← Quay lại trang sách

Chương X

Nơi phòng khách, Thérèse ngồi thầm trong bóng tối. Vài mẫu củi cháy dở còn âm ỉ dưới tro than. Nàng không nhúc nhích.Từ sâu thẫm ký ức, bật dậy từng đoạn rời rạc lời thú tội đã chuẩn bị trong cuộc hành trình, giờ thì đã muộn: nhưng sao lại cứ tự trách mình đã không sử dụng tới nó? Kỳ thực, câu chuyện dàn dựng hết sức chặt chẽ lại chẳng dính dáng gì đến thực tế. Tầm quan trọng mà nàng thích gán cho những lời nói của gã Azévédo quả là vô nghĩa! Ðiều đó thật không đáng kể chút nào! Không, không! Nàng đã quy phục một đạo luật sâu xa, một đạo luật khắc nghiệt, nàng không phá hoại gia đình này mà chính nàng sẽ bị hủy diệt, họ có lý khi xem nàng như đồ yêu quái, nhưng nàng cũng nhận thấy họ thật quái gở. Dù bề ngoài chẳng có gì lộ ra, họ sắp triệt hạ nàng từ từ. Từ nay, cái bộ máy gia đình đầy uy lực kia sẽ được vận hành chống lại ta - vì ta đã không biết chặn nó lại, hay kịp thời vuột khỏi những bánh xe răng của nó. Khỏi phải tìm lý lẽ nào khác “bởi vì họ là họ, còn ta vẫn là ta...”

“Giấu mặt, giữ thể diện, lừa phỉnh, sự cố gắng duy trì trong gần hai năm qua, tôi tưởng tượng bao kẻ khác (đồng cảnh ngộ với tôi) vẫn kiên trì chịu đựng cho đến chết, ru ngủ bởi thói quen, chắc thế, - mê muội, buông xuôi giữa lòng một gia đình thân thương mà đầy quyền lực. Còn tôi, còn tôi, còn tôi…

Nàng đứng lên, mở toang của sổ, cảm thấy hơi lạnh ban mai ùa vào. Sao không bỏ trốn? Chỉ cần trèo qua cửa sổ này. Họ có đuổi theo nàng không? Họ có lại đẩy nàng ra trước vành móng ngựa? Ðây là cơ may cần níu lấy. Tất cả, còn hơn là cơn hấp hối dai dẳng, triền miên. Thérèse đã kéo chiếc phô-tơi, kê sát cửa sổ. Nhưng nàng không có tiền. Hàng triệu cây thông đã thuộc về nàng một cách vô ích; không thông qua Bernard, một xu nàng cũng không thể mó tới. Tốt nhất là băng qua đầm lầy, như Daguerre xưa kia, kẻ sát nhân bị truy nã, mà thuở bé Thérèse đã đem lòng thương hại (nàng nhớ mấy tên sen đầm được Balionte đãi rượu dưới bếp, ở Argelouse). Và chính một con chó của dòng họ Desqueyroux đã tìm ra dấu vết kẻ khốn nạn. Họ bắt gặp ông đói lả nơi bãi hoang. Thérèse thấy ông bị trói gô trên chiếc xe bò đầy rơm. Người ta đồn ông đã chết trên tàu trước khi đến Cayenne. Con tàu... nhà tù khổ sai... Họ không thể giao nộp nàng như đã nói ư? Cái bằng chứng mà Bernard huênh hoang đang nắm trong tay... chắc là láo khoét, trừ phi anh đã phát giác ra gói độc được, trong túi chiếc áo choàng sờn cũ...

Thérèse biết rõ ràng đích xác. Nàng mò mẫm bước lên cầu thang. Càng lên, nàng càng thấy sáng sủa hơn, nhờ những tia nắng mai trên kia dọi qua cửa kính. Ðây rồi, ngay đầu hành lang tầng thượng, cái tủ vẫn treo những quần áo cũ - người ta không đem cho bao giờ, bởi còn cần dùng trong mùa săn. Cái áo choàng ngắn phai màu có một túi thật sâu. Cô Clara xếp chiếc áo len đan ở đó, vào cái thời mà cả cô nữa, trong một góc lẻ loi, cũng ngồi rình lũ chim cu. Thérèse lòn tay vào áo, rút ra một gói niêm sáp.

Chloroforme: 30 gam.

Aconitine: viên nhỏ n°- 20.

Digitaline dung dịch: 20 gam.

Nàng đọc lại mấy chữ đó, mấy con số đó. Chết! Nàng vẫn luôn kinh hãi cái chết. Chủ yếu là đừng nhìn thẳng vào mặt nó. Chỉ dự kiến những cử chỉ cần thiết, chế nước, pha thuốc bột, uống một hơi, nằm dài trên giường, nhắm nghiền mắt lại. Đừng tìm cách nhìn gì ở thế giới bên kia. Sao lại khiếp sợ. Giấc ngủ này hơn mọi giấc ngủ khác? Nếu nàng rùng mình, ấy là vì buổi sáng nay lạnh. Nàng trở xuống, dừng lại trước căn phòng Marie đang ngủ. Tiếng chị vú ngáy như con thú gầm gừ. Thérèse đẩy cửa. Ánh sáng ngày mới len qua cửa xếp. Màu trắng của chiếc giường sắt hẹp, hiện rõ trong bóng tối. Hai nắm tay bé xíu đặt trên chăn. Một khuôn mặt nhìn nghiêng chưa rõ nét, vùi trong gối. Thérèse nhận ra vành tai quá to: tai nàng. Thiên hạ có lý; phiên bản của nàng đang nằm kia, mê man say ngủ. “Ta bỏ đi - nhưng cái phần da thịt kia phải ở lại với cái số kiếp đeo đẳng mãi không tha cho đến chết. “Khuynh hướng, nề nếp, luật huyết thống, thứ luật không thể cưỡng lại. Thérèse từng đọc thấy tin những kẻ tuyệt vọng mang con theo vào cõi chết; người lương thiện buông tờ báo: “Sao những việc như thế lại có thể xảy ra?”. Bởi nàng là yêu quái, Thérèse cảm thấy một cách sâu xa là việc đó có thể xảy ra lắm và chỉ vì một cớ không đâu. Nàng quì xuống, hôn nhẹ lên bàn tay mũm mĩm của con, nàng ngạc nhiên về cái gì đó từ đáy lòng bỗng dưng rào rạt, và trào lên khóe mắt, làm nóng bừng đôi má: vài giọt lệ bẽ bàng rơi xuống, nàng là kẻ chẳng khóc bao giờ.

