Chương 4
Trong trí nhớ của Michael có một hồi ức thời thơ ấu mãi anh không bao giờ quên.
Anh cùng mẹ và anh trai đang đi trên đường Boston, lúc đó anh khoảng 8 tuổi, Danny đã 12. Họ đi mua ít đồ, nhưng giờ anh không còn nhớ mua gì, có lẽ là vật dụng hằng ngày và những thứ khác. Vì phải đi mua những thứ này nên trước khi chưa đến cửa hiệu, anh đã thấy rất bực mình và mệt mỏi. Mẹ và anh trai rảo bước đi nhanh, bỏ lại Micheal đi một mình ở phía sau, làm anh giận đến mức cứ mãi nhìn họ bằng nửa con mắt, anh còn nhăn mũi khi ngửi thấy mùi cà chua nóng tỏa ra từ trong xưởng chế biến đồ hộp. “Đi mau lên”. Mẹ đi trước gọi vọng lại. Bỗng nhiên, Danny ngã lăn trên vỉa hè, Michael cười rộ lên. Anh ngỡ Danny đang chọc cười người mẹ chẳng có óc hài hước gì. Mẹ vội chạy đến đỡ Danny dậy, nào ngờ anh lại ngã xuống. Michael còn nghịch ngợm che một tay lên miệng cười vui, nhưng khi nhìn thấy sắc mặt của Danny, anh cũng sợ hết hồn.
“Danny?”, mẹ hốt hoảng gọi, “Danny!”.
“Con cũng chẳng biết chuyện gì nữa”. Danny nói.
Michael sợ đến sửng người. Bỗng nhiên anh thấy Johnny Dimsky và Johnny Ganek ở ngay phía trước. Họ là vận động viên bóng chày xuất sắc nhất của trường tiểu học St. Cassians. Michael càng căng thẳng hơn, anh cầu xin Thượng đế, đừng để họ thấy tình cảnh này.
Từ sau hôm đó, thỉnh thoảng Danny không đi được. Đôi lúc anh đánh rơi cả cốc sữa xuống đất. Mọi người đều không biết anh sẽ xảy ra chuyện gì.
Dĩ nhiên, họ hỏi rất nhiều bác sĩ về tình trạng của Danny. Ngoài ra, bố mẹ Michael có thảo luận vấn đề này với hàng xóm. Michael thấy bệnh tình Danny rất nguy hiểm. Nhất là ở nơi công cộng, anh luôn ngồi thẳng đơ, cơ căng cứng. Micheal cầu mong cơ bắp của Danny hoạt động bình thường, chứ nếu người ngoài biết bí mật của gia đình, sẽ mất mặt biết nhường nào.
Về sau, những tháng ngày vất vả này mờ dần trong ký ức của Micheal. Anh chỉ nhớ đại khái Danny ngồi trên chiếc xe lăn hoặc nằm thẳng trên giường, mẹ ngồi bên cạnh cầm ly cho Danny hút nước. Vào một đêm mùa đông cách sinh nhật lần thứ 19 không bao lâu, Danny qua đời. May mà lúc đó Michael đang say giấc, chẳng biết gì cả. Sáng sớm khi thức dậy, Micheal phát hiện Danny đã không còn nữa, giọng nói lẫn bộ dạng ngốc nghếch khi nói chuyện trước đây của anh cũng biến mất. Duy chỉ còn mỗi chuyện xảy ra trên đường Boston cách đây rất lâu là đọng sâu trong ký ức anh.
Giờ đây, Michael thấy cuộc đời mình tựa như đang đi trên con đường Boston vậy. Anh luôn phải che giấu một điều gì đó. Dĩ nhiên cuộc hôn nhân của người khác không long đong như của anh! Con gái nhà người ta cũng không khó dạy bảo thế! Anh lén quan sát hàng xóm, mong rằng sẽ phát hiện một vài vấn đề của họ, nhưng chẳng thấy có gì nghiêm trọng. Mimi Drew trách chồng mình, nhưng cô vẫn âu yếm khoác tay anh; con gái Brian đi hẹn hò về trễ cũng bị cấm cửa, dù có cãi lại vài lời, nhưng cô bé vẫn chịu phạt.
Cuối cùng, Lindy cũng không về nhà.
Sau lần đầu tiên biến mất, Lindy dường như đã tập thành thói quen không nghe lời dạy bảo của bố mẹ. Mỗi lần bị bố mẹ la mắng, cô bé liền bỏ nhà đi. Cảnh sát càng mất kiên nhẫn hơn với những cú điện thoại của họ. Hơn nữa họ cũng chẳng màng quan tâm đến chuyện này nữa. Cả hiệu trưởng cũng chỉ hỏi qua loa một số vấn đề về nhà Anton với lời lẽ có ý khinh miệt.
Vào năm học cuối, cô bé bị đình chỉ học hai lần. Lần đầu vì trốn học, lần thứ hai vì hút thuốc. Trong kỳ nghỉ Giáng sinh, bỗng nhiên cô bé biến mất, ba ngày sau trở về chẳng một lời giải thích gì. Họ đưa nó đến một bác sĩ tâm lý do nhà trường giới thiệu. Cô bé lại uể oải cúi thấp đầu trong phòng bác sĩ, chẳng nói chẳng rằng.
Học kỳ mới vào mùa xuân, vì mang theo sáu chai bia trong giờ thể dục, cô bé bị đình chỉ học một tuần. Hiệu trưởng giới thiệu cho họ một ngôi trường dành riêng cho những đứa con gái chuyên gây rắc rối ở phía tây Virginia, nhưng Michael và Pauline không chịu được khi phải đưa con đến nơi đó. Họ thấy mình chẳng còn cách nào để giúp con họ nữa. Trong một tuần bị đình chỉ học, Lindy ngồi xem ti vi suốt trong phòng. Pauline nói với Michael rằng khi dùng máy hút bụi dọn dẹp nhà cửa, Lindy luôn ngồi thừ người ở đó chẳng nói lời nào, mắt nhìn chằm chằm Dave Garroway trên ti vi, dù bình thường cô bé luôn cười nhạt khinh bỉ trước những người cho rằng ti vi là “thức ăn tinh thần” không thể thiếu.
Một buổi chiều nọ, bỗng nhiên có khách đến nhà. Ba đứa con trai và một đứa con gái mặc đồ đen, chúng cố tình xuống tầng hầm. Thực tế, thái độ của Pauline trước sự việc này cũng có chút thay đổi. Không ngờ cô mời chúng vào nhà, còn mang bánh đãi chúng. Khi cô bước vào, chúng đều không nói chuyện, nhưng chí ít cũng lầm bầm cám ơn, đồng thời rút chân lại. “Hôm nay trời đẹp thật”, cô nói với chúng, “sao các cháu không ra ngoài vườn ngồi nhỉ?”.
“Mẹ”, Lindy nói, “mẹ có ngại khi để chúng con nói chuyện riêng không?”.
Pauline nói: “Mẹ chỉ góp ý chút thôi”.
Sau đó cô nói với Michael về đứa con trai, dáng người cao gầy, cằm có một chỏm râu, trông chẳng lành mạnh, chắc là đứa cầm đầu nhóm. Lúc cô ở trên lầu, luôn nghe thấy nó lầu bầu, hơn nữa dường như nó cứ lượn vòng quanh Lindy. Khi nghe nói đứa cầm đầu nhóm thích con gái mình, Michael bỗng nhiên thấy có chút hãnh diện, thậm chí bản thân anh cũng bất ngờ trước suy nghĩ này.
Hôm đó là thứ sáu. Đến thứ hai, Lindy trở về trường, bộ dạng ngoan ngoãn vâng lời, mang theo tập sách và ba lô bằng vải bố màu nâu nhạt kẻ sọc. Về sau Pauline nói với Michael, cô thấy lần đình chỉ học này quả thật có tác dụng. “Ý em là, để con bé lười nhác một tuần đã đủ rồi”, cô nói, “chỉ sáng nay, em chẳng cần cằn nhằn bảo nó chuẩn bị cho mau, em thấy nó rất vui khi đến trường. Em tin con bé đã có được bài học”.
Hôm đó, Michael cũng rất thoải mái vui vẻ. Hiển nhiên mấy tháng gần đây anh luôn lo lắng sợ hãi, mãi đến khi nỗi lo sợ này biến mất anh mới ý thức được.
Karen ba giờ tan học về nhà, dẫn theo cô bạn thân Maureen. George khoảng 4 giờ rưỡi thì về đến nhà, nhưng Lindy vẫn chưa thấy đâu.
