Chương 3
Karen và George lần lượt rình xem đêm qua Lindy có về nhà không, Karen đi trước. Karen bẩm sinh hay lo lắng, mới sáng sớm thứ hai, cô bé đã bò khỏi giường, xuống dưới nhà, sau khi đến phòng Lindy xem qua, nó lại chui vào chăn, tiếp tục ngủ. Nhưng sau lúc đó - vì phát hiện Lindy không ở trên giường, phòng nó cũng yên lặng và trống trải - Karen không ngủ, tiếp theo lại nghe tiếng George đến đó rình, rồi vào nhà vệ sinh. Nó không quan tâm sự việc như Karen, chỉ gõ nhẹ cửa trước khi vặn nắm đấm, càng không rón rén vào phòng như cô bé mà mở to mắt quan sát mọi động tĩnh, tìm kiếm xem Lindy đang ở đâu.
Suốt một thời gian dài, chúng đều mong có ngày Lindy không ở trong phòng. Nhưng thực tế, quả thật phần lớn thời gian Lindy đều không ở đó. Năm nay cô bé 17 tuổi, đang học cấp III. Cô bé chỉ đi học theo ý bố mẹ thôi, cả ngày lông bông với những đứa trẻ quái dị mặc đồ đen, mỗi đêm thường về rất khuya, người nồng nặc mùi rượu, thuốc lá, nó thường cãi bố mẹ, cười nhạo lối sống “quê mùa” của họ, luôn mơ ước ngày nào đó sẽ bắt đầu cuộc sống thật sự giống như tác giả Jack Kerook mà cô bé yêu thích. Mỗi khi nghĩ đến Lindy, Karen liền nhớ cái dáng vẻ khi đứng trên thềm cửa của chị mình: người hơi ngả ra ngoài, mái tóc đen dài tung bay trong gió. Lindy chưa từng ngoan ngoãn vâng lời và cô bé thường bắt hai đứa em làm việc nhà.
Lindy là đứa trẻ khó bảo, nhưng Karen và George lại rất ngoan ngoãn vâng lời. Chúng học hành chăm chỉ, khi ngồi ăn cơm người luôn giữ thẳng, đồng thời im lặng tuyệt đối, dường như muốn làm gương cho Lindy, đồng thời cầu nguyện khi ăn món tráng miệng không có tiếng ồn ào của người lớn. Chúng cầu mong bố mẹ có thể chú ý thấy chúng ngồi nghiêm chỉnh, chứ không phải như bộ dạng Lindy ngồi đối diện: cúi gầm mặt, miệng nhai mớ tóc của mình, khi có người nói chuyện liền mở đôi mắt to màu than mà nhìn.
Karen đang học lớp 7, là một cán bộ lớp mẫu mực. George là thành viên của “hội vinh dự” trong trường. Dù nó đã 16 tuổi, nhưng vẫn chưa có bằng lái, có lẽ vì chưa có bạn gái, nên tạm thời vẫn chưa cần đến. Lindy cũng không có bằng lái, nhưng ngày nọ dù chưa được phép nó đã lái xe của mẹ đi, kết quả con bé đã va vào thùng thư của nhà Dean.
Liên tục xảy ra mấy chuyện tương tự, nên Karen và George mới rình xem như thế. Tháng trước, sau vài tuần khai giảng, một buổi chiều nọ Lindy không về nhà sau giờ học. Lúc đầu không ai chú ý, nhưng tối đến không thấy con bé đâu, Pauline mới gọi điện đến hỏi từng cô bạn của Lindy, nhưng số bạn đó từ lâu đã không qua lại với Lindy nữa. Cô lại gọi điện đến cửa hiệu, thế là bố chúng bỏ việc về nhà sớm. Chẳng ai chuẩn bị bữa tối, chẳng ai hỏi Karen có làm bài tập trước khi xem ti vi không. Sau khi báo cảnh sát, họ kiến nghị nếu sáng mai Lindy vẫn chưa về hãy gọi báo họ biết. Sau đó, khoảng 10 giờ, khi cả nhà đang lo sốt vó thì Lindy xuất hiện, trông rất bực dọc, thậm chí chẳng màng viện lý do giải thích tại sao mình về muộn, chỉ nói đi cùng vài người bạn. Nhưng là những người bạn nào, đi đâu, cô bé chỉ nhún vai chẳng nói gì.
Lúc này, Karen và George bỗng nhiên ý thức được rằng: thật ra bố mẹ chúng chẳng hề có quyền lực của bậc phụ huynh như họ thường nói.
Vào thứ bảy tuần trước, Lindy ra ngoài với một cô bạn. Khi cô bạn Lindy lái xe vào sân nhà, chúng phát hiện cô bé đó cũng tô mắt đen ngòm tựa con gấu trúc giống như Lindy. 7 giờ sáng hôm sau, Lindy vẫn không có mặt trên giường, lúc 7 giờ rưỡi cũng không. Sau đó, Karen chợp mắt một lúc, vì lúc 8 giờ hơn, cô bé nghe thấy tiếng George trách Lindy ở ngưỡng cửa, “Chị đi đâu đó hả?”, sau là tiếng càu nhàu khó hiểu của Lindy. Lúc 10 giờ 15 phút, mẹ chúng gõ cửa phòng Lindy, rồi vui vẻ hỏi: “Lindy? Con đến nhà thờ không?”. Lindy trả lời cộc lốc. Cô bé luôn gọi “nhà thờ thánh linh” là “cái chăn thánh linh”. Về điểm này, George và Karen đều rất buồn cười, nhưng rõ ràng, mẹ chúng lại không nghĩ vậy.
Thế nên, chuyện tương tự sẽ còn xảy ra nữa. Đồng hồ ở chiếc radio đặt trên đầu giường Lindy hiện số 8g25, Lindy có thể xuất hiện bất cứ lúc nào.
Nhưng có lẽ ít nhiều họ đã chuẩn bị cho ngày này, chuẩn bị sẽ có một ngày cô bé bỏ nhà ra đi mãi mãi.
Lúc ăn sáng, bọn trẻ không nói dối, nhưng cũng chẳng nói ra toàn bộ sự thật. “Lindy dậy chưa?” mẹ chúng hỏi, “Có ai nghe thấy tiếng con bé không?”. George nhướng mày, lầu bầu một câu gì đó, chẳng ai hiểu. Karen tập trung nhìn chiếc bánh rán trước mặt, nhẹ nhàng lắc đầu.
“Nhưng tối qua con bé có về nhà mà”. Pauline nói, rồi lại liếc nhanh qua bố chúng.
George không trả lời. Karen dừng một lúc, rồi miễn cưỡng nói: “Dạ, đúng vậy! Con có nhìn trộm vào phòng chị ấy”.
Nếu Karen không nói câu “đúng vậy”, cô bé sẽ chẳng có lỗi gì. Nhưng vẫn giống như mọi khi, cô bé nói quá nhiều, nên càng vùi đầu sâu vào trong đĩa thức ăn, nó chỉ thấy một cơn giận dữ đau nhói, chẳng những vì tên George nhát gan - lúc này nó đang háo hức kẹp miếng bơ vào bánh rán - cũng thất vọng về bố mẹ mình. Trời ạ, sao họ không tự đi xem chứ? Sao tối qua họ không thức chờ Lindy về? Bố mẹ những người khác đều làm thế cả mà.
Nhưng giờ họ ngồi đây, vẻ vô tình. Bố gấp tờ báo làm bốn, đang chăm chú xem một mục trên đó; mẹ đang bâng quơ nhìn một con sẻ nhỏ trên ban công cửa sổ. Hiện họ đang trong thời kỳ đình chiến vì vấn đề quyên tiền cho “quỹ mồ côi”. Pauline ký tên mà không hỏi ý Micheal. Micheal bảo Pauline không biết tiết kiệm lại cố chấp bướng bỉnh, bảo cô nịnh người phụ nữ kêu gọi quyên tiền. “Điều em quan tâm chẳng phải vấn đề trẻ mồ côi!”, Micheal từng nói thế, “‘Hiệp hội bảo vệ trẻ mồ côi’ gì chứ! Chúng ta đâu thuộc hội đó! Em quyên tiền chỉ vì muốn lấy lòng Sissy Moss thôi”.
