← Quay lại trang sách

ĐOẠN KẾT “Cảm hứng đến từ đâu?”

Lời chú bên lề cho Cuộc sống bí mật của các nhà văn do Guillaume Musso viết

Mùa xuân năm ngoái, ít lâu sau khi xuất bản cuốn tiểu thuyết mới của mình, tôi được mời tham dự một buổi ký tặng tại hiệu sách duy nhất trên đảo Beaumont; Sau khi chủ cũ qua đời, La Rose Écarlate khi ấy vừa được một cặp đôi chủ hiệu sách người Bordeaux mua lại. Hai người phụ nữ trẻ nhiệt tình muốn hiện đại hóa và hồi sinh cửa hiệu cũ này và muốn tôi trở thành người đỡ đầu cho dự án đó.

Trước kia tôi chưa từng đặt chân tới Beaumont và không biết gì nhiều về địa lý của nó. Trọng tâm trí tôi, hòn đảo có phần giống với đảo Porquerolle. Tuy nhiên tôi vẫn nhận lời, vì các chủ hiệu sách rất dễ mến và tôi biết Beaumont là nơi Nathan Fawles, nhà văn tôi yêu thích, từng sống suốt gần hai chục năm.

Ở đâu tôi cũng đọc được rằng dân đảo rất đa nghi và không mấy niềm nở, nhưng buổi hội thảo và ký tặng đã diễn ra thực sự ấm cúng và thật dễ chịu khi trò chuyện với người dân đảo Beaumont. Mỗi người đều có giai thoại riêng để kể và tôi cảm thấy thoải mái khi ở cùng họ. “Các nhà văn luôn được chào đón tại Beaumont”, hai chủ hiệu sách cam đoan với tôi như vậy. Họ đã đặt cho tôi một phòng trọ đẹp như tranh ở phía Nam đảo để nghỉ dịp cuối tuần, chỗ này gần một tu viện nơi cộng đồng nữ tu dòng Benedict sinh sống.

Tôi tranh thủ hai ngày này để sải bước ngang dọc khắp đảo và nhanh chóng phải lòng cái mẩu nước Pháp mà không hẳn là Pháp này. Một dạng Côte d’Azur vĩnh cửu, không du khách, không lòe loẹt, không ô nhiễm hay bê tông. Tôi không đành lòng rời đảo. Tôi quyết định kéo dài kỳ lưu trú của mình và bắt đầu tìm một ngôi nhà nhỏ để mua hoặc thuê. Chính nhờ thế mà tôi biết được rằng trên đảo Beaumont không có văn phòng môi giới nhà đất: một phần tài sản được chuyển giao trong nội bộ gia đình và phần còn lại thông qua tuyển lựa bổ sung. Chủ phòng trọ của tôi, một cụ bà người Ailen tên Colleen Dunbar, khi nghe tôi chia sẻ về dự định của mình, đã nói với tôi về một ngôi nhà có khả năng đang đăng bán: Nam Thập Tự, ngôi nhà từng thuộc về Nathan Fawles. Bà giúp tôi liên lạc với người được ủy quyền giao dịch.

Đó là Jasper Van Wyck, một trong những huyền thoại mới đây của giới xuất bản New York. Van Wyck từng là người đại diện của Fawles và các tác giả quan trọng khác. Ông đặc biệt nổi tiếng vì đã cho phép xuất bản cuốn Loreleï Strange trong khi cuốn tiểu thuyết đã bị phần lớn các nhà xuất bản ở Manhattan từ chối. Mỗi khi trên báo chí xuất hiện một bài viết về Fawles, người đứng ra trả lời thay luôn là Van Wyck nên tôi tự hỏi mối quan hệ giữa hai người đàn ông này là thế nào. Trước khi hoàn toàn im hơi lặng tiếng, Fawles gây cảm tưởng là ông ghét cả thế giới: giới phóng viên, giới xuất bản và thậm chí là những đồng nghiệp viết văn của ông. Khi tôi gọi cho Van Wyck, ông đang nghỉ hè tại Ý, nhưng ông vẫn nhận lời gián đoạn kỳ nghỉ một ngày để tôi có thể tham quan Nam Thập Tự.

