← Quay lại trang sách

Chương XI

Buổi chiều, Brenard và Thérèse trở về ngôi nhà cố kính của dòng họ Desqueyroux, gần như hoang vắng từ nhiều năm qua. Lò sưởi ám khói, các cửa sổ khép hờ và gió lòn dưới các cánh cửa bị chuột gặm. Nhưng mùa thu năm ấy đẹp quá, nên thoạt tiên Thérèse không thấy khổ sở về những điều bất tiện đó. Cuộc săn bắn giữ Bernard ở ngoài đến chiều tối. Về tới là anh sà ngay vào bếp, ngồi ăn với vợ chồng Balionte. Thérèse nghe tiếng muỗng nĩa lách cách, tiếng chuyện trò tẻ nhạt. Tháng mười, đêm xuống nhanh. Vài cuốn sách từ nhà bên mang về đã quá nhàm chán. Bernard lờ luôn việc nàng yêu cầu đặt mua sách ở Bordeaux, anh chỉ cho phép Thérèse trữ thêm phần thuốc lá. Cời lò…nhưng khói thông lẩn quất làm cay xé mắt nàng, và cổ họng bị sưng vì hút quá nhiều. Balionte vừa dọn đi một bữa ăn vội vã, Thérèse đã tắt đèn, lên giường. Nàng nằm như thế đã nhiều giờ qua, mà giấc ngủ vẫn chưa đến giải thoát cho nàng. Sự yên lặng của Argelouse khiến nàng không ngủ được: nàng thích những đêm gió lộng hơn – lời than vãn vi vu bất tận, từ những ngọn cây ẩn chứa chút gì êm ái của tình người. Thérèse thiếp dần trong sự đong đưa bềnh bồng ấy. Những đêm xao động của thu phân khiến nàng dễ ngủ hơn là những đêm yên tĩnh.

Dẫu các buối tối dường như dài bất tận đối với nàng, lắm khi nàng buộc phải về nhà trước hoàng hôn. Bởi nhác thấy nàng, một bà mẹ chộp lấy tay đứa con, lôi xệch vào trại. Hoặc một gã chăn bò quen tên, không buồn chào lại nàng. A! Thế mình biến mất hay chìm nghỉm giữa lòng một thành phố đông đúc còn hơn! Ở Argelouse, không gã mục đồng nào chẳng nghe đàm tiếu về nàng (cả cái chết của cô Clara, họ cũng qui cho nàng nốt). Nàng không dám bước qua thềm nhà ai, nàng rời khỏi nhà mình qua một cửa bí mật, tránh các xóm, tiếng bánh xe bò lộc cộc từ xa, đủ khiến nàng phóng vội vào một ngả rẽ. Nàng bước nhanh với tâm trạng âu lo của kẻ bị săn đuổi, ẩn mình trong bụi rậm chờ chiếc xe đạp qua khỏi.

Chúa nhật, dự lễ nhà thờ ở Saint Clair, nàng không còn cảm giác kinh hãi đó và được hưởng đôi giờ thư thả. Dư luận ở thị trấn chừng như có nhiều thiện cảm với nàng hơn. Nàng đâu hay biết cha mình, cùng họ hàng La Trave đã mô tả nàng như một nạn nhân vô tội, đang lâm tình trạng nguy kịch:

- Chúng tôi e con bé không gượng dậy nổi; nó chẳng muốn gặp mặt ai cả và bác sĩ bảo đừng làm trái ý nó. Bernard hết lòng chăm sóc nó, nhưng tình thần nó đã bị tổn thương…

Đêm cuối tháng mười, một trận gió dữ dội từ Đại Tây Dương, ào ào thổi tới, khiến những ngọn cây luôn vật vã điên cuồng và Thérèse, trong cơn nửa tỉnh nửa mê, lặng nghe tiếng gầm thét của đại dương. Nhưng lúc sáng sớm, không phải cái giọng than van ảo não ấy đánh thức nàng dậy. Nàng đẩy cửa bản lên, gian phòng vẫn tối om, một cơn mưa nhỏ, dày mịt, tuôn chảy ròng ròng trên mái ngói dãy nhà phụ, trên vòm lá còn um tùm của những cây sồi.