“Dĩ nhiên không phải!”, Pauline gào lên, “Em rất quan tâm trẻ mồ côi! Em chẳng bận tâm nhà thờ nào giúp chúng!”.
“Vậy thì tại sao?” bố hỏi, “Sissy Moss thấy thích em rồi chứ? Cô ta có mời em đến nhà chơi không? Có cho em số điện thoại không?”.
“Đúng thế, thực tế cô ấy quả làm như vậy”. “Ồ? Lúc nào thế?”.
“Hồi thứ sáu em gọi điện, Sissy Moss bảo thật trùng hợp, vì cô ấy đang định gọi cho em!”.
“Pauline”. Micheal nói với giọng than thở nặng nề, tiếp theo đó vẫn như mọi khi: nổi giận đùng đùng, lời nói cay độc, nước mắt, tiếng kêu gào, tiếng dập cửa thật mạnh và bầu không khí chết lặng trong nhà. Rồi sau đó là những ngày làm lành chán ngán: họ mặn nồng gọi nhau “anh yêu”, “em yêu”, cửa phòng ngủ đóng chặt kín, lại còn lén lút khóa lại, sau khi bước ra khỏi phòng trông họ thật e thẹn. Bây giờ, trong nhà yên tĩnh vô cùng, có lẽ “cuộc nội chiến” sẽ kéo dài mấy tuần, nếu mọi chuyện thuận lợi, Karen thầm cầu nguyện. Bố cô bé vừa gấp báo, vừa trầm giọng hát. Mẹ cô bé đứng dậy đi lấy cà phê, khi đi ngang qua còn dùng một ngón tay nhẹ nhàng chạm vào lưng bố.
Nếu Lindy ở nhà, bầu không khí sẽ khác hẳn mọi khi, trở nên cáu kỉnh, khó chịu. Lindy sẽ ngồi đối diện George và Karen, chiếm cả một phần bàn cho riêng mình. Mỗi khi cô bé phát biểu ý kiến của mình đều có thói quen vừa nói vừa duỗi tay ra, nắm chặt lấy góc bàn, trông chẳng ra làm sao. Lindy là cô bé da bọc xương, nó còn cố tình làm mình gầy nhom xương xẩu, thậm chí trước khi đi khám bệnh nó đều chọn một loạt quần áo, rồi mới quyết định mặc bộ nào. Dù vậy, cô bé lại có thể làm mình trông như con hạc đứng giữa đàn gà, làm mình to khỏe lớn mạnh hơn bốn người kia gộp lại; cô bé chẳng màng bận tâm đến “trường học” và “gia đình”, dường như nó xem đấy là tai họa; cô bé đòi bố mẹ mua sách của Jack Kerook và Albert Caymus, nhưng khi bố hỏi: sách họ viết có thể xem là ngôn ngữ không, cô bé trả lời: “Ồ, nói với bố thì ích gì? Con chẳng hiểu tại sao lại phải tốn công sức nói chuyện với bố”.
Bạn nghĩ Lindy thích văn chương thế, chắc chắn đều đạt điểm A ở trường, nhưng sự thật không phải thế. Mùa hè năm ngoái, cô bé học lại một học kỳ môn tiếng Anh. Trong bảng điểm phát vào mùa thu năm nay, chẳng có môn nào đạt trên điểm C. Vì vậy, thành tích học tập của cô bé luôn là nguyên nhân dẫn đến tranh cãi giữa bố mẹ. Bố cô bé luôn nói: “Kerook hay Keraak gì đó, nếu con chẳng vượt qua nổi những kỳ thi ở trường, vậy con đọc mấy thứ sách đó có ích gì?”. Lindy đáp: “Điều đó không hợp với tiêu chuẩn của bố! Lòng dạ bố luôn hẹp hòi thế, bố đã rơi vào vòng luẩn quẩn chỉ biết kinh doanh kiếm tiền không thể tự thoát ra được! Nếu không có được tiền tiết kiệm, không có được thành tích tốt, không có được bản lý lịch làm người khác hài lòng, mọi chuyện đều chẳng quan trọng!”. Mẹ chúng nói: “Em nói này, Michael, con bé có thể tự mua ít đồ cũng tốt thôi”. Bố chúng nói: “Pauline, nếu không phải em cứ bao che nó, ít nhiều nó cũng biết cách tự quản thúc mình rồi”. Mẹ nói: “Ồ, được thôi! Nói vậy, con anh bị đuổi học vì điểm số kém là lỗi tại em...”.
Mẹ cầm ấm cà phê quay về, dựa vào vai bố, rót cho bố một tách. “Cám ơn, em yêu”. Bố nói, vỗ nhẹ lên tay mẹ, rồi hớp một ngụm.
Khi họ phát hiện Lindy mất tích, Karen phải chịu trách nhiệm vì câu “Đúng thế” của mình. Ồ, đúng vậy, cô bé từng nói Lindy sẽ bình an về nhà, còn nhìn trộm vào phòng Lindy. Sau khi thay quần áo sau bữa sáng, cô bé thấy trong lòng rất bất an. Nó cởi bỏ bộ đồ ngủ, mặc một chiếc áo lót, rồi hai mắt thất thần ngồi ngay mép giường, thẫn thờ nhìn đôi dép nhỏ dưới chân. Bố mẹ sẽ bảo lời nói dối của cô bé làm chậm trễ công việc tìm kiếm chị gái của cảnh sát. Nếu Lindy gặp rắc rối ở đâu đó - chẳng hạn, bị nhốt dưới một tầng hầm, không có đủ không khí để thở - nếu cô bé chết, vậy sẽ là lỗi của Karen.
Bỗng chốc, Karen rợn gai óc, lòng hơi nhói đau, cô bé bắt đầu ớn lạnh và người run lên bần bật. Thế rồi cô bé đứng dậy, mặc một chiếc áo in đầy nụ hồng, một chiếc váy màu hồng và một đôi vớ dài cũng màu hồng. Cô bé không mang giày, rón rén bước ra khỏi phòng, cố gắng không gây tiếng động, xuống dưới nhà rồi đến phòng Lindy.
Có lẽ bạn cho rằng đứa trẻ ngang bướng như Lindy sẽ không nề nếp, nhưng điều khó hiểu là, cô bé dọn dẹp phòng mình ngăn nắp lạ thường. Quần áo - phần lớn đều là màu đen, ngoài những bộ mẹ mua mà không hỏi qua ý cô bé - treo ngay ngắn trong tủ áo; cờ thi đua của đội nhóm và ảnh bạn bè, giờ đây chỉ dán mỗi tờ áp phích James Dean đang hút thuốc; sách trong tủ xếp từ cao xuống thấp, trên bàn học chẳng có gì khác ngoài ba khung ảnh gia đình mạ vàng; cả căn phòng trông như chưa từng có ai sống ở đây. Lẽ nào là thế thật sao? Cụm từ “bỏ nhà đi” hiện lên trong đầu Karen.
Sạch sẽ nhất là giường: gối và chăn mền xếp ngay ngắn, drap giường trải phẳng phiu. Nếu có người nhìn vào phòng, rất khó nghĩ từng có người nằm trên chiếc giường này.
Karen đi đến trước tủ áo lấy bộ đồ ngủ của Lindy, một áo khoác kiểu nam cũ rách mua từ hiệu đồ si-đa, chiếc áo này luôn làm mẹ rùng mình. Cô bé lại đến bên giường, vén tấm ra lên, cuộn áo ngủ thành hình dạng vừa dài vừa phồng, đặt chính giữa, rồi phủ tấm trải giường lên. Giờ đây giường trông như có người không đầu nằm ở đó, nhưng cô bé đã chỉnh lại gối, làm nó thành một khối giống như có người vùi đầu trong đó vậy.
Trước khi trở về phòng mình, Karen dừng lại một lúc trước bàn học của Lindy, nhìn kỹ bức ảnh đặt trên đó. Một tấm trong đấy cũng có trên bàn cô bé, George cũng thế, nhưng chúng đều bị vùi dưới những vật linh tinh. Đó là ảnh kỷ niệm 15 năm ngày kết hôn của bố mẹ chúng, là loại ảnh màu rất đậm chụp ở studio. Mẹ chúng lồng ảnh vào khung, cho mỗi đứa một tấm. Bố trong ảnh mặc bộ com lê màu đen, mẹ mặc bộ váy màu xám và màu nổi nhất trong ảnh chính là bầu trời giả màu xanh. Bố mẹ đều tỏ ra rất ngượng ngùng, vẻ mặt cứng nhắc, trông trẻ đến lạ kỳ, dù đó đã là ảnh từ trước đây rất lâu.
