← Quay lại trang sách

Những Dấu Vết Của Người Cổ Đại

Ngày 27 Tháng Ba, 2001 Vịnh Okuma, Nam Cực

Thuyền trưởng Daniel Gillespie đứng trong đài chỉ huy bằng kính rộng lớn của chiếc tàu Polar Storm (Bão Địa Cực) và nhìn qua cái ống dòm dõi về phía những khối băng bao quanh chiếc tàu phá băng có trọng tải tám ngàn tấn. Ông vừa quan sát khối băng vừa toan tính trong óc tìm một lối đi dễ dàng nhất để chiếc tàu Polar Storm đi tới. Khối băng đã sớm hình thành vào mùa thu trong biển Ross. Tại một vài nơi, nó đã dày tới hai bộ với những chóp nhọn cao tới ba bộ.

Chiếc tàu run rẩy dưới chân ông trong lúc cái mũi có sừng khổng lồ của nó nghiền nát lớp băng rồi trồi lên bên trên mặt tuyết trắng. Sau đó, trọng lượng nửa thân trước của chiếc tàu lại hạ xuống và những lưỡi cưa tròn bằng thép trước mũi tàu lại ngấu nghiến cắt khối băng. Tiến trình đó cứ lặp đi lặp lại cho tới khi một vùng chừng vài dặm cách bờ được khai quang.

Polar Storm vừa là một tàu phá băng vừa là một tàu nghiên cứu. Theo những tài liệu hàng hải, nó là một chiếc tàu cũ được hạ thủy từ hai mươi năm trước, vào năm 1981. Nó cũng được xem là một trong những tàu phá băng nhỏ nhất vì chỉ trọng tải tám ngàn tấn, với chiều dài một trăm bốn mươi lăm bộ và rộng hai mươi bảy bộ. Những khả năng của nó gồm những công việc thuộc về hải dương học, về dự báo thời tiết khí tượng, về sinh vật học và nghiên cứu về bâng tại địa cực, và nó có khả năng phá vỡ những khối băng dày ít nhất ba bộ.

Evie Tan, một nhà văn trẻ, đã lên tàu Polar Storm, khi nó dừng lại tại cảng Montevides của Uruguay trên đường tới Nam Cực của nó, đang ngồi trong một cái ghế bành và viết vào một cuôn sổ ghi chép. Cô còn là một nhà văn về khoa học và kỹ thuật, đồng thời là một nhà nhiếp ảnh. Evie đã lên tàu để thực hiện một phóng sự cho một tạp chí khoa học quốc gia. Cô là một phụ nữ có thân hình nhỏ nhắn với mái tóc màu đen, dài và mịn như lụa, được sinh ra và lớn lên tại Philippines. Cô ngước nhìn Thuyền trưởng Gillespie và ngắm ông phá khối băng trước mặt, trước khi đặt câu hỏi với ông ta.

“Kế hoạch của ông là đổ bộ một toán các nhà khoa học lên mặt khối băng để họ nghiên cứu lớp băng trên biển phải không?”

Ông Gillespie hạ cái ống dòm xuống và gật đầu. “Đó là một công việc định kỳ. Ba lần trong một ngày Nam Cực. Các nhà băng học đi lên lớp băng để thu nhặt những vật mẫu, và sau khi khảo sát những vật mẫu đó trong phòng thí nghiệm đặt trên tàu, họ sẽ trình bày quan điểm của mình. Họ cũng báo cáo những tính chất vật lý của băng và nước biển khi chúng tôi đi từ vùng này đến vùng khác”.

“Họ có khám phá điều gì đặc biệt không?”

“Joel Rogers, trưởng nhóm nghiên cứu, có thể giải thích điều đó tốt hơn tôi. Cái đích đầu tiên của dự án là đánh giá sự tác động đằng sau dòng chảy có xu hướng làm ấm lên những khối băng quanh địa cực co lại”.

“Đó là hiện tượng băng càng ngày càng giảm đi phải không?”