Hôm ấy, Bernard không ra khỏi nhà. Thérèse rít vài hơi, rồi vứt điếu thuốc, đi lại trên hành lang đầu cầu thang, nghe tiếng bước chân chồng mình lê từ phòng này sang phòng khác dưới nhà, mùi ống vố nồng nặc len lỏi bay lên tận phòng, đánh bạt mùi thuốc lá nâu của Thérèse, và nàng nhận ra hương vị quãng đời cũ. Ngày đầu tiên trở trời… Nàng phải sống bao lâu nữa, bên một góc lò sưởi mà ngọn lửa đã tắt? Trong các xó nhà giấy mốc tróc cả ra. Trên tường, còn lờ mờ in dấu mấy bức chân dung cũ, mà Brenard đã lấy đem chưng bày phòng khách ở Saint Clair. Những cây đinh rỉ sét trống trơ, chẳng treo mắc gì nữa hết. Bên trên lò sưởi, trong cái khung bộ ba giả đồi mồi, mấy tấm hình nhợt nhạt, tựa hồ những người chết trong ảnh, lại chết thêm lần nữa vậy: cha Brenard, bà nội anh, và chính Bernard đội mũ “kiểu thái tử Edouard”. Trọn cả ngày phải tiếp tục sống, trong căn phòng này, và rồi những tuần, những tháng…

Đêm xuống. Thérèse hết chịu nổi, nàng khe khẽ mở cửa ra, xuống nhà, bước vào bếp. Nàng thấy Bernard ngồi trên cái ghế thấp, trước ngọn lửa, chợt đứng phắt dậy, Balion ngưng lau chùi khẩu súng; Balionte buông rơi đồ đan. Cả ba nhìn nàng với vẻ lạ lùng đến độ nàng phải hỏi:

- Tôi làm các người sợ à?

- Cô không được quyền xuống bếp. Cô không biết sao?

Nàng không nói gì, lui ra phía cửa, Bernard gọi nàng lại:

- Vì rằng đã gặp cô… tiện thể tôi muốn nói luôn với cô là sự hiện diện của tôi ở đây không còn cần thiết nữa. Chúng tôi đã tạo được ở Saint Clair một nguồn thiện cảm; người ta tin, hay giả vờ tin là cô có phần nào bị suy nhược thần kinh. Tất nhiên cô thích sống một mình hơn, thỉnh thoảng tôi sẽ về thăm cô. Từ nay, tôi miễn cho cô việc đi lễ nhà thờ…

Nàng ấp úp “đi lễ thì có gì là phiền đâu”. Anh bảo niềm vui thú của nàng đâu đáng kể. Kết quả tìm kiếm đã đạt được rồi.

- Bởi đối với cô, việc đi lễ chẳng có nghĩa gì…

Nàng mở miệng, tưởng chừng sắp nói, nhưng cứ lặng thinh. Anh nhấn mạnh để nàng khỏi phá vỡ cái thành công mau chóng, quá sức mong đợi bằng bất cứ lời nói hành vi nào. Nàng hỏi Marie ra sao. Anh đáp là nó vẫn khỏe, và ngày kia, nó sẽ cùng Anne và bà La Trave đi Beaulieu. Cả anh cũng đến đó vài tuần: nhiều nhất là hai tháng. Anh mở cửa, nép mình bên Thérèse, bước ra.

Vừa mờ sáng, nàng nghe Balion đóng ngựa vào xe. Rồi tiếng nói của Bernard, tiếng ngựa giẫm chân, và tiếng lộc cộc của tiếng xe bò xa dần. Sau đó, là những giọt mưa trên mái ngói, trên cửa kính đục mờ, trên cánh đồng hoang vắng, trên một trăm cây số đầy truông và đầm lầy, trên những cồn cát lún, cuối cùng, trên đại dương.

Thérèse mồi điếu khác tiếp nối điếu thuốc vừa tàn. Vào khoảng bốn giờ, nàng khoác chiếc áo vải dầu, lầm lũi đi trong mưa. Nhá nhem tối, nàng hơi sợ nên quay về. Lò sưởi đã tắt, và bởi lạnh run, nàng chuôi luôn lên giường ngủ. Khoảng bảy giờ, Balionte mang lên cho nàng món trứng chiên dăm bông, nàng từ chối không ăn; mùi mỡ dầu rốt cuộc khiến nàng nghẹn ứ đến tận cổ. Lúc nào cũng thịt chín dầm mỡ hoặc dăm bông. Balionte nói rằng chẳng còn món nào ngon hơn để dọn cho nàng: Ông Bernard cấm bà đụng tới gà vịt. Bà than phiền Thérèse bắt bà phải lên xuống cầu thang một cách vô ích (bà mắc chứng suy tim, đôi chân sưng phồng). Việc hầu hạ nàng quá nặng nề đối với bà, chỉ vì ông Bernard mà bà phải gánh vác thôi.