Lúc 6 giờ, Michael về, lúc này Pauline đang nóng ruột. “Chúng ta phải làm sao đây?”. Anh vừa bước vào cửa cô liền hỏi ngay. Và anh luôn cầu nguyện Pauline đừng làm thế mỗi khi anh vừa về đến nhà! “Chúng ta không thể gọi điện thoại đến trường! Họ sẽ nghĩ lại xảy ra chuyện gì rồi”.
“Có lẽ con bé đang ôn bài”, Michael nói, “Thầy sẽ giúp nó theo kịp tiến trình trong lớp. Đừng quên rằng, nó đã lỡ mất bài một tuần nay”.
“Cũng 6 giờ rồi, chẳng thầy cô nào dạy học sinh giờ này!”.
“Có lẽ là...”.
“Hơn nữa thầy cô cũng không cho phép nó ôn lại bài đã bỏ, nó bị đình chỉ học mà!”.
“Pauline, chúng ta đi kiểm tra hàng tồn nhé. Giờ vẫn còn sớm, cấp III thường... có một số hoạt động ngoại khóa hoặc những việc khác”.
“Ôi, Thượng đế phù hộ, Michael, anh nghĩ nó đang tập kịch sao?”.
Anh ghét Pauline nói bằng giọng điệu đó, quá gay gắt cay nghiệt.
Mãi đến 7 giờ rưỡi họ mới ăn tối. Mọi người chẳng ai nói với ai. Hai đứa trẻ chỉ khom người mà ăn. Michael chẳng nuốt nổi thứ gì, hơn nữa cảm giác sợ hãi một lần nữa bao trùm lấy anh.
Vào lúc đó, anh có ý thức được rằng lần này Lindy sẽ biến mất mãi mãi không? Về sau nhớ lại, anh mới phát hiện mình chỉ là Gia Cát Lượng sau khi sự việc đã xảy ra, chứ không phải Khổng Minh đoán chuyện như thần. Anh còn nhớ rất rõ sáng sớm hôm đó. Cũng giống như lúc Pauline nói khi than oán, anh phải nghi ngờ chứ, ba lô của cô bé trông rất nặng, chẳng thấy sách đâu, điều rõ ràng nhất là: lúc nào cô bé cũng đề phòng, tất cả đều là lời cảnh báo cho anh. Lẽ nào Pauline không nghĩ đến sao? Lẽ ra trực giác phải mách bảo cô ấy chứ! Michael luôn nghĩ cô rất có tinh thần trách nhiệm. Khi bị cảnh sát, lãnh đạo trường, hàng xóm, bạn học và những bậc phụ huynh khác truy hỏi, anh chẳng nói gì cả, cứ nhìn Pauline với ánh mắt trách móc. Pauline đang ôm đầu vừa khóc vừa nói lung tung, trông cô chẳng còn bình tĩnh nữa. Đây là lần đầu tiên anh thấy cô buồn bã thế. Trước đây anh luôn nghĩ mình không thông minh bằng cô, nhưng giờ hãy nhìn cô xem! Hãy nhìn mà xem!
“Tôi mong anh hiểu con gái tôi là đứa đứng đắn”, cô nói với một viên cảnh sát, “nó không phải là đứa trẻ phạm tội mà anh đang tuần tra, nó không chào đời trong một gia đình vô giáo dục, nó cũng chưa từng phạm tội. Nó chỉ...! Nó chỉ là... Ôi, tôi cũng chẳng biết thật ra nó thế nào! Bản thân tôi cũng lấy làm lạ! Tôi chưa từng gặp chuyện thế này! Tôi thề, sau khi trưởng thành nó sẽ giống như những đứa trẻ khác. Không có hành vi nào vượt khuôn khổ, anh cũng chẳng cần phải suy xét nhiều. Dĩ nhiên, nó rất ương ngạnh, nhưng biết nghe lời. Nhưng tôi chưa từng nghĩ nó lại có hành vi cực đoan như thế, cứ như bỗng chốc thay đổi hoàn toàn và trở nên khó hiểu! Ôi, chắc anh cũng có con. Anh biết chúng thế nào: đôi lúc rất khó bảo, rất ngoan cố. Nhưng điều đó không có nghĩa chúng sẽ mất tích, đúng không? Tại sao Lindy lại mất tích kia chứ? Tại sao? Đến giờ, tôi vẫn rất giận những đứa chơi chung với nó. Nhưng hôm qua, khi Leila Brand đến nhà... Anh có nói chuyện với cô Brand không? Mẹ của Howard Brand, chúng gọi nó là Smoke. Nó là một trong hai đứa khác cũng bỏ nhà đi phải không? Ái chà, Leila là người sống quy cũ và lịch sự nhất. Cô ấy mặc chiếc áo ngoài chui đầu giống hệt cái tôi mua ở cửa hiện Penny vào tháng trước, còn cả mái tóc ngắn mượt mà tuyệt đẹp. Ai ngờ được rằng cô ấy có đứa con trai râu ria lởm chởm, tính tình quái đản kia chứ? Hơn nữa tôi có thể chắc chắn cô ấy cũng có suy nghĩ giống tôi. Tôi là mẹ của đứa con gái hư hỏng Lindy Anton dẫn con trai cô ấy lầm đường lạc lối. Chắc chắn cô ấy sẽ nghĩ thế”.
Sau đó Pauline lại nghẹn ngào không nói tiếp được nữa, khóc nấc lên, nhưng Michael không đến an ủi cô, vẫn ngồi ngay ra đó, hai tay nắm chặt lấy đầu gối, mắt nhìn chằm chằm viên cảnh sát. Anh nhớ Pauline không chỉ một lần nhắc đến từ “chúng tôi” hoặc “của chúng tôi” khi nói đến Lindy. Mà hầu như trước đây chuyện gì cô ấy cũng nói “tôi” và “của tôi”, cứ như cả bộ phim chỉ có mình cô ấy diễn. Anh thấy mình trở nên lạnh lùng với Pauline, hơn nữa anh mong muốn viên cảnh sát hiểu rằng vợ chồng anh chẳng giống nhau chút nào.
Lúc đầu, Michael thấy Lindy có thể xuất hiện bất cứ lúc nào: hôm nay, ngày mai hoặc ngày kia. Mấy tuần sau, chỉ cần điện thoại trong cửa hiệu đổ chuông, anh liền nghĩ ngay là Pauline gọi đến báo Lindy đã về. Có thể buổi tối Lindy lẻn về nhà, sáng hôm sau sẽ thấy cô bé nằm ngủ ngon trên giường. Mỗi sáng thức dậy, Michael đều đến kiểm tra phòng cô bé. Anh nghĩ Pauline chắc cũng làm thế, vì cửa phòng đang mở.
Sau đó, vài tuần biến thành vài tháng, họ cũng mất hy vọng, không hối thúc cảnh sát nữa, cũng không thảo luận xem phải làm sao. Điều đáng ngạc nhiên là mỗi sáng thức dậy Michael luôn nhớ đến chuyện Lindy mất tích. Anh mong dùng hai bước để quên chuyện này: tận hưởng cái nắng ấm áp mùa hè và chìm đắm trong tiếng xe hơi nổ máy rền vang của hàng xóm. Thế nhưng, mỗi khi anh mở mắt ra, đều ý thức sâu sắc rằng: Lindy đã mất tích.
Sao anh quên được chuyện đó chứ? Đôi khi anh muốn quên đi dù chỉ một giây nhưng cũng không thể!
Anh biết suốt đời Pauline cũng không quên được. Anh biết cô luôn nghĩ đến chuyện này. Anh cũng thấy việc Lindy mất tích đã làm cô già đi. Hai nếp nhăn trên trán cô ngày càng sâu dần, lưng cũng ngày càng khòm, hệt như người phụ nữ trung niên. Thậm chí khi nghe George hay Karen kể những mẩu chuyện vui, trông cô cũng như đang cười gượng gạo.
Nhưng chắc chắn một điều, chuyện này không làm quan hệ của họ thân mật hơn. Thỉnh thoảng, Michael nghĩ có lẽ đã đến lúc họ phải kết thúc. Anh thấy sự ra đi của Lindy là dấu chấm hết cho cuộc hôn nhân của họ: bố mẹ đang đóng kịch, bố mẹ chẳng phải vợ chồng, đây cũng không phải một gia đình đúng nghĩa. Michael không thích kể chuyện này với người ngoài. Một số hàng xóm mới đến giờ vẫn không biết chuyện. Pauline lại thích kể tường tận với người khác, nhưng khi mọi người hỏi Michael có mấy đứa con, anh liền trả lời: “Hai đứa. Con trai 16 tuổi, con gái 12 tuổi”. Mỗi khi anh nói thế, tim Pauline đau nhói. “Sao anh có thể không thừa nhận con gái ruột của mình chứ?”, cô thường hỏi anh thế và anh trả lời, “Họ chỉ muốn biết con cái nhà ta có bằng tuổi với con cái nhà họ không thôi. Anh nói thế, để tránh phiền phức”.
