô từ bao lâu nay. Đúng lúc sắp quay vũ khí nhằm vào chính mình, cô đã tuyệt vọng tìm cách bám víu vào điều gì đó, và một chi tiết trong câu chuyện của Fawles thoáng qua tâm trí cô: trình tự ngã xuống của những cái xác. Và bỗng nhiên, Mathilde bắt đầu nghi ngờ phiên bản của nhà văn. Sau chứng quên gặp phải do chấn thương tâm lý, các ký ức trở lại với độ chính xác đáng ngạc nhiên, Và cô chắc chắn rằng cha cô là người đầu tiên thiệt mạng.
2.Tiếng sấm đì đùng rung lắc ngôi nhà khiến nó như thể sắp long ra khỏi vách đá. Mang theo khẩu súng, Mathilde băng qua sân thượng rồi xuống cầu thang bộ để tới chỗ Fawles và con chó của ông gần bến tàu.
Cô bước tới trên phiến đá lớn trải rộng ngay gần mép nước. Nhà văn trú dưới mái che của mặt tiền bằng đá cối đồ sộ, được khoét một loạt các của sổ mờ đục. Lần đầu tiên trông thấy những cửa sổ này, Mathilde đã rất tò mò. Lúc này, cô tự nhủ có lẽ nơi này được dùng làm nhà kho chứa tàu Riva, ngay cả khi vào những ngày mưa bão, một vài con sóng cũng có thể nhấn chìm ụ nổi và dâng tới tận đây.
- Có điều gì đó không khớp trong câu chuyện của ông.
Fawles mệt mỏi xoa bóp gáy.
- Trình tự những cái xác ngã xuống, Mathilde nhấn mạnh. Ông khẳng định rằng trước khi chết, cha tôi đã giết mẹ tôi trước tiên rồi đến em trai tôi.
- Chuyện đã diễn ra như thế đấy.
- Nhưng theo những gì tôi còn nhớ thì hoàn toàn không phải vậy. Khi bị đánh thức bởi phát súng đầu tiên, tôi ra khỏi phòng và trông thấy xác cha tôi trong hành lang. Sau đó tôi mới chứng kiến vụ sát hại mẹ tôi và em trai.
- Cô ngỡ là mình nhớ như vậy thôi. Nhưng kỳ thực, đó chỉ là những ký ức được khôi phục lại.
- Tôi biết mình đã nhìn thấy cái gì!
Fawles có vẻ thông thạo chủ đề này:
- Các ký ức quay trở lại nhiều thập kỷ sau một black-out thường có vẻ bề ngoài chính xác, nhưng chúng không hề đáng tin cậy. Về cơ bản, chúng không sai, nhưng chúng đã bị phá hủy rồi được xây dựng lại.
- Ông là bác sĩ chuyên khoa thần kinh chăng?
- Không, tôi là tiểu thuyết gia và tôi đã đọc vài thứ về chủ đề này. Trí nhớ chấn thương đôi khi vắng mặt, và đó là một điều hiển nhiên. Cuộc tranh luận về cái mà người ta gọi là những “ký ức giả” đã nổi lên suốt nhiều năm liền tại Mỹ. Người ta gọi cái đó là “cuộc chiến ký ức”.
Mathilde tấn công ông trên một mặt trận khác:
- Cuộc điều tra tại Kosovo, tại sao ông lại là người duy nhất từng tiến hành nó?
- Bởi vì bấy giờ tôi đang có mặt tại chỗ, và nhất là vì tôi đã không xin phép ai.
- Nếu việc buôn bán nội tạng này thực sự tồn tại, tất nhiên nó sẽ để lại dấu vết. Các nhà chức trách không thể để một vụ việc như thế chìm xuồng được.
Fawles nở nụ cười rầu rĩ.
- Cô chưa bao giờ tới một thực địa chiến tranh, cũng chưa bao giờ tới Balkan, phải không?