Cuộc hẹn được lên lịch và ngày hôm sau, Jasper tới đón tôi tại nhà Colleen Dunbar trên một chiếc Mini Moke màu rằn ri do ông thuê. Vóc dáng tròn trịa và hiền lành, người dại diện này khiến tôi nhớ tới Peter Ustinov(24) khi vào vai thám tử Hercule Poirot(25) quần áo phong cách công tử bột kiểu cũ, ria mép vểnh cong, ánh nhìn tinh quái.

Ông lái xe đưa tôi tới tận mũi Safranier, rồi mạo hiểm tiến vào bên trong một bãi đất hoang rộng nơi mùi gió phơn vùng biển hòa trộn với hương khuynh diệp và bạc hà Âu. Con đường quanh co trên một đoạn dốc đứng và biển bỗng hiện ra cùng lúc với ngôi nhà của Nathan Fawles, một hình hộp tạo nên từ đá hoàng thổ, kính và bê tông.

Tôi lập tức bị quyến rũ. Tôi đã luôn mơ ước được sống tại một nơi như vậy: một biệt thự cheo leo nơi vách đá với màu xanh hút mắt đến cuối chân trời, tôi hình dung lũ trẻ chạy trên sân thượng, tôi hình dung phòng làm việc của mình đối diện biển, nơi tôi viết những tiểu thuyết không chút khó khăn, như thể vẻ đẹp của cảnh vật có thể là nguồn gốc của một cảm hứng bất tận. Nhưng Van Wyck đòi cả một gia tài, và ông nói rằng tôi không phải là khách hàng duy nhất vào thời điểm đó. Một doanh nhân vùng Vịnh đã tới đây thăm thú nhiều lần và đã đưa ra một đề nghị chắc chắn. “Sẽ rất tiếc nếu bỏ lỡ cơ hội, Jasper bảo tôi, ngôi nhà này được xây nên để làm chỗ ở cho một nhà văn.” Dù không thực sự biết ngôi nhà dành cho một nhà văn là như thế nào, nhưng tôi đã sợ bỏ lỡ cơ hội sở hữu nó đến mức tôi nhượng bộ trước khoản chi điên rồ kia.

*

Tôi dọn tới Nam Thập Tự vào cuối mùa hè. Căn nhà vẫn ổn thỏa, nhưng xứng đáng được sửa sang lại chỉn chu. Thật đúng lúc, tôi đang cần sử dụng mười ngón tay mình vào việc gì đó lần nữa. Tôi bèn bắt tay vào nhiệm vụ. Ngày nào tôi cũng dậy từ 6 giờ sáng rồi viết tới tận giờ ăn trưa. Buổi chiều được dành cho công việc tu bổ căn biệt thự: sơn sửa, hệ thống đường ống nước, điện. Ban đầu, sống tại Nam Thập Tự có phần khiến người ta e sợ. Van Wyck đã bán cho tôi căn nhà có sẵn đồ đạc nên bất kể tôi làm gì thì bóng ma của Fawles cũng lảng vảng khắp nơi: nhà văn từng dùng bữa sáng đặt trên chiếc bàn này, từng nấu nướng trong cái lò này, từng uống cà phê trong chiếc tách này. Khá nhanh chóng, tôi trở nên bị ám ảnh bởi Fawles và tự hỏi liệu ông có hạnh phúc trong căn nhà này không và tại sao cuối cùng ông lại quyết định bán nó đi.