“Trong mùa thu của Nam Cực, từ Tháng Ba đến Tháng Năm, đại dương chung quanh địa cực bắt đầu đông. Một khi khối băng từ đất liền trải rộng, sẽ tạo ra một vành đai lớn gấp hai lần châu Úc. Nhưng lúc này biển băng đang co lại, không còn dày và trải rộng như trước kia. Những mùa đông Nam Cực không còn lạnh như những năm 1950 và 60. Vì xu hướng ấm lên, sự liên kết chủ yếu giữa các vùng trong biển Nam Cực đang bị phá vỡ”.

“Bắt đầu là những loại tảo đơn bào sống tại mép dưới khối băng”, Evie nhận xét, cô tỏ ra nắm vững sự việc.

“Đúng chuyên môn của cô rồi đấy”, ông Gillespie mỉm cười. “Không còn tảo để ăn, các loài giáp xác nhỏ cũng không sống được, đến phiên những loài tép nhỏ trở thành thức ăn của nhiều loài động vật và cá trong những vũng nước tại nam bán cầu, từ loài chim cánh cụt cho tới cá voi và động vật vừa sống dưới nước vừa sống trên cạn”.

“Ông muốn nói tới loài hải cẩu?”

“Đúng thế”.

Evie nhìn lên Vịnh Okuma chia làm hai khu vực là dải đá ngầm Ross Ice và bán đảo Edward VII. “Dãy núi chạy dài về phía nam”, cô nói, “tên là gì nhỉ?”

“Rặng Rockefeller”, ông Gillespie trả lời. “Họ đã thả neo cạnh ngọn núi Frazier tại điểm cuối này và ngọn Nilson đằng kia”.

“Những ngọn núi này đẹp thật”, Evie nói trong lúc ngắm những đỉnh núi tuyết phủ lóng lánh dưới ánh mặt trời, “ông cho tôi mượn cặp ống dòm của ông nhé?”

“Rất sẵn lòng”.

Evie điều chỉnh tiêu cự cái ống dòm về phía những tòa nhà cao tầng rộng lớn nằm quanh một kiến trúc đồ sộ giống như một tòa tháp cách đó hai dặm về hướng nam trong Vịnh Okuma. Cô có thể phân biệt một phi trường nằm sau những tòa nhà, và một cầu tàu dẫn vào vịnh. Một chiếc tàu chở hàng lớn thả neo tại cầu tàu và một cần trục đang dỡ hàng khỏi chiếc tàu. “Tại chân núi Frazier có một trạm nghiên cứu phải không?”

Ông Gillespie nhìn về phía hướng nhắm của chiếc ống dòm, “Không, đó là một khu khai mỏ do một liên hiệp xí nghiệp đặt trụ sở tại Argentina sở hữu và khai thác. Họ đang khai thác những khoáng sản quí khác từ dưới biển”.

Cô hạ cái ống dòm xuống và nhìn ông thuyền trưởng. “Tôi không nghĩ công việc này đạt hiệu quả kinh tế cao”.

Ông Gillespie lắc đầu, “Điều này tôi đã được Bob Maris cho biết, ông ta là một nhà địa chất học tại địa phương, họ đã phát triển một tiến trình mới để tìm vàng và những khoáng sản quí khác từ dưới biển”.

“Tôi chưa nghe chuyện buồn cười như thế bao giờ”.

“Việc khai thác của họ hoàn toàn bí mật. Khi chúng tôi tới gần nơi đó, lập tức có một xuồng an ninh của họ lao ra và đuổi chúng tôi đi. Có dư luận đồn đoán rằng họ làm công việc đó qua một nghiên cứu khoa học mới gọi là kỹ thuật nano”.

“Tại sao lại hoạt động tại một nơi xa xôi như Nam Cực chứ? Tại sao không phải là một bờ biển hoặc một thành phố cảng để việc chuyên chở dễ dàng hơn?”