- Đúng thế, nhưng…
- Đúng là đã từng có những mầm mống điều tra, ông ngắt lời cô. Nhưng thời đó, người ta ưu tiên khôi phục một nhà nước pháp quyền bề ngoài chứ không phải khơi lại những vết thương của cuộc xung đột. Vả lại, về mặt hành chính, đó là một mớ bòng bong nan giải. Giữa Unmik Phái bộ Liên Hợp Quốc chịu trách nhiệm quản lý Kosovo lúc bấy giờ và các nhà chức trách Albani, ai cũng muốn đá quả bóng sang chân người khác. TPIY Tòa án Hình sự Quốc tế về Nam Tư cũ với Phái bộ Cảnh sát và Tư pháp châu Âu Eulex cũng vậy. Nguồn thông tin để tiến hành điều tra là hết sức hạn chế. Tôi đã giải thích cho cô biết có được nhiều bằng chứng khớp nhau là việc làm phức tạp đến mức nào cũng như các bằng chứng trong dạng vụ việc này bốc hơi nhanh chóng ra sao. Chưa kể rào cản ngôn ngữ.
Nhìn bề ngoài, Fawles đã có câu trả lời cho mọi chuyện, nhưng Fawles là một nhà văn, vậy nên bản chất là một kẻ nói dối lành nghề - Mathilde vẫn khăng khăng như vậy.
- Tại sao cổng ga ra của tòa nhà nơi cha mẹ tôi sống lại mở vào tối ngày 11 tháng Sáu năm 2000?
Fawles nhún vai.
- Chắc chắn nó đã bị Karim và Apolline phá hoại để lên nhà mấy cụ hưu trí. Lẽ ra cô nên đặt câu hỏi cho hai người ông kiêm kẻ tra tấn của mình.
- Tối hôm đó, sau khi nghe thấy hai tiếng súng nổ, ông vội vàng leo thang bộ lên căn hộ nhà chúng tôi? cô hỏi, tiếp tục lần theo mạch kể của Fawles.
- Đúng thế, cha cô đã để cửa ra vào mở hé.
- Ông thấy chuyện này có logic không?
- Đối với một người đã quyết định giết hại cả gia đình mình thì chẳng còn logic gì đâu!
- Dẫu sao ông cũng đã quên một thứ: tiền.
- Tiền nào?
- Ông khẳng định một phần tiền có được từ việc buôn bán nội tạng được đổ vào một hoặc nhiều tài khoản ở nước ngoài.
- Đúng vậy, đó là điều Carsten Katz nói với tôi.
- Nhưng những tài khoản này ra sao rồi? Tôi là người thừa kế duy nhất của cha tôi và tôi chưa từng nghe nhắc đến chúng.
- Đây là nguyên tắc bảo mật của ngân hàng và độ thiếu minh bạch của loại hệ thống này, tôi thấy có vẻ như vậy.
- Thời đó thì tôi đồng ý, nhưng kể từ đó, người ta đã dọn dẹp đôi chút trong các thiên đường thuế khóa rồi mà.
- Số tiền này phải nằm ngủ đâu đó, tôi hình dung vậy.
- Còn những lá thư của Soizic?
- Gì kia?
- Chúng làm cái quái gì trong tủ quần áo của mẹ tôi?
- Cha cô hẳn đã tìm thấy chúng trên xác của Soizic.
- Đồng ý, nhưng đó là một bằng chứng nguy hiểm. Tại sao ông ấy lại mạo hiểm cất giữ chúng?
Fawles không chút bối rối:
- Bởi vì chúng tuyệt hay. Bởi vì, trong thể loại của chúng, chúng hợp thành một kiệt tác văn chương thư tín.
- Khiêm tốn ơi, chào mi…
- Sự thật ơi, chào mi.
- Nhưng tại sao ông ấy lại giao chúng cho mẹ tôi, người không biết tí gì về cuộc sống hai mặt của ông ấy?
Lần này, Fawles tắc tị, ý thức rằng phiên bản của mình đã sụp đổ. Và Mathilde đã lách qua khe hở.
3.Cơn giông chán sống và tự sát đã qua đi. Mathilde lại trở về là chính cô. Hay đúng hơn là Mathilde mà cô yêu thích. Mathilde rực lửa và bùng cháy, ngay từ khi còn bé đã vô cùng bướng bỉnh và vượt qua nhiêu chướng ngại vật, bằng bất cứ giá nào. Cô vẫn đó, còn sống, sẵn sàng chiến đấu. Chỉ còn thiếu việc đánh bật kẻ thù nữa thôi.