Dĩ nhiên, ngay từ cuộc gặp gỡ đầu tiên giữa chúng tôi, tôi đã đặt câu hỏi này cho Van Wyck nhưng bất chấp bản tính nhã nhặn của mình, ông đã không ngần ngại trả lời tôi rằng chuyện đó không liên quan tới tôi. Tôi hiểu nếu tôi mạo hiểm đặt câu hỏi thêm lần nữa, ngôi nhà này sẽ không bao giờ là của tôi. Tôi đọc lại ba cuốn tiểu thuyết của Fawles, tải tất cả những bài viết mà tôi có thể tìm ra về ông, và nhất là, dành thời gian trò chuyện với những người dân đảo từng gặp ông. Người dân Beaumont dựng nên một chân dung nhà văn bằng toàn những lời ca tụng. Dĩ nhiên, ông bị coi là người có phần ưu sầu luôn dè chừng du khách và dứt khoát từ chối chụp ảnh hoặc trả lời những câu hỏi về các tác phẩm ông viết, nhưng với người bản xứ, Fawles luôn lịch thiệp và nhã nhặn. Khác xa hình ảnh kẻ đơn độc cục cằn của mình, ông không hề thiếu tính hài hước, đúng ra là khá dễ gần và thường lui tới La Fleurs du Malt, quán rượu trên đảo. Việc ông đột ngột dọn đi khiến phần lớn mọi người bất ngờ. Vả chăng hoàn cảnh ông rời đi cũng không được rõ ràng cho lắm, ngay cả khi tất cả mọi người đều nhất trí công nhận rằng mùa thu trước đó, Fawles đã bất thình lình biến mất sau khi gặp một nữ phóng viên người Thụy Sĩ tới nghỉ trên đảo. Một phụ nữ trẻ đã bắt liên lạc với ông bằng cách đem trả con chó của ông, một chú chó giống golden retriever mang tên Bronco, nhiều ngày trước đó bị mất tích. Không ai thực sự biết thêm gì khác, và ngay cả khi người ta không bày tỏ công khai thì tôi vẫn cảm thấy rõ ràng rằng dân đảo có phần thất vọng khi Fawles đi khỏi mà không nói lời tạm biệt họ. “Đó là bản tính rụt rè của các nhà văn”, tôi giải thích nhằm bênh vực ông. Nhưng tôi không biết liệu họ có tin lời tôi hay không.

*

Mùa đông tới.

Tôi kiên trì tiếp tục công việc sửa chữa ngôi biệt thự vào buổi chiều trong khi buổi sáng vẫn làm việc với cuốn sách viết dở của mình. Nói đúng ra, tôi viết không nhiều. Tôi đã bắt đầu viết một cuốn tiểu thuyết, Sự rụt rè của những đỉnh cao, và bấy giờ tôi đang khó nhọc hoàn thành nó. Cái bóng sừng sững của Fawles đi theo tôi khắp nơi. Thay vì viết, tôi dành trọn các buổi sáng để tiến hành tìm kiếm về ông. Tôi lần lại dấu vết của nữ phóng viên người Thụy Sĩ - cô tên là Mathilde, ở tòa soạn của cô, người ta cho tôi biết cô đã xin thôi việc, nhưng tôi không biết được gì thêm. Tôi lần ngược tới cha mẹ cô ở tổng Vaud. Họ trả lời tôi rằng con gái họ vẫn ổn và sẽ cho tôi gặp.

Về phần công việc sửa sang, mọi thứ may mắn tiến triển với nhịp độ nhanh hơn. Sau khi cải tạo xong các phòng chính, tôi chuyển sang các phần phụ, bắt đầu bằng kho chứa tàu, hẳn là nơi tàu Riva của Fawles từng nằm. Jasper đã tìm cách bán con tàu cho tôi, nhưng tôi không biết làm gì với một con tàu như thế nên từ chối. Boat house là nơi duy nhất của ngôi nhà mà tôi thấy chất chứa ám khí. Âm u, lạnh lẽo, buốt giá. Tôi đã bố trí lại ánh sáng bằng cách phục hồi những khung cửa sổ đẹp đẽ hình ô van khá giống cửa sổ máy bay trước đây từng bị bít kín. Vẫn chưa thỏa lòng, tôi phá đi nhiều bức tường lửng từng khiến căn phòng như bị thu hẹp lại. Tại một trong những công trình xây bằng gạch đá này, tôi kinh ngạc khi thấy xuất hiện những mảnh xương được đúc lẫn trong bê tông.

