← Quay lại trang sách

Chương VIII

Sau khi ông bà La Trave mang cô Anne đã thua cuộc về Saint Clair, Thérèse, cho đến gần ngày sinh nở, không hề rời khỏi Argelouse. Nàng đã thực sự biết thế nào là im lặng, suốt những đêm dài khác thường của tháng mười một. Một lá thư gửi cho Jean Azévédo không có hồi âm. Chắc anh cho rằng người đàn bà tỉnh lẽ này không đáng cho anh bõ công trao đổi thư từ. Trước tiên, một phụ nữ có mang làm sao lưu lại một kỷ niệm đẹp được. Có lẽ, ở xa, anh nhận thấy Thérèse nhạt nhẽo, vô duyên, cái gã ngờ nghệch đã bị mê hoặc bởi dáng điệu và cung cách phức tạp giả tạo. Nhưng liệu anh có thể hiểu được gì qua vẻ bình dị phỉnh phờ, qua cái nhìn thẳng thắn, qua những cử chỉ đường hoàng? Kỳ thực, anh ngỡ nàng cũng như cô bé Anne kia, chỉ cần một lời đường mật là có thể bỏ hết để theo anh. Jean Azévédo e ngại những phụ nữ đầu hàng quá sớm, trước cả khi kẻ tấn công kịp phá vòng vây. Anh không e ngại gì cả, sự chiến thắng cũng như thành quả của chiến thắng. Dù thế, Thérèse cố sống trong vũ trụ của chàng trai ấy, nhưng mấy quyển sách mà Jean ca ngợi và nàng nhờ mua từ Bordeaux, đều có vẻ khó hiểu đối với hàng. Quả là nhàn rỗi đến chán chường!

- Không nên bắt nó may tã lót, chẳng phải việc nó.

Bà de la Trave nhắc nhở. Ở nông thôn, nhiều bà chết lúc sinh nở. Thérèse làm bà cô Clara khóc ngất, khi quả quyết là cuối cũng nàng cũng sẽ như mẹ thôi, nàng biết chắc không thể nào thoát khỏi. Nàng không quên nói thêm:

- Dẫu có chết cũng chẳng sao.

Dối trá! Chưa bao giờ nàng thèm sống đến thế, cũng như chưa bao giờ Bernard lại tỏ ra ân cần với nàng đến thế! Chẳng phải anh lo lắng cho mình đâu mà cho giọt máu mình đang mang trong bụng. Mặc cho anh lải nhải với cái giọng dễ sợ:

- Thử dùng lại món khoai nghiền đi... Em đừng ăn cá. Hôm nay, em đi khá nhiều rồi đấy...

Tôi chẳng vì thế mà xúc động hơn một chị vú nuôi xa lạ bị người ta hành hạ chỉ vì phẩm chất sữa của mình. Ông bà La Trave trân trọng nâng niu tôi như cái bình thánh, kẻ cưu mang cháu đích tôn của họ mà, chắc chắn nếu có xảy ra bất trắc, họ chẳng ngại ngùng gì mà không hy sinh nàng cho cái bào thai đó. Tôi đã mất đi cảm giác về một đời sống riêng. Tôi chỉ còn là một dây leo. Trước mắt gia đình, chỉ có một núm ruột trong lòng tôi là đáng kể.

Cho đến cuối tháng chạp, tôi phải sống trong cảnh tăm tối ấy. Tưởng chừng điệp trùng những cây thông vẫn chưa đủ, cơn mưa triền miên bất tận còn giăng quanh ngôi nhà âm u triệu triệu thanh chắn lấp lánh di động khi con đường độc đạo về Saint Clair có nguy cơ không còn đi lại được. Họ đưa tôi lên thị trấn, ngụ trong một ngôi nhà tương đối sáng sủa hơn ở Argelouse. Những cây ngô đồng già cỗi trên quảng trường còn giành giật từng chiếc lá với gió mưa. Không thể sống ở đâu khác ngoài Argelouse, bà cô Clara không muốn lẩn quẩn bên giường tôi, mà luôn chịu khó đi về, bất kể thời tiết nào trong chiếc xe độc mã. Bà đem đến cho tôi những kẹo bánh mà thuở xưa khi còn nhỏ, tôi ưa thích biết bao. Và bà ngỡ bây giờ tôi vẫn còn thích, những nắm xôi lúa mạch màu xám trộn mật, gọi là miques; chiếc bánh nướng hay roumadiade. Tôi chỉ gặp Anne trong bữa ăn, và cô ấy không trò chuyện với tôi nữa, cô có vẻ nhẫn nhục, hình như thể thu mình lại, một lúc cô ấy đã đánh mất tất cả vẻ tươi mát của mình. Tóc chải ngược để lộ đôi vành tai xấu xí xanh xao. Không ai nhắc đến tên của Deguilhem, nhưng bà de la Trave khẳng định tuy Anne chưa chịu ừ nhưng chẳng còn nói không nữa. A! Jean đã nhận xét đúng về cô, anh đâu phải mất nhiều thời giờ để xỏ mũi cô dẫn đi. Bernard không khỏe mấy vì anh lại bắt đầu uống rượu khai vị. Những người xung quanh xầm xì gì với nhau thế? Họ nói nhiều về cha xứ, tôi còn nhớ (chúng tôi ngụ ngay trước nhà vị giáo sĩ), chẳng hạn người ta hỏi nhau, “tại sao ông ta băng qua quảng trường bốn lần trong ngày, và mỗi lần, chắc là ông ta về qua ngõ khác...”