Đêm đó, Thérèse lên cơn sốt; đầu óc minh mẫn kỳ lạ của nàng vẽ ra trọn vẹn cuộc sống ở Paris. Nàng thấy lại ngôi quán trong rừng, nàng từng đến, nhưng không có Bernard, mà với Jean Azévédo và một nhóm phụ nữ trẻ. Nàng đặt cái túi đồi mồi lên bàn, châm một điếu Addullah. Nàng nói, bày giải tâm tình và dàn nhạc chơi thật êm. Vây quanh nàng là những bộ mặt mê, say hào hứng, nhưng chẳng chút kinh ngạc.

Một thiếu phụ nói:

- Cũng đúng như tôi… tôi cũng cảm thấy thế.

Một nhà văn kéo nàng ra một góc đề nghị:

- Bà phải viết về tất cả những gì xảy ra trong tâm hồn mình. Chúng tôi sẽ cho đăng nhật ký một phụ nữ thời nay trong tạp chí chúng tôi.

Một gã đàn ông, từng đau khổ vì nàng, dìu nàng lên ô-tô của gã. Họ chạy ngược con đường rợp bóng mát trong rừng, nàng không chút luống cuống, mà còn cảm thấy ngây ngất bên tấm thân trẻ trung, điên đảo, ngồi bên trái nàng.

- Không, đêm nay không được đâu, nàng thỏ thẻ. Đêm nay em có hẹn ăn tối với một nhỏ bạn.

- Thế đêm mai nhé?

- Ồ! Không được.

- Buổi tối, không bao giờ cô rảnh sao?

- Hầu như không bao giờ… Có thể nói chẳng bao giờ…

Một người đi vào đời nàng và vì người đó, mọi điều khác trên thế gian bỗng trở thành vô nghĩa, một người chẳng ai trong đám bạn bè được biết, một người hèn mọn, không tên tuổi, nhưng toàn bộ cuộc sống của Thérèse xoay quanh cái vầng dương chỉ riêng nàng nhìn thấy, và chỉ có da thịt nàng cảm nhận được hơi ấm. Paris ồn ào như gió xào xạc rừng thông. Tấm thân kề cận thân nàng, dù nhẹ bổng cũng khiến nàng nghẹt thở; nhưng thà tắt thở còn hơn phải rời xa thân thể đó. (Và Thérèse vờn một cử chỉ như ôm ghì; tay phải của nàng bấu vào vai trái. Những móng nhọn của bàn tay trái riết chặt bờ vai phải).

Nàng đứng dậy, lê chân trần ra mở cửa sổ; bóng tối không lạnh lẽo chút nào nhưng làm sao hình dung có một hôm không còn mưa nữa? Trời sẽ mưa đến ngày tận thế. Nếu có tiền, nàng sẽ trốn lên Paris, đến thẳng nhà Jean Azévédo, thổ lộ hết với anh, anh sẽ tìm ra việc làm cho nàng. Là một phụ nữ cô độc giữa Paris, tự mình kiếm sống, không lệ thuộc vào ai. Không còn gia đình! Mặc cho con tim lựa chọn những người của mình–Không căn cứ theo dòng dõi, mà theo lý trí, và xác thịt nữa chứ, tìm ra những người thân đích thực, dù rất hiếm hoi, dù xiêu lạc nơi đâu… Cuối cùng nàng ngủ thiếp đi, vẫn để ngỏ cửa sổ. Buổi sớm lạnh lẽo và ẩm ướt đánh thức nàng, răng khua lập cập, nàng không đủ can đảm bò dậy đóng cửa sổ – thậm chí không nhấc nổi tay để kéo cái chăn.