Ngay lúc ấy, tôi phát hoảng. Những mảnh xương này liệu có phải xương người không? Ngôi nhà được xây dựng từ khi nào? Lẽ nào Fawles đã bị lôi kéo vào một vụ giết người?

Nhưng đặc thù của các tiểu thuyết gia chính là gặp chuyện gì cũng bé xé ra to. Tôi ý thức được điều ấy và quyết định trấn tĩnh.

Mười lăm ngày sau, khi bình tâm trở lại đôi chút, tôi lại có được một khám phá khác - lần này là trong một xó xỉnh của mái nhà. Một chiếc máy chữ hiệu Olivetti màu xanh hạnh nhân cùng một tập hồ sơ đóng bìa cứng chứa vài trăm trang đầu của thứ giống như một cuốn tiểu thuyết viết dở của Fawles.

Đã lâu rồi tôi mới phấn khích đến vậy, tôi quay xuống phòng khách với kho báu đó kẹp dưới cánh tay. Đêm đã buông và căn nhà lạnh buốt. Tôi nhóm một ngọn lửa trong lò sưởi treo chễm chệ giữa phòng rồi rót cho minh một ly Bara No Niwa - Fawles đã để lại trong quầy bar hai chai rượu whisky mà ông yêu thích. Rồi tôi ngồi vào chiếc ghế bành đối diện biển để đọc những trang giấy được thảo bằng máy đánh chữ. Lần đầu tiên đọc lướt thật nhanh rồi thêm lần thứ hai nhằm thưởng thức trọn vẹn bản văn. Đó là một trong những kỷ niệm đọc đáng chú ý nhất cuộc đời tôi. Khác biệt, nhưng có thể so sánh về độ mãnh liệt với ký ức tôi có ở độ tuổi thơ ấu và niên thiếu khi khám phá ra Ba chàng lính ngự lâm, Anh Meaulnes hay Hoàng tử thủy triều. Đây là những trang đầu tiên của Một mùa hè bất khả chiến bại, cuốn tiểu thuyết Fawles viết dở trước khi ngừng viết. Có thể đặc biệt tìm ra dấu vết về nó trong cuộc phỏng vấn sau cùng ông trả lời AFP. Tác phẩm có vẻ là một cuốn tiểu thuyết trường kỳ theo khuynh hướng nhân văn chủ nghĩa, dựa trên một loạt các nhân vật với những bước biến chuyển suốt gần bốn năm diễn ra cuộc vây hãm Sarajevo. Những gì tôi được đọc chỉ là phần mở đầu - một bản văn thô mộc, không sửa chữa, không trau chuốt -, nhưng là sự nhen nhóm một ngọn lửa sáng rực, thừa sức xứng tầm những gì Fawles từng viết cho tới thời điểm đó.

Trong những ngày tiếp theo, mỗi sáng tôi đều thức dậy với cảm giác mạnh mẽ trong tâm thức, thầm nhắc đi nhắc lại với bản thân rằng tôi có đặc quyền trở thành người có lẽ là duy nhất trên thế giới được tiếp cận bản văn ấy. Nhưng khi cơn ngây ngất đó tiêu tan, tôi lại thắc mắc lý do Fawles bỏ dở bản thảo giữa chừng. Phiên bản mà tôi đọc đề tháng Mười năm 1998. Cuốn tiểu thuyết đã được triển khai rất tuyệt.

Fawles hẳn là hài lòng với tác phẩm của mình. Dĩ nhiên đã bất ngờ xảy ra điều gì đó trong cuộc đời ông để ông đột ngột từ bỏ việc viết văn như vậy. Một cơn trầm cảm nặng? Một chuyện tình thui chột từ trong trứng nước? Mất đi một người thân yêu? Quyết định này có liên quan gì tới những mảnh xương mà tôi tìm thấy trong tường của nhà kho chứa tàu không?