Nhờ vài mẫu chuyện của Jean Azévédo, Thérèse, lưu ý đến vị giáo sĩ còn trẻ tuổi ấy nhiều hơn, ông không giao tiếp với người trong giáo khu, nên họ cho là ông kiêu hãnh: “Chẳng phải loại ta cần ở đây...” Qua mấy lần hiếm hoi ông đến viếng ông bà La Trave, Thérèse nhìn thấy, vầng trán cao ấy với hai bên thái dương tái xanh. Không một người bạn. Đêm đến ông làm gì? Sao ông lại chọn cuộc sống này?

- Ông ấy rất đứng đắn - bà de la Trave nói, chiều nào ông ấy cũng cầu kinh; nhưng ông ấy thiếu sự thâm trầm, tôi chẳng thấy nơi ông ấy cái gì có thể gọi là thành kính cả. Còn công việc thì ông buông lơi hết.

Bà than phiền ông ấy đã hủy bỏ đội kèn đồng của hội bảo trợ; các bậc phụ huynh phàn nàn ông ấy không theo bọn trẻ ra sân bóng nữa:

- Luôn chúi mũi vào sách vở thì cũng hay thôi nhưng rồi xứ đạo chẳng mấy chốc mà tan rã.

Thérèse chăm đi nhà thờ đề nghe ông ấy giảng.

- Cô bé thân mến, cô quyết định đến đây, đúng vào lúc cô được miễn vì tình trạng sức khỏe.

Bài giảng của cha xứ liên quan đến giáo lý hay đạo đức, đều khách quan. Nhưng Thérèse lưu ý đến cách chuyển giọng, đến điệu bộ, đôi khi một chữ cơ hồ trầm hơn… A! Biết đâu ông ta có thể giúp nàng khám phá cái thế giới mông lung trong nàng, khác hẳn mọi người, ông ấy đã có một quyết định bi thảm, ông đã đem vẻ cách biệt tạo ra bởi chiếc áo dòng chung quanh người mặc nó, cộng với mỗi cô đơn trong lòng. Ông tìm thấy nguồn an ủi nào trong các nghi lễ thường nhật đó? Thérèse muốn dự lễ ngay trong tuần, khi chẳng còn ai hiện diện ngoài cậu lễ sinh, ông cúi xuống mẩu bánh mì thầm vài câu nguyện. Nhưng cung cách ấy có vẻ quá xa lạ với gia đình nàng và những cư dân nơi thị trấn, hẳn họ sẽ đòi cải đổi.

Dạo đó, Thérèse đau đớn nhiều lúc gần ngày sinh nở. Nàng bắt đầu thực sự không chịu đựng nổi cuộc sống. Chẳng có gì lộ ra ngoài; cũng chẳng có gì hục hặc gì giữa nàng và Bernard vì nàng tỏ vẻ kính trọng cha mẹ chồng hơn chính chồng mình nữa. Bi kịch là ở đấy, dù không một lý do đưa đến đổ vỡ, tình hình khó thể biết trước ai sẽ ngăn chặn đừng để mọi việc cứ thế mà tiến dần đến cái chết. Phải có một lĩnh vực gặp nhau nào đó, mới sinh va chạm, bất hòa. Đằng này chưa bao giờ Thérèse gặp Bernard ở điểm nào cả, với cha mẹ chồng lại càng tệ hơn; lời nói của họ chẳng mấy tác động tới nàng; nàng không nghĩ là cần thiết phải trả lời họ. Chả biết họ có cùng một ngôn ngữ với nàng không nữa? Họ gán cho những từ thiết yếu một ý nghĩa khác. Nếu Thérèse thốt ra một lời chân thật bao giờ cũng vậy, gia đình cho là cô vợ trẻ thích hợm hĩnh. “Tôi vờ như không hề nghe, bà de La Trave: nói, hoặc chẳng mấy quan tâm, nếu nó nhắc lại, nó phải biết đối với chúng ta điều đó thật không nên”.