Ngày hôm ấy, nàng không trở dậy, không trang điểm. Nàng ngốn vội mấy miếng thịt hầm dầm mỡ, uống cà phê để có thể hút thuốc (bụng trống, nàng không chịu nổi mùi thuốc lá). Nàng cố tìm lại những hình ảnh tưởng tượng trong đêm, vả chăng Argelouse không còn bao nhiêu tiếng động và buổi xế chiều cũng ảm đạm chẳng thua gì đêm tối.

Vào những ngày ngắn ngủi nhất trong năm, mưa dai dẳng, mờ mịt, xóa nhòa thời gian, chẳng còn biết đâu là giờ giấc, hoàng hôn tiếp nối hoàng hôn trong im lặng bất biến. Nhưng Thérèse không buồn ngủ nữa và những giấc mơ của nàng vì thế trở nên rõ ràng hơn. Nàng kiếm tìm có phương pháp, trong quá khứ những khuôn mặt đã lãng quên, những khóe môi xa xăm một thời yêu dấu, những xác thân mù mờ mà cuộc gặp tình cờ, sự ngẫu nhiên trong đêm, đã nhích gần cơ thể ngây dại của nàng. Nàng cố tạo ra một hạnh phúc, mường tượng một niềm vui, dựng nên một chuyện tình trắc trở với đủ mọi lớp lang…

- Bà ấy không rời khỏi giường nữa, cũng chẳng buồn mó tới thịt hầm và bánh mì.

Ít lâu sau đó, Balionte càu nhàu với Balion:

- Nhưng tôi đảm bảo với ông là bà ấy đã nốc hết rượu. Đưa bao nhiêu cho con mẹ ấy, là cạn bấy nhiêu. Và sau đó, với điếu thuốc, bà ấy đốt cháy cả chăn màn. Cuối cùng rồi bà ấy thiêu luôn bọn mình mất, bà ấy hút nhiều đến nỗi ngón tay và móng tay vàng kịt, như nhúng cồn kim sa vậy. Tiếc một nỗi, những tấm chăn ấy lại được dệt đặc biệt ở đây. Đừng có mong tôi thay đổi thường xuyên nữa!

Bà còn nói chẳng phải bà không chịu quét phòng hay dọn giường. Chỉ vì mụ lười kia không muốn chui ra khỏi chăn. Công sức đâu mà Balionte, với đôi chân sưng phù xách từng bình nước nóng lên gác để rồi buổi chiều, lại thấy chúng còn nằm nguyên chỗ ban sáng, ngoài cửa phòng.

Ý nghĩ Thérèse rời khỏi cái thân thể xa lạ, nàng vừa gợi ra cho vui, lòng ngao ngán cho hạnh phúc của mình, cảm thấy ê chề với lạc thú tưởng tượng, nàng nghĩ ra một trò tiêu khiển khác. Thiên hạ quì gối quanh chiếc giường tồi tàn của nàng. Một đứa bé ở Argelouse (một trong những thằng nhóc thấy nàng đến gần đã lủi mất) được mang vào phòng nàng trong tình trạng hấp hối, nàng đặt bàn tay ám vàng khói thuốc lên người nó, thế là nó khỏi bệnh, ngồi bật dậy. Nàng vẽ vời nhiều cơn mơ khác, bình thường hơn.

Nàng hình dung một ngôi nhà ven biển, thấy trong trí khu vườn, khoảnh sân, bày biện các phòng, chọn từng chiếc bàn, cái ghế, tìm chỗ cho những đồ đạc của nàng ở Saint Clair, bàn cãi với mình về cách chọn vải vóc. Sau đó, cảnh vật lung linh, trở nên mờ nhạt, chỉ còn lùm cây xanh, với chiếc băng trước biển. Thérèse ngồi tựa đầu vào một bờ vai, đứng dậy khi nghe chuông gọi cơm, bước vào lùm cây mờ tối và ai đó đi bên cạnh, bất chợt choàng tay ôm quanh lưng nàng, kéo ghì nàng lại. Một nụ hôn, nàng nghĩ, phải ngưng đọng thời gian; nàng tưởng tượng trong tình yêu, hẳn phải có những phút giây vô tận như thế.