Để tìm hiểu rõ ngọn ngành, tôi quyết tâm giao chúng cho một chuyên gia. Vài năm trước, khi tiến hành các nghiên cứu cho một cuốn tiểu thuyết trinh thám, tôi đã gặp Frédérique Foucault, một nhà nhân chủng học tư pháp chuyên phân tích hiện trường tội ác. Bà đề nghị tôi qua gặp bà tại phòng làm việc riêng thuộc Inrap(26) tại Paris. Tôi tới phố Alésia với một chiếc va li nhỏ bằng nhôm trong đó tập hợp một bộ mẫu các mảnh xương. Nhưng đến phút cuối, trong đại sảnh rộng lớn, tôi đã từ bỏ ý định và rời khỏi đó. Tôi sẽ nhân danh cái gì đây để chuốc lấy nguy cơ bôi nhọ cuộc sống của Fawles? Tôi không phải thẩm phán cũng chẳng phải phóng viên. Tôi là tiểu thuyết gia. Tôi cũng là một độc giả của Fawles, và ngay cả khi điều này thật ngây thơ, tôi vẫn tin chắc tác giả của Loreleï Strange và Những kẻ bị sét đánh không phải một gã đểu cáng hay một tên sát nhân.

*

Tôi vứt bỏ những mảnh xương rồi tới New York gặp Jasper Van Wyck, trong phòng làm việc nhỏ ngập bản thảo của ông tại tòa nhà Flatiron. Bốn mặt tường giăng kín những bản tranh khắc bằng mực màu nâu đen tái hiện cảnh giao đấu giữa những con rồng gớm ghiếc và hăm dọa lẫn nhau.

“Một phúng dụ về thế giới xuất bản chăng?” tôi hỏi.

“Hay là thế giới của các nhà văn”, ông lập tức phản công.

Bấy giờ, chỉ còn một tuần nữa là đến Giáng sinh. Tâm trạng đang vui nên ông mời tôi cùng ăn hàu tại nhà hàng Pearl Oyster Bar trên phố Cornelia.

“Tôi hy vọng ông vẫn hài lòng với ngôi nhà? ông hỏi tôi. Tôi gật đầu, nhưng cũng nói cho ông biết về công việc sửa sang và những mảnh xương tôi đã tìm thấy khi phá một bức tường của nhà kho chứa tàu. Đang ngồi chống khuỷu tay xuống quầy, Jasper khẽ nhíu mày, mặc dù phần còn lại của gương mặt ông vẫn kín như bưng. Ông rót cho tôi một cốc vang Sancerre đoạn bảo tôi rằng ông biết tường tận kiến trúc của Nam Thập Tự, nó được xây dựng từ thập niên 1950 đến 1960, nghĩa là rất lâu trước khi Fawles mua nó, và những mảnh xương này chắc chắn là xương bò hay xương chó gì đó thôi.

“Đó không phải khám phá duy nhất của tôi,” tôi nói đoạn kể với ông về mấy trăm trang của Một mùa hè bất khả chiến bại. Thoạt tiên, Jasper còn ngỡ tôi đùa, rồi ông có chút ngờ vực. Bấy giờ tôi lấy từ trong cặp của mình ra mười trang bàn thảo đầu tiên. Van Wyck đọc lướt qua, mắt sáng rỡ. “Cái gã điên khùng đó lúc nào cũng bảo với tôi là gã đã đốt mất đoạn đầu của bản thảo!”

“Anh muốn đổi phần tiếp theo lấy gì nào?” ông hỏi. “Chẳng gì hết, tôi nói đoạn chìa cho ông phần còn lại, tôi không phải một kẻ tống tiền.” Ông nhìn tôi với vẻ biết ơn, đoạn vồ lấy chừng trăm trang bản thảo kia như thể đó là một thánh tích. Khi rời khỏi quán bar chuyên phục vụ hàu, tôi hỏi Jasper lần nữa xem ông có tin tức gì về Fawles không, nhưng ông lẩn tránh.