Tấm ảnh thứ hai kẹp trên tấm thiệp Giáng sinh năm ngoái, có ghi dòng chữ “Từ nhà tôi đến nhà bạn, mừng Giáng sinh, 1959”. Trên đó là bức ảnh George và Karen cười toét miệng còn Lindy mặt cau có. Cả ba đều mặc áo len đỏ trắng, có lẽ đấy chính là nguyên nhân làm Lindy bực bội. Bố cục trên tấm ảnh có phần trùng hợp: mép một bức rèm cửa sổ tình cờ ngăn Lindy với hai đứa kia, dáng người nó vừa đen vừa gầy của cô bé tạo thành sự tương phản rõ rệt với George và Lindy da trắng tóc vàng. Pauline rất thất vọng về tấm ảnh này, dù đấy là tấm đẹp nhất trong số những bức ảnh đã chụp. Lúc đó, Lindy giành ngay lấy tấm ảnh này, mua khung về tự lồng nó vào, dường như cô bé muốn khẳng định: mình khác người!
Tấm ảnh thứ ba là bà nội Anton của chúng. Bà qua đời khi Karen học mẫu giáo. Karen hầu như đã quên mất khuôn mặt đầy nếp nhăn và mái tóc bạc phơ của bà. Nhưng đến giờ Lindy vẫn rất nhớ bà, vì người bà yêu nhất chính là Lindy, hoặc ít ra Lindy nghĩ thế. Cô bé luôn bảo bà nội ở trên thiên đường đang bảo vệ mình, để cô bé có cuộc sống bình yên thuận lợi. Cô bé nghĩ thế cũng có lý, vì mỗi khi gặp khó khăn, bài hát “Hy vọng bí mật” bà yêu thích nhất bỗng nhiên hiện trong đầu cô bé một cách lạ kỳ. Karen cho rằng rất có thể Lindy đúng, vì đó là bài hát xưa cũ, chỉ người già mới thích, còn có nguyên nhân nào khác giải thích việc này chứ?
Bà nội bọn trẻ mất vì trúng gió. Mẹ rất đau lòng trước cái chết của bà, bố tuy đau lòng, nhưng rất bình tĩnh, còn mẹ khóc suốt mấy tuần liền. Mẹ bảo nên hiểu bà nhiều hơn, nên chăm sóc bà chu đáo hơn. Mẹ lo sẽ bị Thượng đế trừng phạt, lo rằng khi mình về già cũng sẽ sống ở nơi xa cách bạn bè thân thuộc, trở thành một người bà duy nhất trong hàng xóm láng giềng, cả ngày ngồi không chẳng việc gì làm, chẳng nơi nào để đi, chỉ khi con dâu vui mới đưa đi hóng gió, những lúc như thế lại quá hiếm hoi. Bố bảo mẹ suy nghĩ nhiều quá, “Sao anh có thể nói vậy chứ!”. Bố nói: “Ý anh là em hãy bình tĩnh, Lin”. Những lời nói như thế luôn làm mẹ giận dữ, hơn nữa mẹ không thích người khác gọi mình là “Lin”, ai cũng biết điều này, dĩ nhiên bao gồm cả bố.
Lindy cũng không thích tên mình. Cô bé bảo cái tên này nghe như cô gái nhỏ mặc váy carô màu hồng. Khi mới bắt đầu đi học, cô bé muốn tất cả thầy cô gọi tên đầy đủ của mình: Linnetj. Trong thế chiến thứ hai, một anh lính từng nhắc đến một loài chim ở Anh với mẹ cô bé, về sau mẹ đặt tên này cho Lindy. Karen cũng từng thử gọi chị mình như thế, nhưng cái tên này quả thật rất kỳ lạ, thế nên chẳng bao lâu cô bé đành bỏ cuộc. Nhưng Karen rất thông cảm với Lindy, một lần khi giáo viên của cô bé gọi điện đến tìm bố hoặc mẹ của Linnet Anton, đặt nhầm dấu nhấn âm, lúc đó Karen cảm thấy bị tổn thương sâu sắc thay cho chị mình, cô bé cũng mơ hồ cảm nhận được nếu luôn bị hiểu lầm, bị cho là quái dị, bị người lớn mắng là đứa trẻ hư, cảm giác sẽ thế nào.
Karen nghiêng tai nghe động tĩnh bên ngoài cửa, sau đó mới lẳng lặng ra khỏi phòng Lindy, trở về phòng của mình.
Trên xe đến nhà thờ, mẹ nói, nếu bố không đến nhà thờ sẽ không thể ép bọn trẻ đến xưng tội. Mẹ đạp mạnh thắng, rồi nói tiếp: “Ôi! Tôi xin lỗi! Tôi tưởng mình có thể chạy đường này”. Mẹ đang nói với người tài xế xe du lịch chạy ngược chiều, dù đối phương không nghe thấy mẹ nói gì. “Rất xin lỗi”, mẹ lại nói. Rồi mẹ cua mạnh bên phải mà chẳng báo trước gì, bánh xe bên phải phía sau va vào lề đường. Karen chúi người về phía trước, may mà kịp thời túm được bảng đồng hồ trước xe, mẹ cô bé chẳng mảy may bận tâm. “Mimi Drew cho con đi lễ nhà thờ và học lớp giáo lý”, mẹ nói tiếp, “sau đó về đến nhà, mỗi đứa đều phải báo cáo điều mình học được. Mẹ nghe nói, chồng cô ấy là người trợ tế của giáo hội nên khá nghiêm khắc với việc dạy dỗ con cái. Mẹ cũng không biết người trợ tế là gì”.
Tiếp đó, mẹ im lặng một lúc, dường như đang suy nghĩ gì đó. Lúc không nói chuyện, xe chạy êm hơn. Mẹ mặc áo len angora màu xanh, tuy mẹ luôn lo lắng chiếc áo này làm mẹ trông béo tròn, nhưng quả thật nó rất vừa vặn, chỉ lộ phần bụng hơi to chút thôi. Nhưng mặt khác, nó làm đôi mắt xanh của mẹ càng đẹp hơn. Karen gọi màu mắt đó là màu xanh thuần khiết - màu xanh đậm không lẫn bất cứ tạp chất gì. Môi của mẹ tươi đẹp vô cùng, phía trên môi có một lớp lông mao màu vàng mỏng gần như không thấy, làm da mẹ cũng ánh sắc vàng nhạt. Bạn bè Karen luôn bảo cô bé có người mẹ đẹp nhất trần đời. Karen luôn nói: “Ồ! Các bạn thấy thế sao?”. Nghe như cô bé chưa từng nghĩ đến chuyện này. Thật ra, cô bé cũng nghĩ thế.
Họ rẽ trái, đến đường Turtle Dove, nơi cô bạn thân của Karen là Maureen sống, nhưng Maureen lại đi lễ ở một nhà thờ trong trung tâm thành phố, nên hầu như chủ nhật hai cô bé không thể gặp nhau. Khi họ lái xe ngang qua nhà Maureen, Karen mở to mắt, nhìn vào mái hiên nơi chúng từng vui chơi cả mùa hè. Lá trên các cây của khu vườn nhà Maureen đang dần chuyển sang sắc vàng, mọi thứ ở đó đều thu hút ánh mắt của cô bé.
“Nếu bố các con đến nhà thờ, mẹ có thể thuyết phục Lindy cũng đến đó”, mẹ nói, “mẹ biết phải tự do tín ngưỡng, nhưng đến nhà thờ có thể giúp ta khuây khỏa, các con thấy đúng không? Như thế, con bé có thể tham gia hội tiệc của thanh niên vào tối chủ nhật, có thể gặp những người bạn lành mạnh. Con bé nói sao nhỉ George?”, Pauline vừa hỏi vừa nhìn George qua kính chiếu hậu, “Chị con bảo không đi lễ vì phản đối giáo hội hay muốn ngủ nướng?”.