Thế nhưng, bà de la Trave: không chịu nổi cái thái độ làm ra vẻ khó chịu của Thérèse, khi người ta trầm trồ sự giống nhau giữa nàng và bé Marie. Những tiếng suýt soa thường lệ: “Cái này thì có không thể cãi chối...” Mấy người đàn bà ở vào những tình cảnh trái ngược chẳng phải lúc nào nàng cũng che giấu được. “Ðứa bé chẳng có gì của tôi cả, nàng nhấn mạnh. Hãy nhìn làn da nâu vàng ấy đôi mắt hạt huyền ấy. Xem ảnh tôi kìa: tôi là một đứa trẻ gầy gò nhợt nhạt”.

Nàng không muốn bé Marie giống mình. Nàng không muốn có chung bất cứ thứ gì với khối thịt nàng rứt một đẻ ra đó. Người ta bắt đầu xầm xì là nàng quá lạnh nhạt với tình mẫu tử. Nhưng bà de la Trave đảm bảo là nàng yêu con gái theo cách riêng của nàng: “Dĩ nhiên không thể bắt nó lo tắm rửa hay thay tã lót: đâu phải việc của nó; nhưng tôi từng thấy nó ngồi hằng đêm tròn bên chiếc nôi, nhịn hút thuốc mà nhìn con bé ngủ. Vả chăng, ta có một có vú em thật siêng năng, hơn nữa, còn Anne kia chi, à, cái cô này tôi quả quyết nó sẽ là một bà mẹ trẻ tuyệt vời...» Từ khi có sự hiện diện của đứa bé trong nhà, rõ ràng là Anne đã bắt đầu sống lại. Phụ nữ bao giờ cũng mê chiếc nôi; nhưng Anne, hơn ai hết, bồng bế đứa bé với một niềm vui sâu xa. Ðể có thể tự do ra vào chỗ đứa bé, cô đã làm lành với Thérèse, nhưng thâm tình cũ giữa hai người chẳng còn gì, ngoài những cử chỉ và tiếng gọi nhau thân mật. Quyến luyến con bé, cô gái ngại nhất là sự ganh tị của Thérèse:

- Đứa bé chịu tôi hơn mẹ nó nhiều. Nhác thấy tôi là nó cười liền. Hôm nọ, tôi đang bồng nó trên tay, nó khóc ré lên khi Thérèse định ôm lấy nó. Nó thích tôi đến nỗi đôi khi tôi đâm ngượng...

Anne ngượng là sai. Thérèse, vào thời gian đó của đời mình cảm thấy tách biệt với con gái, như mọi thứ khác. Nàng nhìn con người, sự vật, bản thân nàng và cả tâm hồn nàng nữa tựa một ảo ảnh, một đám khói sương lãng đãng bên ngoài nàng. Một mình trong cõi trống không, Bernard là một thực tế thảm hại: tấm thân vạm vỡ, giọng nói ồm ồm, thái độ kiên quyết và sự thỏa thuê ấy lìa bỏ mọi người... Nhưng bằng cách nào? đi về đầu? Cơn nắng gắt đầu tiên khiến Thérèse rã rời. Chẳng có gì báo nước cái điều nàng sắp sửa gây ra. Năm ấy, việc gì đã xảy đến. Nàng không nhớ bất cứ sự kiện nào, bất cứ cuộc gây gổ nào, nàng chỉ mang máng đã ghê tởm chồng hơn bao giờ hết, hôm lễ Thánh thể, khi qua ô cửa nhỏ mở hé, nàng ngóng nhìn đám rước. Bernard hầu như là người đàn ông duy nhất đi sau cái lộng. Ngôi làng, thoáng chốc, trở nên hoang vắng, như người ra vừa thả ra đường một con sư tử, chứ không phải con cừu. Thiên hạ lần vào nhà để khỏi phải bỏ mũ hay quì gối. Khi qua cơn nguy, các cánh cửa lần lượt mở. Thérèse nhìn chằm chằm vào mặt cha xứ, ông bước đi hai mắt cơ hồ nhắm lại, hai tay bưng cái vật kỳ lạ ấy. Môi ông mấp máy: ông nói với ai với về khổ đau dường ấy? Và ngay sau lưng ông, Bernard đang “làm tròn nghĩa vụ mình”.