“Theo lời ông Maris, nước biển lạnh sẽ cô đặc muối nên muối lắng xuống sâu hơn. Quá trình khai thác trở nên hiệu quả hơn..”. Ông thuyền trưởng ngừng nói và theo dõi khối băng phía trước mũi tàu. “Tôi xin lỗi, thưa cô Tan, nhưng chúng tôi phải đối phó với một khối băng trôi lớn phía trước mặt”.

Tảng băng trôi nhô cao khỏi khối băng bằng phẳng như một tòa lâu đài lẻ loi được đắp một tấm vải trắng. Những vách của nó dựng đứng vươn cao hơn một trăm bộ so với mặt biển. Màu trắng lấp lánh dưới một mặt trời tinh khiết chói lọi và một bầu trời với màu xanh trong vắt. Tảng băng có vẻ thô thiển và làm giảm vẻ đẹp dành cho con người, các động vật hoặc thực vật có rễ. Chiếc tàu Polar Storm tiến lại gần tảng băng trôi bên mép phía tây, và ông Gillespie ra lệnh cho viên hoa tiêu sử dụng hệ thống Kiểm soát tự động của chiếc tàu khi nó chạy gần chỗ nhô ra của khối băng. Viên hoa tiêu khéo léo vận hành bộ phận kiểm soát điện tử trên một bảng điều khiển lớn và đưa chiếc tàu phá băng từ từ áp sát khối băng theo một góc bảy mươi lăm độ hướng vào phía cảng, theo dõi những âm thanh dội lại từ dưới nước do sự va chạm giữa chiếc tàu và những chỗ nhô ra của tảng băng. Thân tàu chắc khỏe của chiếc Polar Storm được thiết kế để chịu đựng những cú va chạm mạnh với những khối băng trôi cứng rắn, nhưng ông Gillespie thấy chẳng có lý do gì để gây ra sự cố, dù nhỏ nhất, làm hại đến lớp vỏ bằng thép của chiếc tàu phá băng.

Ông cho chiếc tàu men theo mép, từ lúc nó còn cách mép khối băng khoảng hai trăm năm mươi mét, một khoảng cách an toàn nhưng vẫn đủ gần để đoàn thủy thủ và các nhà khoa học trên boong có thể nhìn lên những vách của khối băng nhô cao như những tòa tháp. Đó là một quang cảnh lạ lùng và thật lộng lẫy. Những vách băng trông như những cọc hàng rào trượt qua khi chiếc tàu đi vòng khối băng khổng lồ và rẽ vào khe hở của nó.

Bất chợt, một chiếc tàu khác hiện ra trong tầm nhìn của họ từ phía sau khối băng. Ông Gillespie ngạc nhiên khi nhận ra chiếc tàu đang đến gần là một tiềm thủy đỉnh. Chiếc tàu lặn này đã trồi lên qua khe nứt rộng trong khối băng và chạy ngang qua mũi tàu đồ sộ của chiếc tàu phá băng từ mạn trái tới mạn phải.

Viên hoa tiêu hành động trước khi lệnh của thuyền trưởng thoát ra khỏi đài chỉ huy. Anh ta nắm vững tình thế, phán đoán vận tốc chiếc tàu lặn, và tăng hết vận tốc của những động cơ diesel khổng lồ bên mạn trái tàu phá băng. Đó là một phản ứng khôn ngoan. Thay vì đổi chiều động cơ trong một nỗ lực vô ích nhằm giảm đà lao tới của chiếc tàu phá băng to lớn, anh ta vẫn để động cơ bên mạn trái đẩy con tàu tới với một nửa vận tốc. Với một động cơ đẩy chiếc tàu tới và một động cơ kéo nó lùi lại, chiếc tàu bắt đầu xoay nhanh hơn việc điều khiển bằng bánh lái. Mọi người trong đài chỉ huy đứng im như bị thôi miên khi mũi tàu chậm chạp tạo ra một góc lệch từ thân tàu lặn tới đường rẽ nước sau đuôi nó.