Tôi đổi chủ đề bằng cách nói với ông rằng tôi đang tìm một đại diện văn học ở Mỹ cho dự án sách mới: tôi muốn kể những ngày cuối cùng của Nathan Fawles trên đảo Beaumont dưới dạng tiểu thuyết hóa. “Đó là một ý tưởng vô cùng tệ hại,” Jasper lo lắng. “Đây không phải tiểu sử cũng không phải một tác phẩm xâm phạm đời tư, tôi cố gắng trấn an ông, chỉ là một hư cấu lấy cảm hứng từ nhân vật Fawles. Tôi đã có nhan đề rồi: Cuộc sống bí mật của các nhà văn.”

Jasper vẫn không hề động lòng. Tôi không tới để tìm lời chúc phúc của ông, nhưng vẫn cảm thấy bối rối khi chia tay ông mà ông giữ thái độ lạnh nhạt. “Tôi không muốn viết về bất cứ thứ gì khác, tôi nói thêm. Đối với một tiểu thuyết gia, không gì đau đớn hơn là mang trong mình một câu chuyện mà không thể kể nó ra.” Lần này, Jasper gật đầu. “Tôi hiểu,” ông nói trước khi tuôn ra câu thoại mà ông chuyên dùng để trả lời báo chí: “Bí ẩn Nathan Fawles, đó là chẳng có bí ẩn nào hết.”

“Ông đừng lo, tôi đáp. Tôi sẽ sáng tạo ra một bí ẩn, đó là công việc của tôi.”

*

Trước khi rời New York, tôi đã mua nhiều dải mực tại tiệm của một tay chuyên bán máy chữ cũ tại Brooklyn.

Tôi về tới Nam Thập Tự vào đầu giờ tối một ngày thứ Sáu, hai ngày trước Giáng sinh. Trời lạnh nhưng quang cảnh thì vẫn khiến người ta kinh ngạc, gần như vô thực, khi mặt trời lặn cuối chân trời. Lần đầu tiên tôi có cảm giác trở về nhà mình.

Tôi đặt lên mâm quay chiếc đĩa than của bản gốc Khẩu súng cổ, vật lộn nhóm một ngọn lửa trong lò sưởi rồi rót cho mình một cốc Bara No Niwa. Rồi tôi ngồi bên bàn phòng khách trước cái máy chữ hiệu Olivetti chất liệu nhựa bakelite vừa được tôi lắp một dải mực.

Tôi hít một hơi dài. Thật khoan khoái khi được quay trở lại ngồi sau một: bàn phím. Đó là chỗ của tôi. Đó là nơi tôi luôn cảm thấy mình đỡ tệ hại nhất. Để khởi động, tôi gõ câu đầu tiên lướt qua tâm trí.

Phẩm chất; hàng đầu qua một nhà văn, đó là sở hữu một cặp mông rắn chắc.

Tiếng phím lách cách dưới những ngón tay khiến tôi thoáng rùng mình. Tôi gõ tiếp:

Chương 1.

Thứ Ba ngày 11 tháng Chín năm 2018

Gió thổi khiến những cánh buồm đập phành phạch dưới một vòm trời chói chang! Quá một giờ chiều đôi chút, chiếc thuyền buồm đã rời bờ biển xứ Var và lúc này đang lướt với tốc độ năm hải lý trên giờ nhằm hướng đảo Beaumont.

Xong rồi, thế là đã bắt đầu, nhưng ngay từ những câu đầu tiên tôi đã bị cắt ngang bởi một tin nhắn dài từ Jasper Van Wyck. Trước tiên ông thông báo với tôi rằng ông nhận lời đọc cuốn tiểu thuyết của tôi chừng nào nó hoàn thành. (Làm vậy là để giám sát trông chừng, tôi đâu có dễ bị gạt.) Sau đó ông đảm bảo với tôi rằng Fawles ổn và nhà văn nhờ ông cảm ơn tôi vì đã hoàn trả lại một trăm trang bản thảo kia, nhà văn khẳng định đã quên khuấy sự tồn tại của chúng. Để làm tin, Jasper đính kèm tin nhắn của ông một bức ảnh do một du khách chụp được tuần trước tại Marrakech. Laurent Laforêt, bút danh của một phóng viên người Pháp, đã nhận ra Fawles trong khu Ả Rập nên chụp ảnh ông lia lịa. Sau khi ứng biến thành paparazzi, gã phóng viên xoàng cố gắng bán những bức ảnh của mình cho các website hoặc các tạp chí ngồi lê đôi mách, nhưng Jasper đã kịp thu hồi trước khi chúng được đăng tải.