“Em thấy anh không thành thật. Anh làm em rất nhục nhã”.
“Có người nói đây là sự nhục nhã, cũng có người nói là không cẩn trọng, còn anh luôn thấy không cần thiết phải nói vấn đề nhà mình với tất cả mọi người”.
“Đây không phải vấn đề, Michael! Đây là sự thật! Sự thật đáng sợ và bức bối trong cuộc sống của chúng ta!”.
“Không cần thiết phải đóng kịch thế”. Anh nói với cô. “Được rồi, chí ít em cũng không phải khúc gỗ như ai đó!”.
Giờ đây Michael không tưởng tượng Lindy “có thể về nhà hôm nay” hoặc “có thể tuần sau sẽ về” nữa, mà bắt đầu hy vọng Lindy sẽ về vào những dịp quan trọng. Ví dụ như ngày Quốc tế lao động, khi họ nướng thịt ngoài vườn theo lệ thường, trước đây Lindy chẳng bỏ qua lần nào, cô bé rất thích món thịt nướng. Nhưng giờ cô bé không xuất hiện, quả thật rất buồn. Trước đêm Giáng sinh năm 1961, Michael bất chấp nguy hiểm, thắp sáng đèn trên cây thông Giáng sinh suốt đêm. Hôm Giáng sinh, anh thức dậy từ sáng sớm, giống như những đứa trẻ quá háo hức, rón rén ra vào phòng khách, nhưng chỉ thấy Pauline ngủ say trên sopha.
Anh biết Pauline nôn nao về sinh nhật của mình - chí ít là một tấm thiệp chúc mừng hoặc một cú điện thoại của Lindy. Khi anh hỏi, có muốn ra ngoài dùng bữa không, cô bảo muốn ở nhà ăn cơm với các con. Thậm chí, anh thấy cô chờ người đưa thư cả ngày, hơn nữa mỗi khi điện thoại reo, cô đều chạy vội đến nghe máy, nhưng chẳng được gì. Michael cố gắng đối xử tốt với cô, nên vờ như không thấy sự hụt hẫng đó. Nhưng cô không làm thế, vì ba tháng sau là sinh nhật Michael, trước lúc đi ngủ, cô nói: “Anh yêu, đừng chấp nhặt làm gì, chắc nó quên thôi”.
“Ai quên?”, anh giả ngây hỏi. Cô hôn anh, sau đó tắt đèn.
Nếu George và Karen nôn nao, chúng sẽ không để bố mẹ biết. Từ sau khi Lindy mất tích, chúng cũng thay đổi, trở nên trầm lặng hơn. Không khí trong nhà rất khó chịu. Tất cả những hỗn loạn Lindy gây ra trước đây, những lần cãi nhau trên bàn ăn, những lúc tranh chấp quyền lực, giờ đây nghĩ lại quả rất thú vị. Cùng lúc đó, Michael dường như hối hận khi phát hiện hai đứa còn lại trông rất nhạt nhẽo và không có cá tính gì nổi bật. George quá nghe lời và Karen với nét dịu dàng của một cô bé ngoan làm anh đôi lúc bực bội. Anh chỉ muốn nói với chúng: “Hãy bộc lộ chút sức sống đi!” dù anh biết mình cũng rất sầu não.
Thỉnh thoảng cảnh sát gọi điện đến, Michael đánh dấu trên lịch. “Tôi chỉ nói những việc cơ bản nhất, không dông dài. Người phụ nữ ăn cắp xe ở bang Oklahoma hình như từng thấy Lindy, nhưng sau đó lại bảo không có...”. Với người như thế, Michael chẳng thể lịch sự nổi, anh bắt đầu tin rằng tất cả cảnh sát đều là đồ bỏ. Nhưng trước đây họ khẳng định rằng: cô bé sẽ tự động về nhà thôi. Họ chưa từng nghiêm túc nhìn nhận vụ việc này. Khi Smoke gởi tấm bưu thiếp cho anh họ nó, trên đó viết: “Chào anh bạn! Tối qua tụi này cắm trại ở đó đấy”. Micheal thấy cảnh sát đã quá cẩu thả.
Bố mẹ Smoke chuyển đến Florida, cắt đứt liên lạc với họ. Năm 1963, họ phát hiện đứa con trai thứ hai Clement Anies sống chung với một cô gái người Puerto Rico ở Chicago. Clement nói với bố mẹ, sau khi bỏ nhà đi được một tuần, nó đã tan đàn xẻ nghé với hai người kia - vì tranh chấp về tiền bạc. Nó cũng không biết Lindy thế nào.
Những ngày tháng của Michael giờ đây đều trở nên rất ảm đạm, hay nói đúng hơn Michael không còn vui nữa. Khi họp mặt gia đình hoặc khi thưởng thức món ngon, anh đều nghĩ: giờ Lindy đang làm gì? Nó vẫn khỏe chứ? Nó có đói không? Có bệnh không? Nó vẫn còn sống chứ?
Khi nghĩ đến những điều này, bản thân anh cũng giật mình, nhưng anh vẫn xem những trận đấu bóng rổ, vẫn quan hệ chăn gối với Pauline, vẫn huýt sáo theo điệu nhạc trong radio.
Những chuyện này làm anh thấy hy vọng tìm lại Lindy càng mong manh hơn: trong tang lễ của mẹ Pauline, trong lễ khai trương cửa hiệu mới ở ngoại ô, trong hôn lễ của George và Sally đều không có bóng dáng của Lindy. Có thể nó nghe được đâu đó những chuyện này. Dù vậy, anh vẫn bất giác nhìn vào đám đông. Nhưng chẳng lần nào Lindy xuất hiện, giống như cô bé chưa từng xuất hiện trong đời họ.
Về sau, anh lại nghĩ dù Lindy có về, có lẽ anh cũng chẳng còn nhận ra nó. Giờ cô bé trông thế nào? Nó sắp 25 tuổi rồi. Thời gian nó rời khỏi nhà đã quá lâu.
Một buổi chiều ấm áp vào tháng 5 năm 1968, Pauline gọi điện cho Michael, anh nhấc máy, cô liền vội nói: “Anh họ Adam của anh vừa gọi điện đến, bảo Lindy đang ở San Francisco. Họ đưa nó vào bệnh viện rồi. Con trai nó đang ở chung với bà chủ nhà. Chúng ta phải đến đó ngay, đưa mẹ con nó về nhà”.
Lúc đó Michael đang ngồi trên chiếc hộp giấy để sổ lương.
Vì chiếc ghế duy nhất trong văn phòng bị cô thư ký ngồi mất rồi. Cô ấy đang bình thản bấm các nút trên máy tính, nhưng Michael nghĩ rằng chắc chắn cô nghe được nhịp tim đập thình thịch của mình.
“Chúng ta phải đến đó, anh mau về nhà đi, chúng ta đến đó bằng cách nào?”. Pauline hỏi, nhưng Michael chỉ nghĩ được rằng “Anh họ Adam? Anh không hiểu, rốt cuộc chuyện thế nào?”.
“Chúng ta phải mua vé máy bay, mọi người làm cách nào để đến đó nhỉ”.
“Anh họ Adam là con của chú Bron sao? Anh có quen biết anh họ Adam đâu! Cả đời này anh mới chỉ gặp anh ấy hai lần!”.
“Michael, em xin anh, hãy chú ý nghe em nói”.
Anh dừng một lúc, hít một hơi thật sâu, sau đó hỏi: “Nó sao rồi?”.
“Đầu có chút vấn đề, em không biết nữa, chỉ biết có vấn đề ở đầu thôi”.
“Ối, trời!”.
“Anh về nhà được không?”.
“Anh về ngay”. Nói xong Micheal liền gác máy.
Tay cô kế toán chậm lại một nhịp, nhưng anh chẳng giải thích gì đã rời khỏi văn phòng. Anh đi qua quầy bán thịt, tủ lạnh để sữa. Cửa hiệu này không lớn lắm, nhưng lớn và đẹp hơn cửa hiệu cũ, quan hệ giữa anh với mỗi nhân viên đều rất tốt. Anh chỉ nói với quản lý: “Bart, tối nay anh đóng cửa nhé”. Sau đó liền đẩy cửa kính ra ngoài, đến bãi đậu xe.