Nhiều tuần trôi qua, chẳng có lấy một giọt mưa. Bernard sống trong nỗi ám ảnh kinh hoàng của một trận hỏa hoạn, và tim anh lại trở cơn đau. Phía Louchats, đã cháy năm trăm hecta: “Nếu gió thổi từ hướng bắc, rừng thông Balisac của mình đã bị thiêu rụi.” Chẳng hiểu Thérèse chờ mong gì nơi khoảng trời im sững đó. Sẽ không còn mưa nữa... Một ngày kia, cả khu rừng xung quanh nổ lẹt đẹt, và thị trấn cũng không thoát khỏỉ. Tại sao những ngôi làng ở Landes không bao giờ bốc cháy? Nàng nhận thấy trời đất quả bất công, sao lửa cứ mãi tìm những cây thông, mà không bao giờ đụng tới con người. Trong nhà, thiên hạ không ngớt xôn xao bàn tán về nguyên nhân gây ra tai họa: một điếu thuốc vứt đi? hay sự ác ý? Thérèse mơ một đêm nào thức dậy, lẻn ra khỏi nhà, vào cánh rừng chằng chịt bụi rậm, ném điếu thuốc, cho đến khi đám khói khổng lồ phủ mờ bầu trời rạng đông... Nhưng nàng xua đuổi ngay ý tưởng đó, nàng vốn quí mến rừng thông từ trong máu, mối hận thù của nàng đâu phải nhắm vào cây cối.

Giờ đã đến lúc nàng phải nhìn thẳng hành vi của mình. Giải thích thế nào với Bernard đây? Chỉ còn cách tuần tự nhắc lại từng điểm một diễn tiến sự việc. Ðó là ngày xảy ra trận hỏa hoạn khủng khiếp ở Mano. Nhiều người đâm bổ vào phòng lúc gia đình hối hả ăn sáng. Kẻ cho rằng ngọn lửa còn cách xa Saint Clair, người đòi kéo chuông báo động ngay. Cái ngày nóng bức như thiêu ấy thấm đẫm mùi nhựa cháy và mặt trời như vẫn đục. Thérèse thấy lại Bernard đang nghiêng đầu, nghe Balion báo cáo, quên lửng bàn tay lông lá trên miệng cốc và những giọt thuốc Fowler nhỏ xuống nước. Anh nốc cạn cốc thuốc mà Thérèse, đờ đẫn bởi cái nắng oi nồng chẳng hề nghĩ tới chuyện bảo anh biết anh đã chế gấp đôi liều thuốc thường lệ. Mọi người đã rời khỏi bàn - trừ nàng đang bóc vỏ những quả hạnh tươi, thờ ơ, xa lạ với sự nhốn nháo kia, vô tư trước thảm kịch, như đối với mọi thảm kịch không phải của nàng. Họ không kéo chuông báo động. Sau đó Bernard quay vào:

- Lần này, em không buồn nhúc nhích là phải, cháy tận bên Mano kia…

Anh hỏi:

- Anh uống thuốc chưa nhỉ?

Và không đợi trả lời, một lần nữa anh lại chế thuốc và cốc nước. Nàng nín lặng vì lười biếng cố nhiên, vì mệt mỏi không chừng. Nàng hy vọng gì ở giây phút ấy? “Chẳng lẽ tôi suy tính cả việc lặng thinh.”

Thế mà, đêm ấy, khi Bernard vật vã nôn mửa trên giường, bác sĩ Pademay hỏi han về những việc xảy ra trong ngày, nàng chẳng hề hé môi về những gì nàng đã thấy trên bàn ăn. Để khỏi liên lụy dù sao cũng dễ dàng lưu ý bác sĩ về chất thạch tính mà Bernard sử dụng. Nàng có thể tìm ra một câu đại khái như: “Lúc đó tôi chẳng hay biết gì. Tất cả chúng tôi đang hốt hoảng cuống cuồng vì đám cháy… Nhưng bây giờ, tôi thề quyết là anh ấy đã uống một liều gấp đôi…” Nàng đã câm lặng, chả biết nàng có cảm thấy cần mở miệng hay không? Cái hành vi, đã ngấm ngầm manh nha trong buổi điểm tâm, mà nàng không hay, bây giờ bắt đầu trổi dậy từ sâu thẳm lòng nàng - tuy còn mơ hồ, nhưng đã len chút ý thức.