- Tôi không nghĩ là ông vừa kể với tôi sự thật, Nathan ạ. Tôi chắc chắn đã trông thấy xác của cha tôi trong hành lang trước khi mẹ tôi và Théo mất mạng.
Lúc này, ký ức là một ánh sáng chói lòa trong tâm trí cô. Rõ ràng, chắc chắn, chuẩn xác.
Cơn mưa đã gần tạnh. Fawles rời khỏi chỗ trú và tiến vài bước trên ụ nổi, hai bàn tay thọc túi. Lũ chim cốc và hải âu lượn vòng trên bầu trời và thốt lên những tiếng kêu đáng sợ.
- Tại sao ông lại nói dối tôi? Mathilde hỏi đoạn ra chỗ ông trên sàn cập bến.
Fawles nhìn vào mắt cô. Ông không bị khuất phục, ông chỉ đang nhẫn nhịn.
- Cô nói đúng. Phát đạn đầu tiên được bắn ra tối hôm đó đã thực sự giết chết cái người mà cô nhìn thấy trong hành lang, nhưng đó không phải cha cô.
- Đúng mà!
Ông lắc đầu rồi nheo mắt.
- Cha cô quá cẩn trọng, quá tỉ mỉ nên đã dự tính toàn bộ chuyện này. Sau những chuyện khủng khiếp mà ông ta nhúng tay vào, ông ta ngờ rằng một ngày nào đó sẽ phải chứng kiến cuộc sống của mình đảo lộn. Để phòng trước cơn đại hồng thủy ấy, ông ta đã tính trường hợp phải thoát thân trong ngày một ngày hai.
Mathilde bàng hoàng.
- Để đi đâu?
- Alexandre Verneuil dự định làm lại cuộc đời dưới một danh tính khác, chính vì lý do này mà các tài khoản ở nước ngoài không đứng tên ông ta mà là tên hóa thân của ông ta.
- Ông đang nói về ai vậy? Cái xác trong hành lang đó là ai hả Nathan?
- Ông ta tên là Dariusz Korbas. Đó là một người Ba Lan sống trên phố cùng con chó của ông ta. Cha cô đã phát hiện ra ông ta trên đại lộ Montparnasse một năm trước. Tuổi tác tương đương, hình thể tương đương với cha cô. Verneuil lập tức hiểu ra mình có thể trục lợi những gì. Ông ta bắt chuyện với Korbas, hẹn hôm sau gặp lại và tìm cho người kia một chỗ trong nhà tình thương.
Gió bắt đầu chuyến hướng, buộc mưa phải trút những giọt cuối cùng,
- Verneuil thường mời Dariusz tới nhà hàng, Fawles giải thích. Ông ta đưa cho người kia những bộ quần áo mình không mặc nữa và tạo điều kiện để người kia được chăm sóc y tế. Không chút nghi ngờ về những dự định cha cô nung nấu trong đầu, bản thân mẹ cô đã nhiều lần khám chữa miễn phí cho người kia trong phòng khám răng của mình.
- Nhưng ông ấy thu xếp toàn bộ chuyện này nhằm mục đích gì?
- Để Dariusz có thể thế chỗ ông ta khi Verneuil cho là đã đến thời điểm diễn màn tự tử.
Mathilde cảm thấy chao đảo, như thể ụ nổi bằng gỗ đang sập xuống.
Fawles tiếp tục:
- Ngày 11 tháng Sáu năm 2000, Verneuil yêu cầu Dariusz Korbas ghé qua gặp ông ta ít lâu trước nửa đêm và mang theo túi xách du lịch cá nhân, viện cớ sẽ lái xe đưa Dariusz lên Fleuron Saint Jean.
- Fleuron Saint Jean sao?