Thérèse đứng dậy, lại tần ngần nhìn đứa bé, sau cùng quay về phòng mình, rót nước đầy ly, gỡ niêm sáp, lưỡng lự trước ba gói độc dược.

Cửa sổ mở rộng, tiếng gà gáy cơ hồ muốn xé tan màn sương mù còn vướng vất từng mảng trắng muốt trên những cành thông. Đồng quê tràn ngập bình minh. Làm sao từ bỏ bao ánh sáng chói lọi? Chết là thế nào nhỉ? Chẳng ai biết chết ra sao cả. Thérèse không tin vào hư không. Thérèse không chắc là chẳng có ai ở đó. Thérèse giận mình sao lại cảm thấy khiếp sợ đến thế. Nàng, kẻ không do dự đẩy người khác vào cõi chết, lại lồng lên trước hư không. Sự hèn nhát đã sỉ nhục nàng! Nếu Đấng ấy tồn tại (và nàng lại thấy, trong một thoáng, ngày lễ Thánh thể cuồng nhiệt, con người cô đơn ngột ngạt trong chiếc áo lễ vàng, cái vật ông bưng bằng hai tay, và đôi môi mấp máy, với vẻ khổ đau): vì rằng Đấng ấy tồn tại, Đấng ấy hãy đẩy bàn tay sát nhân ra, trước khi quá muộn – và nếu ý Người muốn rằng một tâm hồn mù quáng đáng thương có thể vượt qua, thì ít ra, xin Người hãy ân cần đón nhận con yêu quái này, một sinh vật do Người tạo ra. Thérèse chế vào nước chất chloro-forme, cái tên quen thuộc khiến nàng đỡ sợ sệt, vì nó chỉ gợi ra hình ảnh của giấc ngủ. Nàng phải làm nhanh! Cả nhà vừa thức dậy. Người hầu phòng đã đẩy các cửa bản lề trong phòng cô Clara lên. Bà ta la hét gì với người điếc thế? Thường thường bà hầu phòng có thể khiến cô hiểu qua cử động của đôi môi mà. Tiếng mở cửa và những bước chân rầm rập. Thérèse chỉ còn đủ thì giờ vứt chiếc khăn choàng lên bàn để che giấu các gói thuốc. Bà hầu phòng không gõ cửa, ập vào:

- Bà cô đã chết! Tôi thấy bà nằm trên giường còn mặc nguyên quần áo đã chết từ lâu. Mình mẩy bà ta lạnh ngắt.

Dù sao người ta cũng đặt trong tay bà lão nghịch đạo một tràng hạt, và trên ngực bà một cây thánh giá. Những tá điền lần lượt bước vào, quì xuống, đi ra, không quên nhìn chăm bẳm Thérèse đang đứng phía chân giường: (Biết đâu cũng lại chính bà ấy gây ra vụ này?) Bernard đi Saint Clair báo tin cho gia đình và lo lắng mọi chuyện. Chắc anh phải nhủ thầm là tai nạn đến thật đúng lúc, đánh lạc hướng tất cả. Thérèse nhìn tấm thân già nua, trung hậu kia đã nằm xuống dưới chân nàng, ngay lúc nàng sắp lao vào cõi chết. Ngẫu nhiên, trùng hợp. Nếu người ta bảo là do ý Trời, nàng sẽ nhún vai. Thiên hạ xầm xì với nhau: “Bác thấy chưa? Bà ấy không thèm khóc vờ nữa kia!” Thérèse nói thầm với người đã khuất: sống mà như cái xác, giữa những kẻ thù ghét mình. Đừng nhìn gì nơi thế giới bên kia cả nhé!

Trong lễ tang, Thérèse giữ đúng vị trí mình. Chúa nhật sau đó, nàng đến nhà thờ với Bernard, thay vì rẽ qua gian bên, như thường lệ, anh ngang nhiên tiến vào gian giữa. Thérèse chỉ vén tấm mạng che mặt bằng nhiễu lên, khi đã ngồi xuống giữa mẹ chồng và chồng mình. Một cây trụ che khuất nàng với cử tọa, trước mặt nàng, chỉ có đám lễ sinh. Bị bao vây mọi phía: đám đông phía sau, Bernard bên phải, bà de la Trave bên trái, chỉ còn cái đó được mở ra với nàng phía trước, như đấu trường với con bò tót từ bóng đêm nhảy ra: cái khoảng trống không, có một người giả trang đứng giữa hai đứa bé, hai tay khẽ dang ra; miệng nói lầm bầm.