Không có thời giờ để cảnh báo hoặc thông tin giữa hai chiếc tàu, ông Gillespie mở cái loa và quát qua ống nói để đoàn thủy thủ và các nhà khoa học chuẩn bị đối phó một sự va đụng. Không khí căng thẳng bao trùm trong đài chỉ huy.

“Nào, bé con”, viên hoa tiêu khích lệ, “xoay đi, xoay đi mà!”

Đôi mắt Evie đờ ra một lúc trước khi ý thức nghề nghiệp và công việc trong đầu cô bắt đầu hoạt động. Cô nhanh chóng lấy cái máy ảnh từ cái bao của nó, điều chỉnh tiêu cự ống kính và khởi sự bấm ảnh. Qua ống kính lấy hình từ xa, cô không thấy bóng một thủy thủ nào trên boong chiếc tàu lặn, cũng không có sĩ quan nào đứng trong tháp quan sát. Cô dừng theo dõi để điều chỉnh lại tiêu cự ống kính khi nhìn thấy mũi chiếc tàu lặn trượt dưới khối băng lúc nó bắt đầu lặn xuống.

Hai chiếc tàu đã rất gần nhau. Gillespie tin chắc mũi tàu phá băng sẽ đâm vào thân chiếc tàu lặn. Nhưng vì tốc độ quá nhanh của chiếc tàu lặn và phản ứng kịp thời của viên hoa tiêu đã tránh được thảm kịch xảy ra chỉ trong gang tấc.

Ông Gillespie chạy ra khỏi đài chỉ huy về phía mạn phải và nhìn xuống. Chiếc tàu lặn vừa chìm khỏi mặt nước trong lúc mũi chiếc tàu phá băng trượt qua trên thân sau của nó, bánh lái và chân vịt chiếc tàu phá băng chỉ cách chiếc tàu ngầm một khoảng bằng chiều dài chiếc bàn ăn. Ông Gillespie không thể tin hai chiếc tàu không đâm vào nhau. Chiếc tàu ngầm bí mật biến mất, chỉ để lại những gợn sóng trên mặt nước, như thể nó chưa bao giờ xuất hiện ở đó.

“Lạy Chúa tôi, sao chúng đến sát như thế nhỉ?” viên hoa tiêu thì thầm và thở ra nhẹ nhõm đầy lòng biết ơn.

“Một chiếc tiềm thủy đỉnh”, Evie nói với giọng mơ hồ lúc cô hạ thấp cái máy ảnh xuống. “Nó từ đâu đến? Nó thuộc bộ phận nào của hải quân?”

“Tôi không thấy dấu hiệu nhận diện nào cả”, viên hoa tiêu trả lời. “Trông nó hoàn toàn không giống bất kỳ tàu lặn nào tôi từng trông thấy”.

Sĩ quan thứ nhất của tàu phá băng, Jack Bushey chạy vào đài chỉ huy. “Chuyện gì đã xảy ra, thưa Thuyền trưởng?”

“Suýt đụng một tàu ngầm”.

“Một tàu ngầm nguyên tử trong vịnh Marguerite này? ông không đùa chứ?”

“Thuyền trưởng Gillespie không đùa đâu”, Evie nói. “Tôi đã chụp được ảnh để chứng tỏ điều đó”.

“Không phải một tàu ngầm nguyên tử”, ông Gillespie chậm rãi nói.

“Theo vẻ bề ngoài, nó là một tàu ngầm rất cũ”, viên hoa tiêu nói vừa nhìn chằm chằm hai bàn tay, lần đầu tiên nhận thấy chúng vẫn còn run.

“Cậu trông đài chỉ huy”, ông Gillespie ra lệnh cho Bushey. “Hãy giữ cho mũi tàu bên mạn phải cách đỉnh khối băng đó khoảng một dặm trên lộ trình hướng đến nó. Chúng ta sẽ thả những nhà khoa học xuống nơi đó. Tôi về phòng của mình”.