- Đó là một chiếc sà lan neo đậu ở bến Javel, nó đã biến thành nhà trú chân nơi những người vô gia cư có thể ở cùng chó của họ. Kế hoạch của cha cô rất đơn giản: giết Korbas trước khi khử các vị, mẹ cô, em trai cô và cô. Và đó là điều đã diễn ra. Khi Dariusz xuất hiện, cha cô đã nhờ mẹ cô pha cho ông ta một tách cà phê. Ông ta tranh thủ quãng thời gian đó để lục lọi đồ đạc của người kia. Rồi, đúng vào lúc lên đường tới chỗ ở mạo xưng kia, Verneuil đã bắn vào mặt người kia ở cự ly gần.
Mathilde lập tức phản đối: cô còn nhớ rất rõ rằng xác của cha cô đã được nhận dạng.
- Chính xác, Fawles tán thành. Ngày hôm sau, cái xác đã được ông nội cô, Patrice Verneuil, và bà nội cô, nhận dạng. Nhận dạng trong tâm trạng đau khổ và bối rối, để hoàn thành một thủ tục thì đúng hơn là để ngăn chặn một cái bẫy mà chẳng ai nghĩ đến.
- Còn cảnh sát?
- Họ đã tiến hành công việc của mình một cách chu đáo: phân tích hàm răng của xác chết, so sánh ADN thu được trên một chiếc lược và bàn chải đánh răng tìm thấy trong phòng tắm của cha cô.
- Chiếc lược và bàn chải đánh răng thuộc về Dariusz, Mathilde phỏng đoán.
Fawles gật đầu:
- Cái túi du lịch dùng chính vào việc đó.
- Còn hàm răng thì sao?
- Đó là chi tiết khó nhất để qua mặt nhưng cha cô đã dự liệu mọi chuyện: vì cả hai người, ông ta và Dariusz, đều được chăm sóc răng tại phòng khám của mẹ cô, ông ta chỉ cần tráo đổi vào buổi chiều cùng ngày hai tấm phim chụp toàn cảnh răng để lừa gạt các kỹ thuật viên bên pháp y.
- Còn những lá thư gửi Soizic? Tại sao ông ấy lại bỏ vào tủ quần áo của mẹ tôi?
- Để khiến các nhà điều tra tin rằng mẹ cô có một người tình. Và rằng sự lừa dối của vợ ông ta là nguyên nhân của vụ thảm sát. Chữ cái đầu S. sẽ tiện cho hướng suy diễn này.
Fawles giũ tóc để gạt đi những giọt nước mưa. Đến lượt quá khứ quay trở lại vây hãm ông và ông vẫn luôn khó khăn khi đối diện với nó.
- Khi tôi tới căn hộ, cha cô đã giết Dariusz Korbas, mẹ cô và em trai cô. Ông ta đã để cửa mở, đúng thế, chắc chắn là để có thể chạy trốn dễ dàng hơn. Nhưng trước đó, cô mới là người ông ta định giết trước, giờ thì tôi dám chắc như vậy. Tôi đã vật lộn để tước vũ khí của ông ta và phang nhiều cú báng súng vào mặt ông ta để ông ta không thể gây hại nữa. Rồi tôi ngó qua phòng cô, nhưng tôi không nhìn thấy ai.
- Chính vì thế mà tôi nhận ra đôi bốt của ông.
- Sau đó, tôi quay trở lại phòng khách. Cha cô đã bị thương, bất tỉnh nhân sự, nhưng vẫn còn sống. Tôi thì choáng váng bởi những gì mình vừa trải qua. Chỉ mãi sau này tôi mới hiểu được đã xảy ra chuyện gì. Trong cơn hăng, cuối cùng tôi đã quyết định lôi theo Verneuil đang bất tỉnh đi xuống bằng thang máy. Tới bãi đỗ xe, tôi vác ông ta vào tận trong xe rồi đặt ông ta ngồi lên ghế phụ lái.
Giờ thì Mathilde đã hiểu tại sao Apolline Chapuis lại thề là nhìn thấy hai người trong chiếc Porsche của nhà văn.
- Tôi rời tòa nhà rồi nhằm hướng bệnh viện mà tôi cho là gần nhất: Ambroise-Paré ở Boulogne-Billancourt. Nhưng khi chỉ còn cách khoa cấp cứu vài mét, tôi đã đi tiếp mà không dừng lại. Tôi đã lái xe suốt đêm: ngoại vi, đường A6 rồi đường Provence tới tận Toulon. Tôi không thể quyết định để Verneuil được chăm sóc y tế. Ông ta không thể là người duy nhất còn sống bước ra khỏi tấn thảm kịch trong khi ông ta là người duy nhất phải chịu trách nhiệm về nó.