Nàng chỉ tưởng tượng thôi, chứ nàng chưa biết đến nó bao giờ. Nàng lại thấy ngôi nhà trắng, cái giếng, tiếng bơm nước cọt kẹt, những cánh hoa hướng nhật quì mới tưới, tỏa hương thơm ngát khoảnh sân, bữa ăn tối là thoáng chốc nghĩ ngợi trước cái hạnh phúc điên mê của buổi chiều và đêm tối, chắc là không thể nhìn ngắm tỏ tường, bởi nó vượt quá sức mạnh tim ta. Thế là Thérèse đã tận hưởng và thấu hiểu cái tình yêu mà nàng bị tước đoạt nhiều hơn ai khác. Nàng thoáng nghe tiếng la lối om sòm của Balionte. Bà lão kêu la gì thế?

- Ông Bernard sẽ từ Midi về, chẳng biết ngày nào, không báo trước. Chẳng biết ông ấy nghĩ sao khi nhìn thấy căn phòng này? Đúng là một bãi heo! Cho dù vui lòng hay miễn cưỡng, lệnh bà phải dậy thôi.

Ngồi trên giường, Thérèse kinh hãi nhìn đôi chân gầy guộc, và bàn chân có vẻ quá khổ của mình. Balionte quấn nàng trong áo ngủ, đẩy nàng vào chiếc phô-tơi. Nàng quơ tay bên cạnh tìm thuốc lá, nhưng tay nàng rơi vào khoảng không. Ánh sáng lạnh lẽo tràn qua khung cửa mở. Balionte, cây chổi trên tay, lăng xăng hối hả, vừa thở hổn hển vừa chửi lầm bầm. Balionte thế mà tốt bụng, kẻ ăn người ở trong nhà hay kể câu chuyện bà khóc sướt mướt vào mỗi dịp Giáng sinh khi phải mổ con lợn bà nuôi đến mập ú. Bà giận Thérèse đã không nói với bà một tiếng. Đối với bà, im lặng là điều sỉ nhục, là dấu hiệu khinh bỉ. Nhưng nói hay không đâu còn tùy thuộc Thérèse. Khi cảm thấy thân thể mình mát rượi trong tấm chăn sạch sẽ, nàng ngỡ đâu mình đã cất tiếng cám ơn; kỳ thực chẳng một thanh âm nào vuột khỏi môi nàng.

Balionte, vừa đi ra ngoài vừa ngoái lại nói:

- Phen này bà hết đốt được nữa!

Thérèse sợ bà mang hết thuốc lá đi, với tay về phía bàn, quả nhiên gói thuốc không còn ở đấy. Làm sao sống mà không hút? Những ngón tay nàng phải luôn sờ mó cái vật bé nhỏ, khô khan và nóng bỏng ấy, để sau đó, nàng có thể ngửi mãi mùi thuốc trong căn buồng tắm đẫm thứ sương mù, do nàng thở ra và hít vào, Balionte chỉ trở lên vào buổi chiều, suốt buổi trưa nhịn thuốc! Nàng nhắm mắt lại và mấy ngón tay vàng kịt cứ vân vê: cử động quen thuộc quanh một điếu thuốc.

Lúc bảy giờ, Balionte vào với một ngọn nến, đặt cái mâm lên bàn: có sữa, cà phê và miếng bánh mì.

- Nào, bà không cần gì khác chứ?

Bà đợi Thérèse lên tiếng đòi thuốc một cách tinh quái, nhưng Thérèse đăm đăm nhìn vào tường, không buồn quay mặt lại. Chắc Balionte đã sơ ý gài cửa sổ không chặt; một cơn gió bật tung ra, và cái lạnh đêm khuya tràn ngập căn phòng. Thérèse thấy không đủ can đảm hất chăn chui ra, chân trần chạy đến cửa sổ. Thu mình lại, kéo chăn lên tận mắt, nàng nằm im lìm, chịu lạnh từ mí mắt và trán trở lên. Tiếng thì thào của rừng thông mênh mang khắp Argelouse, nhưng bất chấp lời tỉ tê của đại dương, đó vẫn là cái yên lặng của Argelouse. Thérèse nghĩ, nếu thích đau khổ, nàng đã chẳng quấn chặt mình trong lớp chăn ấm áp thế này. Nàng thử xô chúng ra, cảm thấy chỉ có thể chịu đựng cái lạnh được vài giây. Sau đó, nàng thử chịu đựng lâu hơn như thể đùa chơi. Nếu không tuân theo một ý muốn đã cân nhắc, nỗi đau đã trở thành mối bận tâm của nàng và – biết đâu? cũng là lẽ sống của nàng trên đời.