Trên đường lái xe về nhà, anh luôn nghĩ đến bộ dạng Lindy nằm trong bệnh viện. Lần đầu tiên trong 7 năm qua, anh biết được tung tích của con bé, nhưng hễ nghĩ đến Lindy mặt trắng bệch, nằm run rẩy trong phòng cách ly, anh vẫn không muốn chấp nhận sự thật đó.
Nó sẽ ổn thôi, sẽ khỏe lại. Họ sẽ đưa nó về nhà, chăm sóc tử tế, nó sẽ khỏe lại ngay.
Nhưng nó vẫn còn một đứa con trai. Anh chẳng còn đầu óc nào nghĩ cho đứa bé.
Pauline cho rằng chắc bà chủ nhà gọi điện theo thứ tự chữ cái, nên gọi đến nhà Adam trước. “Em đoán chủ nhà bảo nhân viên nối máy gọi cho người bắt đầu bằng mẫu tự A, sau đó cứ thế tiếp tục”. Cô vừa nói vừa thu dọn hành lý. Khi Michael nhìn thấy Pauline từ cửa phòng, cô đang loay hoay giữa tủ áo và chiếc va li đặt nằm trên giường. Phải đến mai mới có chuyến bay, nhưng cô cứ như chuẩn bị thay quần áo để đi liền lúc đó. Pauline bôi bừa vài thứ lên mặt, lúc ủi chiếc áo thun cho Michael, tay cô run nhẹ. “Chủ nhà hỏi Adam có đứa con gái tên Linnet không, Adam bảo không, nhưng có lẽ anh ấy biết ai có con tên như thế”.
“Kỳ lạ, sao anh ấy lại biết điều đó?” Michael nói, “Adam hầu như không có quan hệ gì với gia đình Anton mà”.
“Đúng thế, chắc anh ấy biết tin Lindy bỏ đi qua báo chí”.
Michael lùi lại một bước, hễ nghĩ đến mọi người đều biết chuyện nhà mình, anh thấy rất khổ não.
“Sau đó, bà ấy hỏi Adam có thể liên lạc với chúng ta không, vì bà ấy ở quá xa, anh Adam bảo được, anh ấy tìm thấy số điện thoại của chúng ta trong danh bạ. Lúc anh ấy gọi điện đến, hệt như là cái máy nói. ‘Bà Anton’, anh ấy nói, ‘Bà Anton!’ anh tưởng tượng được không? ‘Tôi biết con gái bà tên Lindy đang ở San Francisco, bà có thể gọi số này hỏi tình hình cụ thể’”.
Lúc Pauline tường thuật lại sự việc, Michael cho rằng chính bản thân Adam đang nói, vì Pauline giả giọng rất giống. Anh họ Adam của anh người béo tròn, mặt trắng bệch, mắt lồi, giống hệt vợ cũ của chú Bron. Trong trí tưởng tượng của Michael, tuy anh ấy cao 6 inch (tương đương 1m80cm), nhưng vẫn là một đứa trẻ, tay anh luôn buông rũ hai bên như không có sức, miệng luôn há ra.
“Thế rồi em gọi điện thoại, chủ nhà đó chắc đang chờ nên nhấc máy ngay. Em nói: ‘Tôi là Pauline Anton, mẹ của Lindy Anton. Tôi vừa nghe anh họ bên chồng tôi nói...”’.
“Chủ nhà nói gì?” Michael chen ngang. Anh không thể nhẫn nại được nữa, giờ anh chỉ muốn biết rốt cuộc là chuyện gì.
Pauline lườm anh một cái, “Em đang định nói đây, Michael, nếu anh có thể kiên nhẫn một chút. Chủ nhà bảo Lindy và con trai mấy tuần gần đây thuê nhà bà ấy, nhưng bà ấy không biết trước đó mẹ con nó ở đâu, cũng chẳng biết bố đứa trẻ là ai... Hai hôm trước, bỗng nhiên Lindy có ‘hành động lập dị’, bà ấy nói thế, em cũng không rõ. Chỉ nói ‘hành động lập dị’, có lẽ giờ nó chẳng còn ở trong bệnh viện, mà ở trong văn phòng tư vấn tâm lý nào đó... Phải có người chăm sóc đứa bé đó, vì chủ nhà không quen trông trẻ, hơn nữa đứa bé trông rất đau buồn”.
“Nó bao lớn?”, Michael hỏi. “Bà ấy bảo không biết”.
“Ít nhiều bà ấy cũng biết đôi chút chứ”.
“Rất hiển nhiên nó vẫn chưa đi học, vì bà ấy luôn than rằng thằng bé chẳng chịu ra khỏi nhà dù chỉ một giây”.
“Nó biết nói không?”.
“Bà ấy bảo nó ít nói lắm”. “Trời ạ!”, Michael thở dài.
Anh nghĩ ngay mình và Pauline đã thành ông bà ngoại rồi và đứa trẻ có quan hệ máu mủ với họ giờ đau buồn đến mức không thể nói chuyện nữa.
“Phải chi hôm nay họ có chuyến bay”. Anh nói. “Chúng ta phải đi mua vé máy bay trước”. Pauline quả quyết. Cô đang đi ra phòng khách, đến phòng ngủ của Karen, hình như cô cảm thấy Karen cũng bỏ nhà đi rồi. “Thậm chí, em không muốn cho anh biết mua vé tốn hết bao nhiêu tiền”. Cô nói, sau đó quay người lại, trên tay cầm một chiếc đầm rất ngắn.
“Em nghĩ anh ngại việc tốn bao nhiêu tiền sao?”. “Destiny cho em biết có một số quán trọ không đắt lắm, em đã gọi điện đặt một phòng rồi”.
Michael nghĩ một lúc, “Destiny cho em...”. “Destiny chính là chủ nhà đó”.
“Làm quen nhanh nhỉ”. Thật ra ý anh là Pauline gọi tên thân mật quá. Nhưng Pauline nghe không hiểu, cô tròn xoe hai mắt trừng anh, sau đó quay người treo áo vào trong tủ. “Em đặt căn phòng đó bao lâu?” anh hỏi, “Chuyến bay khứ hồi của chúng ta là bao giờ? Anh nghĩ chắc họ sẽ cho chúng ta đưa Lindy về ngay?”.
“Dĩ nhiên”, Pauline nói, “chúng ta là người nhà nó mà! Em chỉ đặt một đêm thôi. Hơn nữa em đặt chuyến bay khứ hồi vào sáng hôm sau, bốn chỗ”.
Anh ra sức tưởng tượng cảnh bốn người họ ngồi thành hàng hai, anh và Pauline, Lindy và đứa bé chẳng rõ họ tên.
Anh thật không hiểu vợ mình kiên cường thế từ lúc nào.
Trước đây họ chưa từng ngồi máy bay, nhưng Sally - vợ George đã đi mấy lần. Trên đường đưa họ đến sân bay, Sally không ngừng an ủi họ, “đừng lo lắng sự cố máy bay”, Sally nói, “nhìn số liệu là biết ngay, máy bay an toàn hơn xe hơi nhiều”.
Michael không lo lắng sự cố máy bay. Anh lo nên làm gì và không nên làm gì. Hành lý của họ thế nào? Anh nên trả tiền mua vé ở đâu? Vé máy bay cũng bấm lỗ như vé tàu hỏa sao? Khi Sally dừng xe để vào cùng họ, anh thấy nhẹ nhõm hơn nhiều. Thỉnh thoảng anh thấy cô con dâu này rất phiền phức. Đấy là người phụ nữ tóc vàng rắn rỏi và vui vẻ, chuyện gì cũng thích quan tâm. Nhưng hôm nay, ở sân bay, anh rất biết nó.
Quả thật Pauline hơi lo sự cố máy bay. Khi ở phòng chờ, cô xé vụn mấy tấm khăn giấy. Khi hôn tạm biệt Sally, cô nói: “Nếu bố mẹ xảy ra chuyện, mẹ đã để lại một mảnh giấy trong hộp trang sức, trên đó có viết thứ gì là cho ai”.
“Nghe mẹ nói kìa!”, Sally khóc, “Không sao đâu mà!”. Quần áo của mẹ con cứ lấy mà dùng.
Sally ôm cô. “Chúc bố mẹ chuyến đi vui vẻ”, “cho con gởi lời hỏi thăm Lindy, bố mẹ có nghe con nói không?”... dù Sally và Lindy chưa từng gặp mặt. Sally đưa họ đến trước cổng, họ bước vào theo những người khác chuẩn bị lên máy bay.