Khi bác sĩ đi khỏi, nhìn Bernard thiếp ngủ nàng nghĩ: “Chẳng có gì chứng tỏ là cái ấy, có lẽ chỉ là cơn đau ruột thừa, dù chẳng có triệu chứng nào khác... hay một trường hợp cúm nhiễm trùng.” Nhưng ngày hôm sau, Bernard đã khỏi. “Có nhiều khả năng chính là cái ấy”. Thérèse không tin như thế, nàng muốn biết chắc hơn. “Vâng, tôi không hề có cảm tưởng bị dằn xé bởi một mưu toan khủng khiếp, chỉ là một chút hiếu kỳ hơi nguy hiểm khi thỏa mãn. Ngày đầu tiên, tôi chế những giọt thuốc Fowler vào ly của Bernard trước khi anh bước vào phòng, tôi nhớ mình đã lẩm bẩm: “Một lần thôi, đề biết cho đích xác... xem có đúng cái ấy đã khiến anh ngã bệnh. Chỉ một lần, rồi thôi.”

Đoàn tàu chậm dần, rúc còi rền rĩ một hơi dài rồi lại lên đường. Dăm ba ánh đèn trong đêm: ga Saint Clair. Nhưng Thérèse chẳng còn gì để mà nghĩ suy, nàng đã chìm xuống vực thẳm của tội ác; nàng bị tội ác lôi cuốn; những gì tiếp theo đó, Bernard cũng biết rõ như nàng: sự trở bệnh đột ngột; và Thérèse ngày đêm ngồi canh chừng anh bên giường, dù nàng cơ hồ đã kiệt sức và không buồn ăn uống gì (đến nỗi anh khuyên nàng thử dùng thuốc Fowler và nàng đã nhận toa của bác sĩ Pédemay). Tội nghiệp ông bác sĩ! Ông ta sửng sốt trước chất nước màu lục nhạt mà Bernard mửa thốc ra, ông không thể tin một sự mâu thuẫn như thế giữa mạch và nhiệt độ của bệnh nhân lại có thể xảy ra; ông đã nhiều lần ghi nhận trong chứng phó thương hàn, một mạch nhẹ bất chấp cơn sốt ác liệt - nhưng mạch cứ đập dồn dập và nhiệt độ lại dưới mức bình thường là nghĩa làm sao? Cúm nhiễm trùng à, chắc thế: bệnh cúm, điều này giải thích tất cả.

Bà de la Trave nghĩ đến việc mời một thầy thuốc tham vấn nổi tiếng, nhưng không muốn làm mếch lòng vị bác sĩ, người bạn thâm giao, vả lại Thérèse sợ gây hoang mang cho Bernard. Thế nhưng, vào giữa tháng tám, sau một bệnh biến nguy ngập hơn, chính Pédemay đề nghị mời thêm một bạn đồng nghiệp; may mắn thay, ngay hôm sau, tình trạng Bernard thuyên giảm đều, ba tuần sau, người ta tính chuyện dưỡng sức. “Tôi đã thoát nạn, Pédemay thổ lộ. Nếu bậc thầy kia kịp đến đây, ông ấy sẽ hưởng trọn vinh quang của việc chữa trị này.”

Bernard đòi chuyền về Argelouse, tin chắc mình sẽ khỏi hẳn trước mùa săn chim cu. Thời gian đó Thérèse phờ phạc đi nhiều. Cơn biến chứng ác liệt của bệnh thấp khớp khiến bà cô Clara nằm liệt giường, mọi việc trút lên vai người đàn bà trẻ: hai bệnh nhân, một đứa bé, chưa kể những công việc mà bà cô Clara bỏ dở dang. Thérèse tận tụy thay thế bà giúp đỡ những người nghèo khó ở Argelouse. Nàng đi thăm các trang trại, lo thanh toán, như cô mình, các đơn thuốc với tiền riêng. Nàng không chút buồn lòng thấy trang trại Vilméja vẫn đóng kín im lìm. Nàng không còn nghĩ đến Jean Azévédo hay bất cứ ai khác trên đời. Nàng đơn độc vượt qua con đường hầm dài thăm thẳm đến chóng mặt, nàng đang đứng giữa quãng tối tăm nhất, chẳng cần suy nghĩ, như một kẻ nhẫn tâm ta phải thoát khỏi chốn mù mịt này, đám khói kia, mà đến với tự do, nhanh, nhanh lên!