4.- Tôi tới Hyères lúc sáng tinh mơ. Giữa lúc đó, Vcrneuil đã lơ mơ tỉnh lại, nhưng tôi đã trói gô ông ta bằng hai sợi dây an toàn.
Fawles bắt đầu nói chuyện giống như cách ông phải lái xe đêm hôm đó: nhanh và không ngừng nghỉ.
- Tôi tiếp tục lộ trình của mình về phía cảng Saint-Julien-les-Roses nơi tôi có chiếc tàu riêng. Tôi chất Verneuil lên Riva, rồi lái tàu tới tận đây. Tôi muốn tự tay giết ông ta, như từng dự định khi trở về từ Kosovo. Đáng ra tôi nên làm vậy, điều này có lẽ sẽ giúp ngăn chặn cuộc tàn sát mà tôi vừa tham dự. Nhưng tôi đã không lập tức chuyển sang hành động. Tôi không muốn cái chết này quá nhẹ nhàng, tôi muốn nó chậm rãi, khủng khiếp, thảm đạm.
Fawles bước đi, lại gần nhà kho chứa tàu. Lúc này, có vẻ như ông đang lên cơn sốt:
- Để trả thù cho cái chết của Soizic và tất cả những cái chết mà Verneuil đã dính líu, tôi có nhiệm vụ phải đẩy hắn xuống địa ngục. Nhưng địa ngục đúng nghĩa không phải một phát đạn vào đầu hay một nhát dao trúng tim. Địa ngục đúng nghĩa là địa ngục dai dẳng, nỗi đau đớn chung thân, cùng sự trừng phạt ấy không ngừng giáng xuống. Truyền thuyết về Prometheus.
Mathilde vẫn không hiểu Fawles muốn đi đến đâu.
- Tôi đã giam giữ Verneuil tại Nam Thập Tự, ông nói tiếp, và sau khi cưỡng đoạt từ ông ta những câu trả lời mình còn thiếu, tôi không nói chuyện với ông ta nữa. Tôi nghĩ có thể thỏa mãn cuộc trả thù của mình dài lâu, một cuộc trả thù xứng đáng với nỗi đau mà tôi cảm thấy. Và nhiều ngày trôi qua, rồi nhiều tuần, nhiều tháng, nhiều năm. Những năm ròng cô đơn và cô lập. Những năm ròng sám hối và tra tấn, sau tất cả, chỉ để thu về một ghi nhận kinh khủng: sau ngần ấy thời gian, tù nhân thực sự không phải là Verneuil, mà là tôi. Tôi đã trở thành cai ngục của chính mình…
Bàng hoàng, Mathilde lùi lại một bước, chấn động trước sự thật khủng khiếp: Nathan Fawles đã giam giữ cha cô trong kho chứa tàu suốt nhiều năm. Trong phần này của tòa nhà, được bảo vệ bởi những cửa sổ mờ đục, nơi không bao giờ có ai đặt chân tới.
Cô nhìn kỹ boat house hòa lẫn vào vách đá. Lối vào có thể tạo nên bởi một lỗ cửa ngách chật hẹp hoặc một cánh cửa lớn bằng kim loại, như người ta thường thấy trên các ga ra. Cô nhìn Fawles, tìm kiếm một sự xác nhận. Nhà văn lấy từ túi áo ra một chiếc điều khiển từ xa nhỏ rồi chĩa vào cánh cửa. Cánh cửa chầm chậm mở ra theo chiều dọc trong một âm thanh chói tai.
5.Gió ùa vào hang ổ của con quái vật rồi cuộn xoáy quay cuồng trong đó, cuốn theo mùi khủng khiếp của đất nung, lưu huỳnh và nước tiểu.
Gom góp chút sức lực và quyết tâm còn lại, Mathilde tiến đến đối diện vực sâu trong cuộc đối chất cuối cùng. Cô tháo chốt an toàn rồi kẹp chặt nòng súng vào người. Gió quất vào mặt cô, nhưng sự mát mẻ này khiến cô dễ chịu.