Chuyến bay lần này làm Michael thấy hơi thất vọng. Anh chờ đợi nhiều cảm giác khi ở trên không, nhưng chẳng có gì thú vị. Hơn nữa từng hàng hành khách ở hai bên làm anh thấy mình cứ như đang trong một phòng chờ xe chật hẹp, thậm chí không cảm nhận được họ đang di động. “Nhìn kìa!” Pauline nói, vừa chỉ tay ra ngoài cửa sổ. Anh chồm người qua, thấy phía dưới xa tít có một con sông dài và ngoằn ngoèo, nhưng không chuyển động, mặt sông phản chiếu từng đường nét màu xám sáng bóng tỏa ánh bạc, hệt như dấu vết để lại của bút chì; khắp nơi chẳng thấy đường cao tốc và các tòa nhà cao tầng, ngoài những ngọn cây xanh um chụm lại tựa búp bông cải, chẳng có gì hết. Chắc chim ưng sẽ thấy được cảnh tượng này. Cả đất nước là một vùng đất hoang vu chưa khai phá. Sau đó máy bay bay vào một tầng mây, cửa sổ trắng xóa, Michael ngồi dựa vào ghế.
“Em đang nghĩ có nên mang theo hồ sơ bệnh lý của Lindy không”. Pauline nói.
“Hồ sơ bệnh lý gì?”. Anh hỏi.
“Chắc nó ở trong tập hồ sơ của bác sĩ khoa nhi”.
“Ồ...”, Michael trả lời, nhưng anh không nói con gái họ đã quá tuổi khám bác sĩ khoa nhi từ lâu rồi.
Sau đó, Pauline không trò chuyện nữa. Khi anh nhìn lại, mắt cô gần như híp chặt. Mấy lần cô ngồi thẳng người, chớp mắt, nhưng chẳng bao lâu sau đầu cô lại nghiêng sang cửa sổ. Michael không ngủ được, dù họ dậy rất sớm để kịp chuyến bay. Anh tập những điều cần thiết khi gặp tình huống khẩn cấp tìm thấy trong túi phía sau ghế, đọc lướt tờ tuần san cô tiếp viên hàng không đưa cho anh. Pauline phát ra tiếng ngáy nhỏ, miệng cũng há mở. Nếu cô biết được, chắc chắn sẽ rất ngại ngùng. Vì chuyến đi vội lần này, cô tô màu son đỏ đậm, cả phấn nền vón cục nơi lúm đồng tiền làm cô trông càng già nua hơn. Giờ đây, Michael thấy lúm đồng tiền của Pauline càng giống một vết khô rạn nhỏ - mãi đến giờ anh mới chú ý thấy điều này. Mí mắt cô đã nhăn nhúm, đôi chân mang vớ dài dưới chiếc váy cực ngắn đưa ra tựa như hai cây xúc xích.
Nhớ lại năm 1957, kỷ niệm 15 năm ngày cưới của họ, Pauline đề nghị ăn diện một chút để chụp một tấm ảnh. Cô vừa nói, vừa nhổ bốn sợi tóc bạc trên đầu. Cô đã bắt đầu già đi, không còn xinh đẹp như xưa nữa. Sau khi nghe đề nghị của cô Michael cảm thấy rất vui. Thế nên, họ đến hiệu chụp ảnh chân dung Aronson. Michael mặc bộ com lê, Pauline mặc bộ trang phục lụa màu xám. Thợ chụp ảnh bảo họ đứng trước rèm cửa sổ bằng nhung, bức rèm đó tạo nếp gấp tuyệt đẹp dưới chân họ. “Đứng sát vào nữa nào”, thợ chụp ảnh nói, “chị ngẩng cằm lên một chút, anh quàng tay qua người chị...”. Michael làm theo lời anh ta, quàng tay qua eo Pauline. Làn da cô mềm mại, hay đúng hơn đó là sự mềm mại của vải lụa mà anh không quen thuộc, lúc đó anh có cảm giác như đang đứng cạnh một người xa lạ. Người đàn bà này là ai? Có quan hệ gì với anh? Sao họ lại sống chung dưới một mái nhà, cùng nuôi dạy con cái, nối kết cuộc sống của mình vào nhau?
Tấm ảnh chụp xong, được lồng vào khung hình mạ viền vàng, để trong tủ áo của Pauline. Trong hình, cả hai người họ đều mỉm cười một cách cứng nhắc.
Nhìn từ trên cao xuống, San Francisco trông rất đẹp. Hầu như phần lớn cùng này đều bao quanh bởi các con sông; Pauline chỉ một cây cầu bên ngoài, hình như là cầu Golden Gate. Trên đường ngồi taxi ra khỏi sân bay, họ nhìn thấy nhiều sông hơn, mạch núi hầu như đều nghiêng về hướng này. So với nơi đây, Baltimore nghèo khổ và bình lặng.
Bác tài là người đàn ông có tuổi, đội nón nỉ màu nâu, ít nói. Pauline đưa địa chỉ cho ông và bắt chuyện. “Ông là dân vùng này sao?”, cô hỏi.
“Phải”.
“Ồ, San Francisco quả là nơi rất đẹp”. “Vâng”.
“Chúng tôi vừa từ Baltimore đến, đây là lần đầu tiên chúng tôi đến phía Tây của Mississippi”.
Im lặng.
Sự im lặng này làm Michael dễ chịu vô cùng. Khi nhớ đến cuộc tranh cãi trước lúc máy bay hạ cánh, anh liền khẽ lầm bầm: “Đến bệnh viện trước phiền quá...”, anh nói với Pauline.
“Sao? Michael, em không nghe được anh nói gì”. Cô gào to.
Anh nhắm mắt lại, rồi mở ra, nhắc lại câu vừa nói. “Nếu chúng ta đến bệnh viện trước, phải mang theo tất cả hành lý”.
“Sao thế? Chỉ là một vali nhỏ thôi mà”.
“Đúng thế, nhưng nếu họ cho chúng ta đưa Lindy về, con bé cũng có hành lý chứ...”.
“Michael, con gái em bị bệnh, đang chờ em, em không muốn lãng phí thời gian lấy đồ ngủ trong vali ra”.
“Có ai bảo em lấy đồ ngủ ra đâu, ý anh là...”.
“Con chúng tôi đang nằm trong bệnh viện”, Pauline nói với bác tài, giọng lớn hơn, “hôm qua chúng tôi mới hay tin”.
“Viện điều dưỡng”. Bác tài nói. “Ông nói sao?”.
“Họ gọi đó là viện điều dưỡng, không phải bệnh viện”. Lúc đó Michael còn tưởng bác tài bảo không hề có nơi đó, anh thấy sự hiểu lầm này rất buồn cười.
Pauline hỏi: “Sao ông biết?”.
“Ai cũng biết Nineteen Fleet Street”. “Đấy là... viện điều dưỡng?”.
“Do hai anh em quản lý”. Bác tài nói. “Ồ, anh em ruột hả?”.
“Đại loại như thế...”.
Pauline nhìn Michael, nhưng xem ra anh cũng chẳng hiểu bao nhiêu.
“Khoan đã”, cô hỏi bác tài, “ý ông là, con gái chúng tôi bị bắt sao?”.
“Không phải”, bác tài nói, “có người ra ngoài tìm, đó là nhiệm vụ của họ, sau đó lôi những người vừa tìm được vào và tiến hành quản giáo”.
“Bắt người...”.
“Những con nghiện, dân híp-pi, người lập dị chống lại những quy ước xã hội... đều bị bắt vào đó”.
Michael lập tức ghét cay ghét đắng con người này, anh quay qua nói thấp giọng với Pauline: “Chúng ta có thể đến quán trọ cất hành lý trước. Em chẳng bảo chủ nhà nói đi bộ một đoạn là tới sao”.
“Thực ra, con gái chúng tôi chỉ suy sụp vì căng thẳng tinh thần thôi”, Pauline nói với bác tài, “chúng tôi đến đây để đưa nó về. Trước giờ, chúng tôi luôn là gia đình thân thiết và đầy yêu thương, chúng tôi biết hễ nó về với gia đình sẽ nhanh chóng ổn định lại thôi”.
Bác tài không nói gì, mở đèn xi-nhan.