Chắc chắn là George sẽ nhún vai, “A, được rồi!”, mẹ nói. Karen chuyển tư thế trên chỗ ngồi, để nhìn rõ vẻ mặt của George, nhưng hình như nó đang bình tĩnh nhìn cảnh sắc bên ngoài cửa sổ, hai tay thả lỏng đặt trên gối. “Hỏi xem Lindy muốn đi cùng chúng ta không”. Mẹ bảo thế trước khi xuất phát, một lúc sau nó quay lại nói: “Không đi, chị ấy muốn ở nhà”. Lúc này đây, có lẽ nó cũng mang cảm giác tội lỗi như Karen - Lindy có thể hít cạn nguồn oxy cuối cùng dưới một tầng hầm bất cứ lúc nào, sau đó ngạt thở mà chết - nhưng dường như nó chẳng hề quan tâm.
“Mẹ không hiểu sao bố lại phản đối tôn giáo thế, cũng giống như bố không thích giao tiếp”, Pauline nói, rõ ràng cô lại trở về vấn đề của bố chúng, “ý mẹ là, bố không có bạn bè, các con chú ý thấy chứ? Nếu không tính khách trong cửa hiệu và những người quen biết trong các buổi tiệc của hàng xóm mà mẹ ép bố đi, hầu như bố chẳng có lấy một người bạn! Còn mẹ, trái ngược hẳn với bố... mẹ không tài nào sống được nếu thiếu bạn bè! Mẹ cần bạn bè chia sẻ tâm tư tình cảm của mình, thậm chí mẹ chẳng biết mình nghĩ gì, mãi đến khi nói chuyện với Mimi hoặc Dot mẹ mới hiểu được suy nghĩ của mình. Ồ, xin lỗi, mẹ không ngờ lại đi quá tốc độ ở đây”.
Thế rồi mẹ giảm tốc độ, cho xe chạy chậm lại, nhưng khi có một chiếc xe phía sau bấm còi muốn vượt qua bên trái, bỗng nhiên mẹ lại tăng tốc, một lúc sau thì bỏ xa chiếc xe kia. Mẹ nói tiếp: “Con hiểu ý mẹ chứ, Karen, cảm giác khi con trò chuyện cùng Maureen... cả George nữa, là con trai, con cũng rất thích kết bạn. Nhưng Lindy lại giống bố con, cũng là người không sao hiểu nổi! Đúng là nó làm khó mẹ rồi!”.
Bỗng nhiên Karen nảy ra một ý nghĩ, có lẽ George có nói chuyện với Lindy thật, nếu Lindy lặng lẽ về phòng, chắc chắn chị ấy sẽ không muốn cãi nhau với ai, rồi chui vào tấm trải giường, vì chắc chị ấy rất buồn ngủ... Sau đó George thò đầu vào hỏi: “Lindy, chị đi nhà thờ không?”.
“Ra ngoài”, cô bé nói rồi phủ chăn qua đầu, “không đi, đừng phiền tao”.
Thế rồi George nói: “Được thôi”, sau đó đóng cửa lại. Karen thấy mình nên sớm nghĩ đến khả năng này. Cô bé dựa người ra sau, cảm thấy thoải mái hơn. Họ lại đi ngang qua một ao cá, xung quanh rơi đầy lá đỏ và lá vàng. Đây quả là một ngày mùa thu đẹp trời.
Nhưng khi Karen đến phòng Lindy lần nữa sau khi từ nhà thờ trở về, cô bé phát hiện chiếc áo khoác nam đó vẫn nằm yên trên giường tựa như khúc gỗ. Chiếc gối đó vẫn phình lên lõm xuống trông như Lindy đã vùi đầu vào đó vậy. Karen đóng cửa lại, về phòng, bỗng nhiên cô bé thấy hơi buồn nôn.
“Đến lượt ai dọn bàn đây?” mẹ hỏi, “Lindy phải không? Gọi chị dậy đi! Ngủ cũng vừa phải thôi”.
Karen có thể tiếp tục lẩn tránh vấn đề này, nhưng bỗng chốc một cảm giác mệt mỏi ùa đến. “Chị ấy không ở nhà”. Cô bé thẳng thắn nói với mẹ.
“Không có ở nhà?”.
Karen cố gắng giữ vẻ mặt bình tĩnh. “Thế là sao? Chị con không ở nhà ư?”.
“Chị ấy không có trên giường. Con vừa vào xem xong”.
“Vậy chị con ở đâu?”. “Con không biết”.
Pauline lại quay sang George, nó đang ăn vụng lớp đường áo bánh kem sôcôla trên bàn ăn. “Con có thấy chị không?”.
“Không”. Giọng George cũng bình tĩnh như Karen, có lẽ nó cũng thấy mệt rồi.
“Chị con đâu có thể biến mất trong không khí chứ! Chẳng phải sáng nay hai đứa đều thấy chị à? Sao giờ nó lại không ở nhà chứ?”.
George và Karen đều im lặng.
“Chuyện này phải dừng lại ngay”, mẹ chúng kêu lên, “bố các con ở đâu? Michael!”, mẹ ném con dao vào trong chảo, chạy xộc vào phòng khách. “Michael!”, mẹ lại gào lên. Chúng nghe thấy mẹ mở cửa phòng Lindy, chạy vào trong đó một lúc, rồi xuống nhà. Rất hiển nhiên, mẹ đến bên ti vi, mỗi sáng chủ nhật, bố đều tính sổ sách gia đình ở đó. Nhưng George và Karen ở trong bếp chẳng nghe được bố mẹ nói gì với nhau cả.
Lúc ăn cơm, mẹ toàn nói đến việc Lindy bị mất tích. “Nó đặt giường cứ như nó nằm ở đó vậy”, mẹ nói, “đây là có âm mưu trước! Chắc chắn xảy ra chuyện gì rồi”.
Nhưng bố chúng lại hứng thú với việc ôn lại sổ sách gia đình hơn. “Mỗi tháng”, bố nói, “anh đều có dự toán vào một mục chi tiêu nào đó. Trước đây anh từng nói chuyện này với em, Pauline”.
“Sao anh có thể còn ngồi nghĩ đến tiền trong lúc con mất tích chứ?”, mẹ bực bội hỏi.
Xem ra, bố hơi vô tình, nhưng Karen liền nhớ ra: bố biết chị Lindy mất tích mới hơn khoảng 1 giờ. Trông mẹ hơi buồn cười, nóng ruột đến chau chặt hai mày, tay nắm chặt chiếc đĩa. Mỗi lần buồn, mẹ đều nói những từ hoa mỹ: “Em không sao thấu hiểu nổi đứa trẻ sống trong gia đình đầy tình thương yêu và quan tâm lo lắng như Lindy mà lại...”.
“Chúng ta phải nói chuyện với con bé”, bố nói, “ví dụ như quyên góp từ thiện, khoản quyên góp này chẳng khác gì những chi tiêu khác. Tuy quả thật nó mang đến lợi ích cho người khác, nhưng chúng ta vẫn phải tính toán kỹ. Chúng ta không thể một phút hứng chí liền tiêu tiền vào những chuyện không đâu”.
Ồ, hay thật, bố lại trở về đề tài tiền bạc. Mẹ ngồi thẳng người hơn nữa, hỏi: “Chẳng phải trước đây chúng ta đã nói chuyện này rồi sao?”.
“Đúng thế, nhưng giờ anh phát hiện em lại ký một chi phiếu cho...”.
“Michael! Con gái lớn của anh đang giao du với đám trẻ mặc áo đen cổ tròn, ăn không ngồi rồi, giờ không rõ đang ở đâu, sống chết ra sao, thế mà anh chỉ nghĩ đến...”.
“Chà, hãy nể tình Thượng đế, Pauline, em là mẹ nó, sao lại không biết nó đi đâu cơ chứ?”.
Bố mẹ ngồi đối diện ở hai đầu bàn, đôi mắt sắc bén nhìn chằm chằm đối phương. Mỗi khi đến thời khắc này, Karen đều cảm thấy tốt nhất trẻ con không nên có mặt. Bố mẹ cô bé quả đúng là một cặp trời sinh! Luôn lấy bản thân làm trung tâm! Cô bé cố gắng tập trung tư tưởng vào chiếc đĩa trên bàn, cố gắng dùng muỗng xúc cơm lên. Còn George lại ăn từng thứ một, đầu tiên nó ra sức khuấy đậu, sau đó lại trộn cơm với nước sốt, tiếp theo là xà lách Waldorf. Nó đặt một tay lên bàn, tay kia chống đầu, nhưng giờ chẳng ai rảnh rỗi mà bình luận tư thế của nó.