Tò mò, tôi xem kỹ hình ảnh hiển thị trên màn hình điện thoại. Tôi nhận ra địa điểm, bởi tôi từng thăm nơi này khi tới nghỉ tại Maroc: chợ Ả Rập Haddadine, khu phố của phường thợ sắt và thợ rèn. Tôi còn nhớ về nó như một mê cung những con phố chật hẹp nằm lộ thiên, nơi tập trung quầy quán và gian hàng trong đó các nghệ nhân trang bị đồ dùng dụng cụ và que hàn vẫn quai búa, đúc và gia công kim loại để biến chúng thành đèn bàn, đèn lồng, bình phong và các đồ đạc khác bằng sắt rèn.

Giữa các chùm tia lửa, có thể thấy rõ ràng ba người: Nathan Fawles, cô Mathilde đã nhắc trên kia, cùng một đứa trẻ khoảng một tuổi, ngồi trong xe đẩy.

Trên ảnh, Mathilde mặc váy ngắn vải Jacquard, áo khoác da dáng ngắn và đi đôi xăng đan cao gót. Tay cô đặt trên vai Fawles. Một vẻ gì đó nhạy cảm, hết sức dịu dàng, cương nghị và rạng rỡ tựa mặt trời lan tỏa từ gương mặt cô. Fawles đứng ở tiền cảnh, mặc quần jean, áo sơ mi vải lanh màu xanh da trời nhạt và áo khoác phi công dáng ngắn. Làn da rám nắng, đôi mắt sáng, ông vẫn phong độ ngời ngời. Cặp kính râm của ông hất ngược lên trán. Người ta hiểu rằng ông đã phát hiện ra tay thợ ảnh, ông ném cho gã ánh mắt gần như muốn nói: mau cút xéo đi, cậu sẽ không bao giờ động được đến chúng tôi. Hai tay ông để trên tay cầm chiếc xe đẩy. Tôi nhìn khuôn mặt đứa trẻ và đâm bối rối, bởi nó khiến tôi nghĩ đến chính mình khi còn nhỏ. Mái tóc vàng, cặp kính tròn và màu sắc, mấy chiếc răng thưa. Dẫu xâm phạm đời sống riêng tư, bức ảnh rõ ràng vẫn nắm bắt được điều gì đó: một sự đồng lõa, một khoảnh khắc thư thái, sự cân bằng hoàn hảo của một cuộc đời.

*

Tại Nam Thập Tự, đêm đã buông. Bỗng nhiên, tôi cảm thấy vô cùng cô độc và có chút buồn bã giữa bóng tối. Tôi đứng dậy để bật đèn và để có thể tiếp tục viết.

Khi quay trở lại bàn làm việc, tôi xem bức ảnh lần nữa. Tôi chưa bao giờ gặp Nathan Fawles, nhưng tôi có cảm giác quen biết ông bởi tôi từng đọc và yêu thích những cuốn sách ông viết và tôi lại đang sống tại nhà ông. Toàn bộ ánh sáng trong bức ảnh được hấp thụ bởi gương mặt và ánh cười rạng rỡ của cậu nhóc. Và tôi bỗng tin chắc rằng không phải những cuốn sách cũng chẳng phải việc viết văn đã cứu vớt Fawles. Nhà văn bám víu vào chính tia sáng lấp lánh trong mắt cậu nhóc. Để tìm lại tự chủ và tái đầu tư cuộc sống.

Vậy nên, tôi nâng cốc whisky về phía Fawles để cụng ly cùng ông.