Giờ họ đang đi xuyên qua thành phố này. Thoạt đầu, Michael thấy nhà cửa ven đường để lại ấn tượng sâu sắc. Đấy đều là những căn nhà cổ rất bắt mắt, hơn nữa còn có căn gác nhỏ hình tháp và ban công viền hoa, cửa sổ bay màu và nóc nhà thì nhọn hoắt. Nhưng dần dà mọi thứ đều trở nên xưa cũ, tựa như chiếc taxi của họ đang đi vượt thời gian, trở về mấy mươi năm trước vậy, sơn đều bong tróc, cửa chính đều tan vỡ, rèm cửa sổ đã bay màu, một số cửa sổ đóng ván, một người con trai tóc dài mặc chiếc áo cũ nát nhắm mắt đứng dựa cột đèn bên đường. Bác tài mở khóa cửa xe, Michael và Pauline bước ra.
Nineteen Fleet Street chính là căn nhà cũ nát này, cả bảng hiệu cũng không có. Pauline hỏi bác tài: “Ông chắc đây là nơi chúng tôi muốn đến chứ?”.
“Đúng vậy”.
Cô lại ngồi vào chỗ, hoảng sợ đến phát khóc. Michael chưa kịp khuyên cô, bác tài đã ra phía sau, bảo Pauline: “Ra ngoài đi”.
Cô lại kéo tay nắm cửa, đứng loạng choạng trên vỉa hè, chiếc váy ngắn của cô nhăn nhúm, dây túi xách vướng vào cửa sổ xe.
“Hy vọng mọi chuyện thuận lợi với anh chị”. Bác tài nói với Michael.
Tuy không thích ông ấy, nhưng Michael vẫn cho ông ấy một ít tiền boa, dù tiền xe đắt đến cắt cổ.
Nghe tiếng chuông, người đàn ông ra mở cửa trông chẳng thành kính chút nào. Anh ta dáng cao, tóc xám trắng, râu cạo rất sạch sẽ, mặc áo flanen carô và quần bò, mang đôi ủng cao bồi nhọn hoắt. “Ai đấy?”, anh ta hỏi.
“Tôi là Michael Anton”, Michael bỏ vali xuống, “đây là vợ tôi, Pauline. Con gái chúng tôi ở chỗ anh”.
Dừng một lúc, người đàn ông đó ngẩng nhẹ đầu lên. “Con gái chúng tôi Lindy, Linnet”. Michael nói.
“Ở đây, chẳng ai có tên đó cả”. Người đàn ông nói.
“Sao?”.
“Họ, tên... những thứ trước đây đều bị bỏ lại khi chúng ta tiếp tục tiến bước”.
Xem ra, người đàn ông đó rất thành kính. Cuộc đối thoại nghiêm túc đã nói rõ sự việc. Michael tỏ ra rất lịch sự. “Điều anh nói quả là có ý nghĩa. Hình như nó được đưa vào đây khoảng ba hôm trước. Tôi biết, ơ, tinh thần nó bất thường. Nó cao độ chừng này, màu da xem xem với tôi, mắt nâu, tóc đen, nhưng tôi không biết nó để kiểu tóc gì...”.
“Serenity”. Một người bỗng nói.
Nhất thời Michael chẳng hiểu gì. Anh nhìn cậu bé đứng bên cạnh người đàn ông đó - một thiếu niên gầy nhom, mặc áo khoác thắt ngang lưng bằng vải sa-tanh và quần ống loe in hoa.
“Đúng vậy”, người thanh niên cũng đồng ý nói, “là Serenity. Cô ấy đến chỗ chúng tôi hồi thứ hai”.
Pauline hơi gấp: “Chúng tôi có thể gặp nó không?”. “A, không được”, người đàn ông nói với giọng nuối tiếc, “e rằng không thể. Ở đây, mọi người đều không có quan hệ với gia đình”.
“Nếu thế, chỉ gặp một phút thôi cũng không được sao?”, Pauline van nài.
Michael vội hỏi: “Được không ạ?” anh quay sang nhìn người đàn ông, người đó cũng bình thản nhìn anh. “Tôi nghĩ các anh không hiểu”, anh nói, “suốt 7 năm nay chúng tôi mất liên lạc với con gái. Mãi đến trước hôm qua, thậm chí chúng tôi không dám chắc nó còn sống hay không. Chúng tôi chỉ muốn gặp nó thôi, xem nó sống thế nào”.
“Sau đó đưa nó về nhà và giúp nó khỏe trở lại”. Pauline thêm vào.
Michael quay người về phía họ: “Anh xin em, Pauline, để anh xử lý chuyện này”. Anh lại nói với người đàn ông đó: “Chúng tôi chỉ muốn xem thử nó thế nào, nếu nó bằng lòng theo chúng tôi về, thế thì tốt. Nếu nó không muốn, chúng tôi đành về”.
“Rất xin lỗi anh bạn”, người đàn ông đó nhỏ nhẹ nói, “Serenity không thể gặp người khác”.
Pauline nói: “Đây là đâu thế hả, trại giam sao? Anh bắt con chúng tôi sao?”.
“Pauline...”.
“Chúng tôi không làm hại nó! Chúng tôi không phải... là một gia đình tồi tệ! Hãy đi hỏi Lindy xem! Hãy cho nó ra đây nói chuyện với chúng tôi một giây! Anh không có quyền ngăn cách nó với chúng tôi!”.
Người đàn ông lùi một bước, chỉ vào căn phòng sau lưng - đó là sảnh lớn khi vào cửa, chỉ có chiếc bàn tròn nhỏ với tấm khăn trải bàn, chẳng còn thứ gì khác. “Chị có thấy nơi hàng rào không?”. Anh hỏi Pauline với giọng ôn tồn nhất, rồi chỉ cậu thanh niên. “Tarragon đứng ở đó, chỉ cần cậu ấy muốn, cậu ấy có thể rời khỏi đây bất cứ lúc nào. Tarragon, cậu có muốn rời khỏi đây không?”.
Cậu thanh niên lùi về sau một bước, lắc đầu.
Michael nói: “Rất hiển nhiên, chúng tôi không hề có ý trách anh”. Anh cảm nhận được Pauline đang lườm mình, nhưng anh luôn nhìn người đàn ông đó. “Nhưng, anh hãy vào nhắn với con gái tôi là chúng tôi đến thăm, rồi xem ý nó thế nào, hãy cho nó cơ hội chọn lựa”.
“Cô ấy đã chọn lựa rồi”, người đàn ông đó nói, vẫn rất ôn tồn, “cô ấy đã quyết định khi đến chỗ chúng tôi”.
Pauline phát ra âm thanh gì đó trong cổ họng. Michael nói: “Được thôi!” anh có vẻ căng thẳng. “Vậy, trình tự cụ thể là gì?”, anh hỏi, “Khi... nó tỉnh táo, các anh sẽ thả nó ra chứ? Ở đây có thời gian thăm nom cố định không?”.
“Tôi sẽ ‘thả’ họ ra, như anh nói đấy, khi họ quyết định làm lại cuộc đời”, người đàn ông khẳng định, “khi họ mở cánh cửa phía trước, một lần nữa họ được sinh ra trên thế giới này”.
“Ôi, hỡi Thượng đế!”, Pauline gào to.
Người đàn ông nhìn cô với ánh mắt trìu mến, sau đó quay sang nói với Michael: “Anh chị có thể gọi điện đến hỏi xem Serenity sống thế nào. Chỗ chúng tôi chẳng có bí mật gì, anh chị có thể tìm được địa chỉ của chúng tôi trong sổ danh bạ: Viện điều dưỡng Nineteen Fleet Street. Tôi tên Becoming.
Lần thứ hai trong ngày, Michael cảm thấy ngột ngạt, khó chịu.
Quán trọ mà bà chủ nhà giới thiệu cho họ cách Viện điều dưỡng Nineteen Fleet Street chỉ ba con phố, hơn nữa cách nhà bà cũng chỉ hai con phố. Nhưng tiếc rằng, không khí ở đó làm người ta thấy rất chán nản. Nó cho ta cảm giác thê lương vào buổi sáng. Trên vỉa hè có mấy kẻ lang thang; giấy rác làm tắc nghẽn rãnh nước; một đứa trẻ trông rất đói xin tiền họ; một người đàn ông già mặc áo thụng ngồi trước cửa vẻ thểu não; tủ kính cửa hiệu thực phẩm bám đầy bụi bặm: áo Mexico rộng thùng thình, dép Trung Quốc, đồng hồ, từng bó trầm hương, đủ các loại hộp thuốc lá và tẩu thuốc nhỏ, còn có ống điếu Trung Đông.
Michael thấy tất cả những điều này, anh tò mò tìm hiểu còn Pauline chỉ lo vung tay rảo bước nhanh về phía trước. Cô nhắc hai lần bảo mình rất lạnh, nhưng anh chẳng nói năng gì, cuối cùng cô bảo anh dừng lại, lấy chiếc áo len mang theo ra. Quả thật rất lạnh, đấy chính là thời tiết ở San Francisco. “Giờ anh hiểu rồi chứ, em mang theo hành lý bên mình là đúng”. Cô nói thế với anh khi duỗi tay mặc tay áo vào.