Đối diện Karen, ly sữa nóng của Lindy vẫn nguyên đó không ai động đến. Chẳng thứ gì làm bạn ghét hơn là ly sữa có cùng nhiệt độ với căn phòng, chỉ nghĩ thôi cũng làm Karen buồn nôn.
Bố đến cửa hiệu trong thành phố, mẹ chẳng tỏ ý phản đối, vì thỉnh thoảng ở nhà lâu quá, bố sẽ tỏ ra nóng ruột bất an. Còn Pauline nắm bắt thời cơ gọi điện cho những bà chị của mình, đồng thời hỏi họ về chuyện Lindy. “Ý em là, các chị chưa từng gặp chuyện này, đúng không?”. Cô hỏi. “Tụi em chẳng quản nổi đứa con này! Thật tình, em không hiểu sao gia đình em lại làm ra vẻ mọi chuyện đều tốt đẹp trước mặt mọi người kia chứ!”.
George đang làm bài tập lịch sử, còn Karen thì chuẩn bị trang phục cho lễ hội Halloween. Cô bé quyết định cải trang thành Castro, và mượn một điếu thuốc từ bố Maureen. Nhưng râu là một vấn đề lớn, cô bé muốn có một bộ râu thật, không muốn vẽ râu bằng bút lông. Cuối cùng, cô bé tìm được một cuộn chỉ bông màu đen trong tủ kim chỉ của mẹ, bèn mang nó về phòng.
“Em chẳng hiểu nổi con bé nghĩ gì”, Pauline đang nói chuyện điện thoại, “nhưng em biết ở mức độ nào đó, con bé vẫn quan tâm gia đình, hoặc chí ít là cần gia đình. Con bé làm em nhớ đến con mèo trước kia, đó là con mèo mun đực chẳng gần gũi với mọi người, mỗi lần bị đánh, nó đều sợ co rúm mình. Nhưng khi chị đến phòng khách, một lúc sau nó cũng đi theo một cách nhàn nhã, tựa như tình cờ gặp chị trong đó vậy”.
Karen cắt chỉ bông đen thành đoạn nhỏ khoảng 1 inch, nhúm chúng thành một nhúm trên bàn trang điểm. Cô bé đang cố gắng tính thời gian Lindy rời khỏi nhà. Tối qua họ ăn tối lúc nào nhỉ? 6 giờ hay 6 giờ rưỡi. Lindy bắt đầu biến mất từ lúc ăn món tráng miệng. “Ngồi xuống!” mẹ ra lệnh, “Con vẫn chưa được tha thứ đâu, tiểu thư. Mọi người trong nhà vẫn chưa ăn xong”. Từ lúc đó, Lindy cứ thấp thỏm trên ghế, chuẩn bị đứng phắt dậy bất cứ lúc nào tựa như con búp bê nhún nhảy. Sau đó, “Mẹ!” chị gọi, “Con thề đấy! Con sắp muộn rồi!”, mẹ thì thở dài nói “Vậy...” nhưng Lindy đã đứng dậy và rời khỏi phòng. Lúc đó chắc khoảng 7 giờ. Từ 7 giờ tối qua đến 7 giờ sáng nay là 12 tiếng rồi, đến 12 giờ trưa là 17 tiếng, giờ đã hơn 3 giờ chiều, vậy Lindy mất tích gần một ngày rồi.
Nếu giờ Lindy nói sự thật với mẹ, mà bố không ở cạnh giải quyết ổn thỏa mọi việc, chắc chắn mẹ sẽ hoang mang bàng hoàng. Mẹ hay nghĩ đến khả năng tiêu cực nhất - xác chết bên đường hoặc cái xác khô quấn băng trắng nằm trong bệnh viện. Nhưng nếu chờ bố về rồi mới nói, bố sẽ hỏi dông dài: Tại sao cô bé nói sáng nay Lindy nằm trên giường? Tại sao George lại bảo Lindy không muốn đến nhà thờ? Bố chúng là người chính trực và thật thà thế! Mẹ hay bảo là: dù phát hiện có người đã bấm đủ thời gian trong máy tính cước ở bãi đậu xe, bố vẫn kiên trì bỏ tiền vào máy”. Vì thế, chỉ nói với mẹ thì hơn, nếu thỉnh thoảng làm sai gì đó, bạn còn có thể hy vọng mẹ hiểu được. So với bố, mẹ dễ dàng thông cảm hơn.
Karen nhỏ giọt keo lên ngón trỏ, sau đó bôi nhẹ lên cằm. Cằm cô bé rất giống mẹ, nhỏ xinh và hình dáng rõ ràng. Nhìn qua gương, cằm cô bé đang phát ánh sáng trắng của keo. Cô bé lấy khăn giấy lau ngón trỏ, rồi lấy một nhúm chỉ bông dán chúng lên chỗ có keo, đầu chỉ tủa ra bốn phương tám hướng. Dù đã lau, vẫn có một ít chỉ dính trên ngón tay cô bé, khi buông cánh tay xuống lại có một ít chỉ rơi xuống đất. Lúc này trong gương, cằm Karen dính ba bốn sợi lông đen. Do đang căng thẳng, mắt cô bé gần như biến thành màu đen, chứ không còn là màu lam ngọc bích như trước. Cơ mặt cô bé căng cứng ra vì quá lo lắng.
George mở cửa phòng Karen nhưng cửa vốn đóng, lẽ ra nó phải gõ cửa trước khi vào. Nó hỏi: “Mặt em sao thế?”.
“Em muốn hóa trang thành Castro”. Karen trả lời. “Sao em không hóa trang làm mụ phù thủy mặt có nốt ruồi chứ?”.
“Mọi người đều làm phù thủy cả rồi”.
“Mọi người đều hóa trang thành Castro đấy chứ”. George nói.
“Không có đâu”.
“Có đấy”.
Thế rồi Karen nhượng bộ, lấy khăn giấy lau chỉ bông trên mặt. “Nghe đây”, cô bé nói, “em thấy nên nói với mẹ”.
George không hỏi cô bé nói gì, mà vào phòng, đóng cửa lại. “Phải đó, ôi, anh cũng không biết”, nó nói, “không chừng lát nữa Lindy sẽ về đấy thôi”.
“Chị ấy bỏ nhà đi hơn 20 tiếng rồi! Chị ấy chưa từng như thế!”.
“Chà, chẳng qua chị ấy đi chơi với mấy người bạn đó thôi, hơn nữa, còn có bà phù hộ cho chị ấy mà”.
“Em thấy bà phù hộ thôi vẫn không đủ”. Karen nói. George nhún vai, dùng tay khều mấy sợi chỉ đen không mục đích, gom chúng lại với nhau, đặt giữa ngón tay thành đường thẳng.
“Em thấy chắc bà không ngờ lúc này lại xảy ra sự việc đáng sợ thế”, Karen nói, “thậm chí cả bố mẹ cũng không biết”.
“Ồ, bọn trẻ đó cũng không có gì ghê gớm”, George đang nói đến bọn trẻ mặc đồ đen, “bọn chúng chỉ hơi quái đản thôi”.
“Họ không chỉ có thế, họ... có thói quen xấu”. Karen nói.
Bản thân Karen không thể xác định người khác có thói quen xấu gì, cô bé chỉ biết từ sau khi Lindy chơi với họ thì đã trở thành con người khác trước, mùi ngửi thấy cũng khác, cách nói chuyện cũng khác. Chị ấy không nổi cáu với bố mẹ nữa, mà bình tĩnh cười nhạo họ. Bố lại khờ khạo đến bất ngờ, chẳng hiểu chị ấy đang nhạo mình. Chị cũng không còn nịnh mẹ rất có óc sáng tạo khi mẹ dùng khoen tròn trên nắp thơm đóng hộp làm gì đó, “công ty Dole nên dùng ảnh mẹ làm quảng cáo trang bìa tạp chí!”. Khi nói đến sốt Pupu nổi tiếng thế giới, chị phát âm quá rõ cái tên đó, làm George và Karen nén lắm mới không phì cười. Mẹ thông minh hơn bố, đầu tiên mẹ lộ vẻ khó tin, sau đó mới nói: “Ồ... cám ơn”. Những lúc trò chuyện thế này, Karen đều thấy bố mẹ chúng ngây thơ đến mức ngô nghê. Sao họ có thể trở thành chỗ dựa cho các con chứ? Sao có thể nuôi ba đứa con trưởng thành?