Ðầu tháng chạp, cơn bệnh trở chứng quật ngã Bernard: một buổi sáng, anh thức dậy, run lập cập, đôi chân bất động và không còn cảm giác. Và điều gì xảy ra tiếp đó! Thầy thuốc tham vấn do ông de la Trave rước từ Bordeaux về một buổi chiều kia, sự im lặng kéo dài của ông ta sau khi khám bệnh (Thérèse cầm cây đèn và Balionte còn nhớ là mặt nàng trắng bạch như tấm khăn trải giường) nơi đầu cầu thang lờ mờ tối, bác sĩ Pédemay hạ thấp giọng, vì Thérèse đang nghe ngóng, giãi thích cho đồng nghiệp của mình hiểu là dược sĩ Darquey phát hiện hai trong các toa thuốc của lão là giả mạo, một bàn tay sát nhân đã thêm vào toa đầu: thuốc nước Fowler toa kia, ghi với liều lượng khá nặng: cloroforme, digitaline, aconitine. Balion mang các toa đó cũng nhiều toa khác đến hiệu thuốc. Darquey, băn khoăn khi giao mấy chất độc ấy, nên hôm sau, đã đến tìm bác sĩ Pédemay...

Vâng, Bernard biết rõ tất cả những điều ấy như chính Thérèse. Một chiếc xe của y tế cấp tốc chuyển anh về một bệnh viện tư ở Bordeaux, và ngay ngày hôm ấy anh đã nhiều. Thérèse ở lại Argelouse một mình, nhưng dù cô đơn đến đâu, nàng vẫn nhận thấy quanh mình lời xì xào lan rộng con thú ẩn nấp lắng nghe bầy chó săn đến gần, mệt mỏi rã rời sau lúc phóng chạy điên cuồng - tưởng chừng, sắp sửa tới đích, tay đã dang ra, bỗng dưng té quỵ xuống đất, đôi chân gãy lìa. Cha nàng đến vào một chiều cuối đông, van xin nàng hãy tự minh oan. Mọi việc còn có thể cứu vãn kịp. Pédemay bằng lòng rút lại đơn khiếu tố ông cho rằng không chắc một trong các toa thuốc là hoàn toàn do chính tay ông kê ra. Về các chất aconitine, chloroforme và digitaline, ông không thể nào cho liều lượng nặng đến thế: nhưng vì rằng không một dấu vết nào được tìm thấy trong máu bệnh nhân.

Thérèse nhớ lại khung cảnh nàng ngồi với cha bên giường cô Clara hôm ấy. Lửa củi soi sáng gian phòng, chẳng ai muốn thắp đèn lên. Nàng giãi bày với giọng tẻ nhạt như một cô bé trả bài (cái bài học nàng nhẩm đi nhẩm lại suốt những đêm dài thao thức): Con gặp ngoài đường một gã đàn ông chẳng phải dân Argelouse, bảo rằng nhân dịp con sai người đến hiện thuốc Darqney, gã mong con vui lòng nhận luôn giùm toa của gã, gã nợ tiền Darquey, nên không dám chường mặt ở dược phòng. Gã hẹn sẽ đến nhà nhận thuốc, nhưng không để lại tên và địa chỉ.

- Tìm cớ khác đi, Thérèse ơi, nhân danh gia đình, ba van con. Hãy tìm cớ khác đi, khốn khổ con tôi!

Ông Larroque hậm hực lãi nhãi mấy lời quở trách; người chị điếc hơi nhỏm dậy trên gối, cảm thấy Thérèse đang bị đe dọa bởi một nguy cơ khủng khiếp, cất giọng rên rỉ:

- Ông ấy nói gì với con thế? Người ta muốn gì nơi con? Tại sao người ta cứ làm con khổ?

Nàng còn gắng gượng mỉm cười với cô mình, nắm lấy tay bà, trong khi, như một cô bé học giáo lý, nàng đọc thuộc lòng: “Ðó là một gã đàn ông gặp trên đường, trời tối quá nên tôi không trông rõ mặt gã, gã không nói mình ở trang trại nào”. Một chiều kia, gã đến nhận thuốc. Rủi thay, trong nhà, không một ai nom thấy gã.