Michael thở dài. Cô hỏi: “Sao thế?”.
“Pauline, chúng ta mang theo hành lý vì em nằng nặc đòi đến Nineteen Fleet Street trước”.
“Anh trách em được sao?”.
“Anh không trách em, anh chỉ nói...”.
“Em muốn gặp con!” Pauline khóc òa lên, “Em đã chờ bao nhiêu năm rồi, em đã bay từ bên kia đại lục đến đây, sau anh còn bảo em phải chờ, chỉ vì anh muốn cất hành lý vào căn phòng mà chúng ta đã thuê!”.
“Pau...”.
“Hơn nữa lúc chúng ta đến đây, anh đã làm những gì? Đứng đó như con rùa thụt cổ. ‘Ồ, chào anh, rất xin lỗi,’ anh nói, ‘các anh không thể thả nó ra sao? Các anh không thể để chúng tôi gặp nó sao? Thưa anh. Anh muốn sao cũng được’”.
“Con bé cũng 25 tuổi rồi, Pauline. Tự nó muốn vào đó, theo anh biết, quy tắc của họ là...”.
“Ồ, Quy tắc! Sao em phải bận tâm mấy thứ đó chứ? Em là mẹ nó, những quy tắc đó làm em tan nát cõi lòng! Nó giết chết em! Ăn tươi nuốt sống em! Em chịu hết nổi rồi!”.
Nước mắt chảy dọc theo gò má của Pauline. Cô xoay người, lại cởi áo len ra, lưng cô ưỡn thẳng, vẻ rất phẫn nộ. Michael cầm lấy vali và không nói gì với cô.
Anh có thể nói được gì kia chứ?
Ở góc đường, có một đôi vợ chồng rất giống họ, ngoài 40, người đàn ông mặc áo thể dục, người phụ nữ mặc váy ngắn, họ đang đứng đó ngắm nhìn tờ áp phích sắp rơi khỏi tường. Trên cổ người đàn ông có đeo một chiếc máy ảnh. Bỗng nhiên Michael thấy anh ta rất giống mình lúc đi họp phụ huynh vào mùa thu năm ngoái cho Karen: trong một đám đông các ông già bà lão bị con mình bỏ lại phía sau, anh là người duy nhất gắng hết sức sánh bước bên con.
Pauline mặc chiếc váy cực ngắn trông thật buồn cười, kiểu tóc vàng tựa như lông vũ của cô giống như hai cô gái trẻ đang băng qua đường phía trước họ.
Anh đang nghĩ, đôi vợ chồng mang theo máy ảnh đó có phải cũng đến tìm đứa con lạc mất không? Nhưng trông không phải thế, hình như họ đến đây để nghỉ mát. Nếu họ có cùng cảm giác như anh và Pauline sẽ chẳng còn tâm trạng đâu mà chụp ảnh.
Michael đuổi theo Pauline ven đường phía trước, vỗ nhẹ tay vào lưng cô. “Phía bên trái chắc là quán trọ”. Anh nói.
Đây là một kiến trúc cũ nát thời nữ hoàng Victoria, dưới chân là bậc thang gỗ màu xám, một tờ giấy viết tay treo trên chuông cửa: Chuông hỏng! Người phụ nữ ra mở cửa cho họ trông rất mệt mỏi. Cô ngoài 30, nhưng da chảy xệ, mặc bộ đồ bộ ở nhà. Từ sau khi chuyển đi khỏi nhà cũ, Michael đã không còn thấy bộ trang phục này nữa.
“Tôi là Michael Anton”. Anh nói với người phụ nữ. Cô ta vẫn im lặng, ra hiệu cho họ đến căn phòng phía sau. Căn phòng cuối cùng cửa mở, bên trong có hai chiếc giường gỗ hẹp áp sát vào nhau, trên một chiếc tủ thấp xập xệ để một chiếc ti vi cổ lỗ sĩ. “Nhà vệ sinh ở đầu kia hành lang”, người phụ nữ nói, “trả tiền trước, không nhận chi phiếu. Chín đô la chẵn”. Người phụ nữ đưa tay ra, Michael đếm tiền đưa cô ấy. “Nếu hai người ra ngoài, nhớ cầm theo chìa khóa trên ti vi”. Nói xong, cô đi khỏi.
Ra ngoài ư? Điều Michael muốn làm nhất bây giờ là ngả lưng xuống chiếc giường gần nhất, dù chưa tới buổi trưa. Anh quá mệt mỏi, thế nên căn phòng lạnh lẽo trơ trọi này cũng tựa như thiên đường với anh. Nhưng Pauline lại nói: “Trước khi chúng ta ra ngoài, anh có muốn đi vệ sinh không?”.
“Đi đâu chứ?”.
“Michael! Chúng ta phải ra ngoài tìm đứa cháu ngoại!”. “Bây giờ sao?”, anh hỏi.
“Nó đang chờ chúng ta đấy! Lẽ nào anh không muốn gặp nó sao?”.
Không muốn, quả thật anh chẳng muốn chút nào. Đứa trẻ này đến quá đột ngột. Phần lớn ông bà đều có 9 tháng chuẩn bị, hay ít ra là lời cầu hôn, lễ đính hôn và hôn lễ chính thức của con gái họ... Thế mà Pauline quá hăm hở thời khắc này, cô lau nước mắt, bỗng nhiên mặt cô tràn đầy sức sống. Thế là anh nói: “Được rồi, em yêu”.
Khi ra khỏi quán trọ, họ có sự bất đồng ý kiến về việc nên đi theo hướng nào. Michael nói chắc như đinh đóng cột rằng đường Height ở bên phải họ. Anh hầu như đã nắm rõ bản đồ. Nhưng Pauline lại cho là không phải, chủ nhà bảo với cô là bên trái. Thế nên họ đứng trên bậc thang trong khi cô tìm trong túi xách mảnh giấy mình đã viết. Cô xổ hết xách tay ra, mỹ phẩm, hộp mắt kính... còn cả một chiếc xe cứu hỏa đồ chơi màu đỏ để trong một hộp giấy. Michael vờ như không thấy, nhưng khi cô nói: “Đúng rồi, rẽ phải. Lẽ nào em không nói rẽ phải sao?” anh bảo: “Dĩ nhiên thế, em yêu”, sau đó vịn tay cô khi bước xuống bậc thang.
Không khí lan tỏa mùi cay nồng của ớt. Nó làm Michael nhớ đến bữa sáng trên máy bay - chiếc bánh ngọt trông chẳng ngon lành và lon nước cam ướp lạnh. “Này, Pauline?”, anh nói, “Có lẽ chúng ta nên đưa thằng bé ra ngoài ăn hot-dog”.
“Ý hay đó”.
“Chắc chủ nhà bằng lòng cho nó rời khỏi vài giờ”.
“Vài giờ?”, Pauline hỏi. Cô dừng lại nhìn anh. “Anh nói gì thế? Chăm sóc nó không phải trách nhiệm của chủ nhà, mà là trách nhiệm của anh và em”.
“Đúng thế, nhưng...”.
“Michael, chúng ta phải chăm sóc nó suốt đời. Chúng ta phải thu dọn hành lý cho nó, đưa nó về với chúng ta, vì chúng ta là tất cả của nó”.
Dĩ nhiên Michael cũng biết thế, nhưng anh vẫn sẵn sàng. Anh nói: “Từ giờ chúng ta bắt đầu chăm sóc nó sao?”.
“Anh nghĩ gì thế?”.
“Chỉ là... anh biết, anh đang nghĩ, chúng ta nên chờ đưa cả Lindy về”.
“Nhưng phải chờ đến bao giờ?” Pauline hỏi, “Chúng ta không thể để đứa trẻ trong căn phòng trống chẳng ai chăm sóc! Chúng ta phải đón nó đi ngay. Nhưng sau đó thì sao... em không biết, em không biết nữa”. Họ tiếp tục tiến về phía trước. “Người đàn ông ở Viện điều dưỡng chẳng tiết lộ điều gì cả, rốt cuộc Lindy phải ở lại đó bao lâu chứ”.
“Tối nay anh sẽ gọi điện cho anh ta”, Michael nói. Anh đã quyết định làm thế, Pauline nói đúng: anh bỏ cuộc quá sớm. “Baltimore có nền y học tiên tiến nhất! Nếu anh ta vẫn không chịu cho chúng ta gặp nó...”.