“Thế này”, Karen thì thầm với George, “chúng ta hãy nói với mẹ rằng, hôm qua lúc đến phòng Lindy thì không nghe thấy tiếng chị ấy, chúng ta chỉ tưởng là nghe thấy, nên có lẽ từ đêm qua chị ấy đã không ở nhà”.
“Sao không chờ bố về rồi nói?”, George hỏi.
“Được, nhưng bố sẽ nghĩ chúng mình không thành thật, hoặc sẽ có những suy nghĩ khác”.
“Nhưng em biết mẹ sẽ có phản ứng gì mà”. “Em thấy nên nói với mẹ”. Karen khẳng định.
“Vậy em cứ nói, nếu không sợ nghe tiếng thét thất thanh của mẹ”.
Chúng nhìn nhau, cằm đều hất cao lên. Mẹ chúng đang nói chuyện qua điện thoại: “Ồ, đúng thế! Bọn người đó dù có làm gì cũng không khiến em ngạc nhiên”. Với Karen, đấy là một niềm an ủi. Chắc chắn có ai đó cho mẹ cơ hội tâm sự mọi uất ức trong lòng. Dù sao mẹ chúng cũng có rất nhiều bạn bè... Tuy có lẽ không làm ta hài lòng, nhưng...
Nếu nói với mẹ chuyện của Lindy, có lẽ mẹ sẽ tỏ ra rất lý trí.
Nhưng George vẫn với bộ dạng hất cao cằm, Karen hiểu anh mình sẽ không thay đổi ý kiến.
Bỗng nhiên mẹ chúng nói vào điện thoại: “Tạm biệt, chị yêu!”.
Mẹ gác máy, bắt đầu dọn dẹp cây cảnh trong nhà, tưới nước, nhổ cỏ cho mớ cây xanh um tùm của mẹ, rồi ngắt bỏ những cái lá vàng trên cây. Dù được mẹ chăm sóc cẩn thận, vẫn có một chậu cây dương sỉ héo úa. Sau đó, mẹ nhìn Karen với vẻ ngạc nhiên: “Vậy sao giường Lindy lại bố trí như thế?”.
Bất chợt, Karen nghĩ việc mình làm bị mẹ phát hiện, nó định nói - “Mẹ đúng đấy, con làm cả đấy, chính con đặt áo khoác ở đó” - nhưng mẹ nói lại nói tiếp: “Chắc nó đã bố trí sẵn vào tối hôm qua”.
“Tối hôm qua?”, Karen hỏi.
“Vì sao nó lại phải bố trí giường như thế vào buổi sáng chứ? Không cần thiết mà! Nó hoàn toàn có thể ngủ ở đó, chờ chúng ta đến nhà thờ thì dậy ra ngoài. Nhưng sáng nay con lại bảo thấy nó trong phòng”.
“Ơ”, Karen nói, “con tưởng mình thấy chị ấy”. “Thật ra con thấy những gì?”.
“Ơ, ừm... trên giường cộm lên một khối”.
Pauline nhìn cô bé hồi lâu, sau đó đặt bình phun trong tay xuống. “George?” Pauline vừa gọi vừa nói vừa đi đến phòng con trai, Karen theo sau.
George vẫn đang chơi mô hình lập thể của nó. Tất cả người giấy đều cắt thành hình dạng giống nhau, điều này làm Karen thấy hơi đáng ngờ. Nó đang tô mặt người giấy màu hồng phấn. Khi mẹ nó xồng xộc bước vào, nó không hề ngẩng đầu lên nhìn. “George, nhớ lại xem”, mẹ nói, “lúc con hỏi Lindy đến nhà thờ không, nó trả lời thế nào? Hay ngủ tiếp?”.
“Chị ấy ngủ tiếp”. Nó trả lời, rồi với tay lấy một người giấy khác.
“Nó có nhúc nhích không? Con có thấy chị cử động người không?”.
“Không. Chị ấy cứ nằm đó”.
“Nhưng lúc đó con bảo... chẳng phải con bảo chị nói là muốn ngủ nướng sao?”.
“Con có nói chị đang ngủ nướng”. Nó trả lời.
Nghe như George rất chắc chắn về lời nói của mình và vẫn tập trung nghiên cứu công việc đang làm, khi đến chỗ phải tô cẩn thận vùng tóc, George khom thấp lưng xuống, điều này làm Karen nửa tin nửa ngờ. Lúc đó, Lindy nói thế thật sao? Giờ cô bé cũng không biết câu trả lời.
Pauline kêu lên: “Ối, trời!”.
“Mẹ”, George nói, đồng thời ngẩng đầu lên, “Lindy không sao đâu. Mẹ sao thế?”.
“Mẹ chỉ muốn biết nếu chị của con gặp chuyện, con sẽ nghĩ sao?”. Pauline nói rồi ra khỏi phòng, đi xuống nhà. Karen theo sau, hy vọng mẹ gọi điện thoại cho các bạn. Nhưng mẹ không làm thế, mà đi thẳng đến nhà bếp. Mẹ kéo rèm cửa sổ lên, nhìn ra ngoài đường. “Ôi”, mẹ òa khóc nói, “bố các con ở đâu chứ? Ông ấy chuyển đến cửa hiệu ở luôn cho rồi, mẹ dám tin bố con đã “kết hôn” với cửa hiệu đó từ lâu. Rốt cuộc ông ấy ở đâu? Lúc này ông ấy còn ở đó làm gì?”.
“Có lẽ mẹ nên gọi điện cho bố”. Karen đề nghị. Một mình an ủi mẹ mà không ai giúp, điều này làm cô bé rất bất an.
“Đôi lúc mẹ cảm thấy ông ấy cố tình chọc giận mẹ nên mới đến đó”, mẹ than vãn, “chính mẹ đề nghị chuyển đến nơi này, giờ bố bắt mẹ trả giá! Cửa hiệu đó có thể thuê người quản lý. Nếu không, đóng cửa quách cho rồi, mở một hiệu mới ở Baltimore”.
“Mở một siêu thị cũng hay đấy”. Karen nói. Cô bé chẳng còn thích cửa hiệu của bố nữa, nơi đó luôn có mùi bánh mì và pho mát không tươi ngon. Lúc nhỏ, cô bé rất thích đưa bạn bè đến đó, mời các bạn ăn kẹo miễn phí. Nhưng ngày tháng dần trôi, cô bé dần thấy đó là một nơi làm mình xấu hổ.
“Mẹ nghĩ chắc Lindy đến Mexico”. Pauline vừa nói vừa quay đầu vào.
“Mexico!”.
“Mẹ biết con bé thích đọc những cuốn sách nói về du lịch kể về những người quá giang xe giữa đường hoặc ăn cắp xe, hay đi tàu hỏa ‘chui’ đến Mexico”.
Lúc nói, tay Pauline nắm chặt lấy rèm cửa sổ, nhưng Karen lại thấy lời của mẹ Pauline là một niềm an ủi cho mình. Ồ, chỉ đến Mexico thôi! Cô bé luôn lo lắng sẽ xảy ra chuyện khủng khiếp hơn: bắt cóc hoặc cưỡng bức. Cô bé còn nhớ vào một đêm nọ, Lindy đang đứng trước cửa đón xe đi xem phim. Khi thấy đèn xe di chuyển dọc con đường đến đây, Lindy liền chạy ra, mở cửa xe nhảy lên ngồi, sau đó mới ý thức được người tài xế đó mình không hề quen biết. Sau đó, cô bé kể chuyện này với Karen và George: người đàn ông trung niên lái xe lúc đầu giật mình, sau đó trở nên rất vui, đưa tay vỗ lên gối Lindy, hứa sẽ lái xe đưa cô bé đến bất cứ nơi nào trên thế giới có thể làm cô bé vui. Lúc đó Lindy đã cười ngặt nghẽo, còn Karen sợ đến xanh mặt. Chuyện gì cũng có thể xảy ra! Thế giới này khắp nơi hiểm nguy rình rập! Nhưng so ra, cuộc sống ruộng vườn ở Mexico nghe có vẻ an toàn hơn nhiều.