Cô chờ hồi lâu. Một âm thanh kim loại rít lên hòa với tiếng gió mistral. Hang ổ của Kuçedra chìm trong bóng tối. Âm thanh dây xích khuếch đại, rồi con quỷ từ bóng tối hiện ra.
Alexandre Verneuil không còn hình dạng con người. Da hắn xám ngoét, khô đanh và đóng thành vân đá như da bò sát, mái tóc trắng của hắn tạo thành một cái bờm dày đáng sợ, móng tay hắn sắc nhọn và dài như móng vuốt, còn khuôn mặt hắn thâm sì, chi chít mụn mủ, bị chọc thủng bởi hai khe nứt: đôi mắt điên dại và long sòng sọc.
Mathilde cảm thấy bủn rủn tay chân trước con quái vật trước đây vốn là cha cô. Trong vài giây, cô lại trở thành bé gái khiếp hãi trước đàn sói và lũ yêu tinh. Cô nuốt nước bọt. Đúng lúc cô hạ vũ khí xuống, một khoảng trống trên bầu trời khiến những đường khắc mảnh trang trí nòng súng ánh lên: một con Kuçedra mắt bạc đắc chí dang rộng đôi cánh khổng lồ. Cơ thể cô không ngừng run rẩy. Cô bám vào báng súng, nhưng…
*
- Mathilde! Em sợ!
Một giọng nói chuyển điệu vang lên từ miền đất tuổi thơ. Một ký ức xưa cũ lang thang trong một góc tâm trí cô. Mùa hè năm 1996. Vũng bờ đá Rặng Thông, cách đây vài cây số. Gió ấm, bóng thông, hương khuynh diệp nồng nàn. Tràng cười của Théo. Bấy giờ thằng bé bảy tuổi. Nó đã một mình leo lên nấc cao nhất Mũi Mỏm Đá, đảo đá nhỏ nổi lên đối diện bãi biển. Và lúc này, nó không còn tin chắc là sẽ dám lao xuống nước. Cách vài mét bên dưới, Mathilde đang bơi trong làn nước màu lam ngọc. Đầu nghển lên, hướng về phía mỏm núi đá, cô hét to cổ vũ em:
- Nào, Théo! Em là người mạnh nhất!
Vì thằng em vẫn lưỡng lự, cô vẫy tay về phía nó rồi hét lên với nó, bằng toàn bộ sức mạnh của niềm tin nơi cô:
- Cứ tin ở chị!
Những lời thần diệu. Những lời không nên nói bộp chộp. Những lời khiến Théo bỗng như tìm lại được nụ cười cùng đôi mắt sáng lấp lánh. Thằng bé lấy đà, chạy, rồi lao người xuống biển. Hình ảnh ngưng đọng trong khi thằng bé vẫn còn lơ lửng trên không trung, như một tên cướp biển áp mạn thuyền tấn công, chính là một khoảnh khắc nhẹ nhàng, hạnh phúc, nhưng đã mang trong mình nỗi hoài niệm riêng. Khoảnh khắc được bảo toàn khỏi tất cả những gì sẽ trở thành cuộc sóng sau này: gánh nặng, u buồn, đau đớn.
*
Ký ức vỡ vụn rồi rốt cuộc cũng tan loãng trong nước mắt.
Mathilde lau má và tiến về phía con rồng. Con quỷ đang run rẩy trước mắt cô chẳng còn vẻ gì tàn ác hay hăm dọa. Đó là một hình hài co quắp gớm ghiếc với đôi cánh đã gãy đang lê lết trên phiến đá lát như một kẻ thân tàn ma dại gầy mọn. Một quái vật mù lòa bởi ánh sáng ban ngày.
Gió mistral thổi điên cuồng.
Mathilde không run rẩy nữa.
Cô tì khẩu súng vào vai.
Bên tai cô, bóng ma Théo thì thầm.
Cứ tin ở em.
Trời không mưa nữa. Gió bắt đầu thổi bạt mây đi.
Chỉ có một phát súng.
Một tiếng nổ đanh và mau đập vào bầu trời nhạt sắc.