“Đến nơi rồi”. Pauline nói.
Cô đang nhìn một căn nhà cũ nát hơn xung quanh, nhưng trước đây chắc chắn nó là tốt nhất. Trên hai cánh cửa trước có khảm khung kính hình bầu dục, phía trên một bên là tấm kính vân xéo bị ăn mòn, còn bên kia là tấm bìa cứng. Lindy từng đi trên những bậc thang này, vòng qua bậc tam cấp bị hỏng. Nó cũng từng mở cánh cửa bị hỏng khóa này. Trên tấm ván gỗ có một cái lỗ, tay của nó cũng từng đặt trên cái lỗ này.
“Đây chính là số nhà bà ấy nói với em, đúng rồi”. Pauline nói, hiển nhiên cô rất mong không phải căn nhà này.
Họ bước lên bậc thang, Michael nhấn vào cái nút cao su đã hỏng ở bên trái.
“Trông em thế nào?”, Pauline hỏi anh. “Được lắm, em yêu”.
Anh lấy làm lạ, chỉ gặp một đứa bé thôi, cô ấy cũng đâu cần sốt sắng thế.
Một cô gái tóc rất mù ra mở cửa, ngẩng đầu nhìn họ. Cô mặc một chiếc đầm carô màu xanh, tay áo rất dài, đầm thì dài đến mắt cá chân, đó là một bộ trang phục rất xưa cũ. Pauline hỏi: “Destiny đúng không?”.
“Vâng?”.
“Xin chào! Tôi là Pauline, đây là chồng tôi Michael”. “Ồ, hay quá”, cô gái nói, “cuối cùng ông bà cũng đến”. Pauline vào nhà, nhưng Michael thấy cần một ít thời gian thích ứng. Trong tưởng tượng của anh, “nữ chủ nhà”
khác hẳn với những gì anh thấy trước mắt.
“Nếu có cách khác, tôi không muốn gọi điện cho người ở tổ chức phúc lợi xã hội”. Destiny nói khẽ với Pauline.
“Tổ chức phúc lợi xã hội ư!”.
“Tôi chẳng tin tưởng họ chút nào, nhưng tôi biết mình phải làm gì đó. Thằng bé chỉ nhốt mình trong phòng, không chịu ra ngoài. Thỉnh thoảng tôi nghe nó rón rén đi vệ sinh, nhưng tôi vừa bước lên gác, nó liền chạy vội vào phòng đóng cửa lại”.
Cô vừa nói vừa dẫn họ lên gác, giấy dán tường màu vàng cuốn trên tường. Trong phòng có mùi chuột, tay vịn cầu thang trông nhầy nhậy, Michael ra sức né tránh.
“Tôi có mang cơm cho nó, nhưng tôi không nhìn lúc nó ăn”, Destiny nói, “dĩ nhiên, tôi cũng không biết đứa trẻ độ tuổi này nên thế nào. Tôi nói: ‘Này! Cháu có muốn ăn đậu cô-ve không?’, nhưng nó chỉ nhìn tôi chằm chằm, thế nên tôi để bát xuống rồi ra ngoài. Quả thật tôi nên cho nó chút không gian, đúng không?”.
Lên đến gác, Pauline xoay người, nhướng đôi lông mày rõ nét của mình, hai chiếc hoa tai màu vàng đồng gần như trĩu xuống đến vai.
“Thằng bé tên gì?”, Pauline hỏi.
“Pagan”.
“Pagan?”, Michael và Pauline cùng lên tiếng.
Cô nhún vai, hoa tai lắc lư. “Tôi có thể cho ông bà biết điều gì?”, cô nói, “Mẹ nó vô trách nhiệm quá”.
Cô lại quay người, đi vào đại sảnh tối mờ, sau khi đi qua hai cánh cửa khép kín, cô dừng lại ở cánh cửa thứ ba, gõ lên đó hai cái, sau đó gọi: “Có ai ở nhà không?”.
Không có tiếng trả lời.
“Vậy vào thôi!”, cô xoay nắm đấm cửa.
Căn phòng chẳng lớn hơn phòng chứa đồ bao nhiêu, có một cửa sổ âm u, trên bức tường trắng còn có những vệt nước. Trên sàn nhà trống rỗng có tấm đệm, đống chăn và quần áo để lộn xộn. Ngay khi Michael quan sát căn phòng này, một chiếc áo nhúc nhích và có một cậu bé ngồi dậy ở đó, chớp mắt nhìn họ, rồi nó vội chui vào một đầu của tấm đệm.
“Chào cháu, Pagan”. Pauline nói dịu dàng.
Cậu bé nhìn cô không nói gì. Mắt nó màu nâu, long lanh, tóc màu đen, nhưng rối bù. Mắt cậu bé âm u, vẻ chán đời, nó chừng 3 tuổi.
“Bà là bà ngoại cháu!”, Pauline nói, “Bà là mẹ của mẹ cháu. Còn đây là ông ngoại! Ông bà tới từ Baltimore, bang Maryland, ông bà đến thăm cháu đấy!”.
Cậu bé vẫn không nói gì.
“Tôi thu dọn đồ cho nó”, Destiny nói, “nó cũng chẳng nhiều quần áo lắm”. Quả thật cô muốn họ đưa thằng bé đi, Michael biết bây giờ anh nên đón nhận điều này, nhưng anh vẫn thấy rất bất ngờ. Anh nhìn Destiny đi qua đi lại, chỗ này lấy chiếc áo thun, chỗ kia lấy chiếc áo len, rồi đặt những thứ này lên một cánh tay. Khi cô đến bên tấm đệm, Pagan co rúm người lại, ôm lấy một chiếc chăn nhỏ. Trang phục của thằng bé truyền thống đến bất ngờ. Áo thể dục đỏ sọc vằn, quần bò, giày thể thao đỏ, nhưng đều rất bẩn, cả móng tay của nó cũng đen ngòm. Vì tấm đệm to bằng cả mặt tường, Michael chẳng còn cách nào, đành lùi đến giữa phòng. Đứa bé tỏ ra sợ hãi, đứng ở đó mà chẳng có chút khả năng phòng bị, anh thấy đau lòng vô cùng. Theo bản năng, anh lùi về sau, gần như ra đến hành lang. Nhưng Pauline lại chạy đến trước mặt. “Cháu yêu!”, cô nói, sau đó quỳ trước mặt đứa bé choàng tay ôm lấy nó, “Ôi, cháu yêu của bà, ôi, đứa cháu tội nghiệp, đáng yêu của bà!”.
Pagan đứng sững người một lúc trong vòng tay của Pauline, sau đó vùi đầu vào vai cô rồi dùng một bàn tay nhỏ dơ bẩn vỗ nhẹ lên lưng Pauline.
Michael gần như muốn khóc, đành quay mặt sang hướng khác.
“Tôi nghĩ nên cho ông bà một cái túi đựng đồ đạc của thằng bé”. Destiny nói. Cô bỏ tất cả những gì tìm được vào trong đó, phần lớn đều là màu xám chứ không phải màu trắng. “Mẹ nó lấy chiếc túi duy nhất đi rồi. Sau khi cô ấy đi, tôi giúp cô ấy thu dọn đồ đạc, rồi nhờ chồng tôi mang đến Viện điều dưỡng”.
Destiny có chồng? Dù thế nào, Michael cũng không ngờ. Anh nhìn cô mở một tấm trải giường ra, khom người lấy một chiếc vớ đỏ. “Cho hỏi”, Michael bỗng nhiên tràn đầy hy vọng, “cô có biết, Lindy, con gái chúng tôi, nó có kết hôn không?”.
“Tôi không nghe nói chuyện này”. “Tôi chỉ muốn biết... bố Pagan”.
“Ồ, ông hiểu chuyện gì đã xảy ra mà”.
Nhưng Michael không biết, anh nghĩ rằng nếu cô có thể giải thích thì hay quá. Pauline quỳ dưới đất khẽ nói, “Ổn rồi, mọi chuyện ổn cả rồi, cháu yêu, mọi chuyện sẽ tốt thôi”.
Michael nói: “Cô có thể cho chúng tôi biết thêm chuyện xảy ra ở đây không?”.
Destiny liếc nhìn Pagan một cái, “Tôi thấy giờ không tiện nói chuyện này”.
“Ồ, được”.
“Dĩ nhiên, dù thế, cô ấy cũng ở một nơi rất tốt. Viện điều dưỡng đó quả rất tuyệt, cô ấy rất may mắn”.
Michael nói: “Chuyện thế này, chúng tôi định đưa con gái về nhà. Khi chúng tô