“Karen, Lindy có bạn trai không?”, Pauline hỏi, “Trong số những người giao du với con bé có ai đặc biệt không? Nói mẹ nghe nào!”.
“Chị ấy chưa từng kể chuyện đó với con”. Karen trả lời. “Mẹ sợ nó bỏ đi bụi”.
Karen há hốc mồm ngạc nhiên.
“Cho mẹ biết chị con có bạn trai không?”.
“Lindy không kết hôn đâu”, Karen nói, “chị ấy không tin vào hôn nhân”.
Mẹ cô bé rên rỉ lên một tiếng.
Sau đó, chiếc Chevrolet của Micheal lái vào lối đậu xe cạnh nhà. Cảnh tượng đó lúc này làm ta thấy thân thiết và an ủi vô cùng. “Bố về rồi”. Karen nói.
“Kỳ tích chưa bao giờ dừng lại”. Pauline nói, rồi quay về phía cửa sổ.
Micheal đang bình thản bước xuống xe, đặt cái chân dài khẳng khiu từ trên sàn xe xuống, tay nắm lấy phía trên cánh cửa, đứng thẳng dậy.
Một lần nọ, bố từng nói với mẹ: “Em có biết anh muốn em thế nào không, Pauline? Đừng chào đón anh bằng tin xấu. Khi anh đi làm về, em cũng nên cho anh thời gian bỏ chìa khóa xe xuống, cởi áo khoác, thở lấy hơi rồi mới nói anh nghe những chuyện như tắc bồn cầu...”. Nhưng chiều hôm nay, vẫn chưa chờ bố vào nhà, mẹ đã mở cửa, khóc ầm lên: “Lindy bỏ nhà đến Mexico rồi!”.
“Sao?”.
“Hoặc là nơi khác. Em biết trước sẽ xảy ra chuyện này mà”.
“Nói lần nữa xem, Pauline. Con bé làm gì?”.
“Nó không ở nhà, giờ em mới biết hóa ra nó không ở nhà, ý em là từ tối hôm qua. Chúng ta ngỡ nó ở nhà nhưng không phải. Nó mất tích rồi!”.
Bố nhìn Karen.
“Sáng nay con và George cũng ngỡ chị ấy nằm trên giường, nhưng thực tế thứ chúng con thấy là bộ đồ ngủ cuộn dài”. Karen nói.
“Chúng ta phải báo cảnh sát”, mẹ nói với bố, “anh gọi điện đi, Michael. Họ xem trọng lời của đàn ông hơn”.
“Ơ, phải, cảnh sát”. Bố nói. Bố đi lướt qua mẹ, đến phòng khách rồi ngồi phịch xuống ghế salon, áo jacket còn mặc trên người. “Em biết cảnh sát sẽ nói với chúng ta: sau 24 giờ hãy gọi lại cho họ”.
“Nhưng đã 24 giờ rồi! Nó đi lúc cả nhà ăn tối hôm qua, giờ đã hơn 4 giờ chiều ngày hôm sau rồi!”.
“Pauline, sao em không đi tìm nó từ sớm? Sáng nay Lindy đã không ở nhà mà?”.
“Nó bố trí giường trông như đang ngủ ở đó vậy”.
“Nhưng George nói với anh... Karen cũng nói với anh...”.
“Chúng bị lừa! Con bé ra ngoài từ tối hôm qua, đến giờ vẫn chưa thấy về!”.
Lần này, bố không bảo mẹ giữ bình tĩnh nữa, mà ngồi lặng trên ghế salon, hai tay nắm chặt lấy gối.
“Michael, gọi điện mau!”, mẹ van xin.
Bất giác, George đã đến trước cửa phòng khách, bố nhìn nó chằm chằm. “Để anh nghĩ nào”, một lúc sau bố nói, “tính từ khoảng sáu bảy giờ hôm qua, có lẽ bảy giờ chính xác hơn, đến bốn giờ chiều nay... chỉ có 21 tiếng”.
Mẹ chúng giận dữ thổi ra một tiếng “phù”.
“Nói với họ, chị ấy bỏ đi lúc 4 giờ”. George kiến nghị. “Sao? Nói dối với cảnh sát?” bố hỏi, “Làm thế ích gì cho chúng ta chứ? Không được, chúng ta chờ đến 7 giờ vậy, lúc đó anh sẽ gọi điện”.
“Michael, hãy nể tình Thượng đế!”, mẹ nghẹn ngào van xin.
“Bây giờ, chúng ta phán đoán xem nào. Em đã liên lạc với bố mẹ bạn bè nó chưa?”.
“Bố mẹ bạn bè gì chứ?
Chúng ta có quen họ đâu! Chúng ta đâu biết nó giao du với những đứa nào, bọn chúng tên gì, ở đâu...”.
“Sao lại có chuyện như thế?” bố hỏi. Trông bố quả rất bất ngờ, dù mẹ chúng đã nói chuyện này với bố vô số lần. “Karen? George? Chắc các con biết bọn trẻ đó”.
“Ồ”, Karen nói, “có một người tên Smoke”. “Smoke?”.
“Chính người đó cho Lindy mượn một cuốn sách mà chị ấy luôn miệng khen hay”.
“Vậy, ‘Smoke’ có họ gì chứ?”.
“Không biết”, Karen trả lời, “con chẳng biết gì cả, con chỉ thấy cái tên đó rất đặc biệt”.
Mẹ hỏi: “Có khi nào đấy là bạn trai Lindy không?”. “Con không biết”, Karen nói, “con thấy không phải”. “Ôi, sao con bé bí ẩn thế nhỉ? Nó muốn che giấu điều gì?”.
“Pauline, bình tĩnh nào”, bố chúng nói, “truy rõ ngọn nguồn chẳng giải quyết được vấn đề đâu”.
“Trời ạ, Michael! Con gái lớn chúng ta biến khỏi trái đất này rồi đấy!”.
“Thực tế, nó không về nhà đúng giờ thôi. Rất có thể nó đi... Ồ, có lẽ nó tham gia tiệc tùng gì đó rồi ngủ lại nhà bạn bè”.
“Tiệc tùng!” mẹ gào lên, nói xong, dường như mẹ đã nhượng bộ, ngồi xuống ghế, hai tay ôm lấy mặt.
“Đúng 7 giờ”, bố nói, “anh sẽ gọi cho cảnh sát”.
Bố liếc nhìn đồng hồ trên tủ sách, thời gian hiển thị là 4g17. Bố lại quay nhìn mẹ, mẹ cũng đang nhìn bố, tiếng đồng hồ kêu tích tắc lớn như tiếng bước chân.
Hai viên cảnh sát trả lời máy, một già và một trẻ. Lúc sau, họ dừng xe bên đường, để tất cả hàng xóm đều thấy, sau đó bước những bước rất vang đến trước cửa nhà, không chờ họ bấm chuông, mẹ đã ra mở cửa. “Mời sĩ quan vào! Cám ơn các sĩ quan đến kịp thời, sĩ quan không biết tôi...”.
Karen thấy lời mẹ nói nghe hơi buồn cười. Bỗng nhiên, tình hình trong nhà rất hỗn loạn: mẹ chạy đi chạy lại trong phòng khách với bộ dạng hồi hộp; bố mặt nghiêm túc, làm ra vẻ chuyện này vô cùng quan trọng. Hai viên cảnh sát chọn hai chiếc ghế ngồi không thoải mái nhất trong nhà - ghế có lưng gồm hai trụ nối bằng những thanh ngang, đó từng là chỗ ngồi của bà nội Anton lúc còn sống. Khi họ ngồi xuống, trên người phát ra tiếng kêu cọt kẹt, có lẽ do bao súng đen cứng ngắc treo ở thắt lưng, hoặc bộ đồng phục của họ - trông như được may từ loại vải cứng hơn nhiều so với chất liệu bình thường. Viên cảnh sát già vóc người gầy nhỏ, nhưng rất rắn chắc; viên cảnh sát trẻ rất to béo, khuôn mặt không râu, nhìn trẻ con. Viên cảnh sát trẻ hỏi tên đầy đủ, tuổi và đặc trưng diện mạo của Lindy, bao gồm cả bộ trang phục mặc khi bỏ nhà đi. Màu đen, mọi người chỉ có thể cung cấp điểm này. Anh ghi tất cả câu trả lời vào cuốn sổ tay có gắn lò xo ở phía trên, cuốn sổ này có thể mua được ở bất cứ cửa hiệu văn phòng phẩm nào. Cây viết bi anh đang cầm là cây viết bấm đi theo bộ với cuốn sổ.