Tôi nhẹ lòng khi biết ông hạnh phúc.

Cái thật của cái giả

Cảm hứng đến từ đâu?

Câu hỏi này luôn xuất hiện vào thời điểm này hoặc thời điểm khác, trong những cuộc gặp gỡ của tôi với các độc giả, các chủ hiệu sách hay các phóng viên. Thế nhưng câu hỏi này lại không hề tầm thường vô vị như vẻ bề ngoài của nó. Cuốn tiểu thuyết này, Cuộc sống bí mật của các nhà văn là một hình thức trả lời khả dĩ, minh họa quá trình bí hiểm dẫn đến sự ra đời của việc viết: mọi thứ đều có khả năng là nguồn cảm hứng và chất liệu của hư cấu, nhưng không gì được tái hiện trong một cuốn tiểu thuyết đúng như những gì ta đã nhìn thấy, trải nghiệm hay học được. Giống như trong một giấc mơ kỳ lạ, mỗi chi tiết của thực tế có thể biến dạng và trở thành yếu tố căn bản của một câu chuyện được thai nghén. Vậy nên, chi tiết này trở nên mang tính tiểu thuyết. Luôn thật, nhưng hiện thực hơn.

Thí dụ, chiếc máy ảnh này, chiếc máy ảnh vì nó mà Mathilde ngỡ sẽ vạch mặt được tên sát nhân, là chi tiết lấy cảm hứng từ một mẩu tin rao vặt. Một chiếc Canon PowerShot được tìm thấy trên một bãi biển ở Đài Loan sau khi trôi dạt suốt sáu năm trời từ Hawaii. Chiếc máy ảnh thật chỉ chứa những bức ảnh chụp kỳ nghỉ. Chiếc máy ảnh trong tiểu thuyết thì nguy hiểm hơn nhiều…

Một thí dụ khác, “Thiên thần tóc vàng”, nhan đề phần thứ hai của tiểu thuyết, là biệt danh ngọt ngào mà Vladimir Nabokov đặt cho người vợ yêu Véra của ông, trong một trong vô số những bức thư ông gửi cho bà. Chính vẻ đẹp của những lá thư này, cũng như những thư đi tin lại khiến người ta xáo trộn giữa Albert Camus và Maria Casarès, là thứ mà tôi nghĩ tới khi viết phần trao đổi thư tín giữa S. và Nathan Fawles.

Về phần đảo Beaumont, đây là một hòn đảo hư cấu lấy cảm hứng một phần từ thành phố Atherton lạ lùng cửa California, phần khác - hấp dẫn hơn nhiều - từ Porquerolles, cũng như từ những chuyến đi của tôi tới Hydra, Corse hay Skye. Những cái tên quán xá trên đảo, với trò chơi chữ đầy sáng tạo (Les Fleurs du Malt, Bread Pit…), đến từ tên các quán xá tôi từng gặp ở một khúc ngoặt lúc đang di chuyển hay đang tìm tòi nghiên cứu.

Sự vỡ mộng của chủ hiệu sách, Grégoire Audibert, lấy cảm hứng từ Philip Roth và thái độ bi quan của ông về tương lai của việc đọc.

Cuối cùng, Nathan Fawles, nhân vật mà tôi thích thú được đồng hành suốt những trang viết này, đã lên đường tìm kiếm nhu cầu cô lập, thái độ từ chối viết, rút lui khỏi thế giới truyền thông cùng những ứng xử cục cằn lúc thì ở Milan Kundera và J.D. Salinger, khi lại ở Philip Roth, lại là tác giả này, và Elena Ferrante… Từ đây, tôi có cảm tưởng Nathan Fawles tồn tại độc lập, và giống như Guillaume Musso hư cấu trong Đoạn kết, tôi hạnh phúc khi biết ông đã lấy lại được niềm ham thích với cuộc sống, tại một nơi chốn khác trên thế giới.

Chú Thích

(26) Viện quốc gia Pháp về các nghiên cứu khảo cổ giam cứu. (Institut national de recherches archéologiques préventives).