“Chúng tôi từng gặp rất nhiều vụ thế này”, viên cảnh sát già nói với bố mẹ, “chúng bắt đầu quen bạn trai, bắt đầu phớt lờ quy định giờ cấm cửa... Chúng tôi thường tìm thấy chúng ở bang Maryland và Elkton. Cả hai bỏ trốn đến nơi có thể kết hôn mà không cần chờ cho đủ tuổi”.
“Ồ, nhưng tôi thấy nó chẳng có bạn trai”. Mẹ nói. “Hãy thứ lỗi khi tôi nói điều này, thưa bà, bố mẹ luôn là người cuối cùng biết chuyện”.
“Ông biết đấy, Lindy thích đi cùng một nhóm bạn hơn, chứ không thích đi riêng với bạn trai”.
Viên cảnh sát trẻ không ghi lại đoạn trò chuyện này, dù Karen mong muốn anh làm thế. Anh nhìn viên cảnh sát già và dò hỏi. Viên cảnh sát già đang nói: “Tôi biết”.
“Tôi hiểu”. Ông lặp lại lần nữa, sau đó bảo: “Mỗi ngày cô bé đi cùng bao nhiêu người bạn, bà có thể đoán chừng số lượng không?”.
“Ơ, có thể có... bao nhiêu nhỉ, Michael? 5 đứa? 6 đứa?”. “Cô bé đi chơi với đám bạn trai đó suốt đêm sao?”. “Ối, trời, không phải! Lindy có vài giờ ở nhà, hơn nữa nhóm bạn của nó không chỉ toàn con trai, đúng không, Karen? Đúng thế, dĩ nhiên có cả con gái nữa, chúng là một nhóm mấy đứa trẻ cả nam và nữ tụ họp với nhau, không chỉ có con trai”.
“Cô bé có uống rượu không, thưa bà Anton?”.
“Uống... rượu? A, dĩ nhiên là không! Nó mới 17 tuổi! Đang là học sinh lớp 11, lại thường xuất hiện trên bảng danh dự của nhà trường đấy!”.
“Mãi cho đến năm lớp 11”. Viên cảnh sát già nhắc lại và nhìn viên cảnh sát trẻ. Sau đó ông nói tiếp: “Hãy cho tôi biết: cô bé có thường lui tới chỗ nào không? Ví dụ như quán bar hay hộp đêm gì đó, có lẽ chủ quán biết chút thông tin gì về cô bé?”.
“Quán bar!?” mẹ Karen kêu lên, cùng lúc đó, bố Karen nói: “Thưa ông, tôi nghĩ chắc ông hiểu lầm rồi”.
Hai viên cảnh sát đều tập trung nhìn Micheal. Viên cảnh sát trẻ bấm thu đầu viết lại, để chứng tỏ mình đang tập trung cao độ.
“Có lẽ con gái chúng tôi hơi nổi loạn”, bố Karen nói, “thỉnh thoảng nó về khá muộn, thiếu tôn trọng người lớn, nhưng nó tuyệt đối không say men cùng bọn du đãng trong quán bar, nó không phải đứa chẳng ra gì, nó không phải... rác rưởi, hiểu không?”.
“Tôi hiểu, thưa ông”. Viên cảnh sát già đáp. Nhưng hai người họ chẳng chút thay đổi, vẫn ngồi đó với vẻ mặt lạnh như băng, trông bình tĩnh và lịch sự vô cùng.
Lần này ở một góc phòng, cả nhà Karen đưa mắt nhìn nhau. Bố mẹ chúng ngồi trên ghế salon, George ngồi trên ghế tay vịn, Karen ngồi trên ghế nệm trước mặt George. Họ chẳng nói câu nào, thậm chí chẳng ai nhúc nhích, nhưng Karen thấy khoảng cách giữa họ chẳng hiểu sao lại gần nhau hơn.
Theo thông lệ, bữa tối chủ nhật thường diễn ra rất sớm, nhưng chẳng ai thấy ngon miệng, họ đều ngồi chờ điện thoại của cảnh sát. Dù sau khi hai viên cảnh sát rời khỏi, Karen nói với mẹ: “Con đói rồi!” bố cô bé cũng nói: “Anh nên nướng ít sandwich phó mát chăng? Đói quá”. Đó là món ruột của bố, một năm chỉ làm vài lần.
Thế là họ vào bếp. Bố lấy ra một cái chảo đáy bằng hình vuông và một khối phó mát hình viên gạch to lớn. Chỉ trong vài phút, cả căn bếp thơm nồng mùi phó mát. Nó làm Karen cảm thấy có chút không khí ngày lễ. Ồ, cảm giác nặng nề đang cấu xé dạ dày của cô bé. Cô bé vẫn chú ý động tĩnh ở cửa. “Tôi dám chắc, con gái ông bà tối nay sẽ cụp đuôi về nhà”. Viên cảnh sát già đã nói thế. Cuối cùng, hai kẻ ngốc nghếch cũng rời khỏi. Tiếng máy bộ đàm kêu ồ ồ trong tay viên cảnh sát già cũng biến mất. Dường như những người khác trong nhà cũng có cảm giác tương tự: bố đứng bên bếp lò, vung múa cây dao trong tay, bắt chước giọng của đầu bếp người Pháp; mẹ cũng thư giãn đôi chút, mỉm cười đứng một bên quan sát; George lười nhác dựa vào một chiếc ghế trong bếp, có thể họp mặt gia đình thế này, với cậu bé quả rất hiếm có.
“Là, lá, la”, bố vừa hát vừa lấy miếng sandwich màu nâu nhạt trong chảo ra, “món này rất thích hợp cho những thanh niên không thích ăn sandwich nướng cháy”. Bố đặt sandwich đã nướng vào một chiếc đĩa, đưa cho Karen. Karen nhún gối, đưa hai tay ra đỡ lấy chiếc đĩa tựa như cô hầu.
“’Cụp đuôi,’” mẹ nói, “em ghét cụm từ này, mọi người thấy sao?”.
“A, họ biết gì chứ?” bố nói, “Chẳng hiểu sao ông ta làm cảnh sát được! Họ chẳng hạn chế cân nặng sao?”.
Khi quay người đưa sandwich cho George, Karen phát hiện trong nhà chỉ mình anh nó không cười, mà trơ mặt. Lúc đó, cô bé rất muốn biết chuyện gì đang làm George rối rắm, vài phút sau, cô bé chợt nghĩ ra: Ồ, là Lindy, suy nghĩ này dường như làm cô bé bị trúng một đòn nặng nề.
Trong đầu Karen hiện lên cảnh Lindy mặc bộ trang phục bó sát người màu đen, đóng sầm cửa phòng, làm khung cửa rung đến muốn nứt ra; cảnh tượng Lindy ôm bụng cười khi bước lên xe một người xa lạ. Mỗi sự việc đều lần lượt hiện ra trước mắt, cứ như Lindy hiện giờ đang vung vẫy nắm đấm, gào thét, khóc lóc, cười rộ. Lindy là điểm sáng của căn nhà này, là hình ảnh tượng trưng cho sự dũng cảm và mạo hiểm.
Karen thấy tan nát cõi lòng, nhưng vẫn kiên trì đưa đĩa cho George: “Bánh sandwich của ông đây, thưa ông”.
Từng có một khoảnh khắc, George dường như hạ quyết tâm làm gì đó, rồi vẻ mặt nó thư giãn hơn nhiều.
Lindy lúc này vẫn không rõ tung tích, nhưng bỗng nhiên trong lòng Karen tràn đầy hy vọng, hy vọng này gần như làm cô bé thấy choáng váng. Với cô bé, có lẽ từ lúc này, gia đình họ cuối cùng đã có thể sống những tháng ngày hạnh phúc.