Evie và Jack Bushey thấy rõ vẻ bối rối và xa cách hiện ra trên nét mặt ông thuyền trưởng. Họ nhìn theo lúc ông ta đi xuống cầu thang dẫn tới hành lang trên boong phía dưới. Ông Gillespie mở cửa cabin dành riêng cho ông và bước vào. Ông là một người được sinh ra cho biển cả và là một người say mê những câu chuyện về biển. Trên những kệ gắn tường trong phòng ông chất đầy sách và tài liệu về ngành hàng hải. Cặp mắt ông theo dõi những tựa sách và dừng lại tại một cuốn sách cũ nói về tàu biển.

Ông ngồi xuống cái ghế bọc da dùng để đọc sách và lật những trang cuốn sách vừa lấy từ trên kệ xuống, dừng lại ở một bức ảnh nằm giữa cuốn sách. Bức ảnh cho thấy một chiếc tiềm thủy đỉnh to lớn đang nổi trên mặt nước gần một bờ biển lởm chởm đá. Những dòng chữ dưới bức ảnh như sau:

Chỉ có tấm ảnh của chiếc tàu ngầm U-2015, một trong hai chiếc tàu được biết đã hoạt động trong thế chiến II. Đây là một chiếc tàu vận tốc nhanh, có thể lặn rất lâu dưới nước và đi quanh nửa vòng Trái Đất trước khi trồi lên để lấy nhiên liệu.

Những dòng chữ tiếp tục mô tả chiếc U-2015 được thấy xuất hiện lần chót ngoài khơi bờ biển Đan Mạch và biến mất tại một nơi nào đó ở Nam Cực, và được xem như mất tích.

Ông Gillespie không thể tin những gì mắt ông vừa đọc được. Có vẻ hết sức vô lý, nhưng ông biết đó là sự thực. Chiếc tàu ngầm lạ không một dấu hiệu nhận diện mà tàu Polar Storm suýt đâm phải trong vịnh là một tàu ngầm của Đức Quốc xã, từng hoạt động trong một cuộc chiến đã kết thúc từ năm mươi năm trước.

Sau một cú gọi đường dài mời họp với Đô đốc Sandecker, chỉ huy trưởng NUMA; và ông Francis Regsdale, giám đốc mới được chỉ định của FBI, họ đồng ý để Pitt, Giordino và Pat O’Connell bay tới Washington D.c. trả lời những chất vấn về một chuỗi sự cố khác thường đã xảy ra tại khu mỏ Paradise. Những nhân viên FBI được phái đến nhà Pat gần Đại học Pennsylvania bang Philadelphia để đưa con gái cô đến một nơi an toàn tại ngoại ô Washington, ở đây mẹ con họ sẽ nhanh chóng đoàn tụ. Nhân viên FBI cũng bí mật đến Thị trấn Telluride, hối thúc ông Luiz và bà Lisa Marquez cùng hai con gái họ đến một nơi ở mới kín đáo tại Hawaii.

Được những phụ tá lịch thiệp và nhã nhặn của ông Cảnh sát trưởng Eagan hộ tống, nhóm ba người - Pitt, Giordino và Pat O’Connell — lên một máy bay phản lực của NUMA hướng về thủ đô. Lúc chiếc máy bay Cessna Citation Ultra V sơn màu ngọc lam nghiêng cánh trên những ngọn núi tuyết phủ của ngọn San Juan và bay thẳng về hướng đông bắc, Pat ngồi thư giãn trong cái ghế bọc da, hai bàn tay cô nắm bàn tay Pitt.

“Ông chắc chắn con gái tôi an toàn chứ?”

Anh mỉm cười, nhẹ nhàng siết bàn tay cô. “Cháu bé đang được nhân viên FBI bảo vệ. Chỉ vài giờ nữa, cô sẽ được ôm hôn cháu trong vòng tay mà”.

“Tôi không thể hình dung chúng tôi sẽ sống như những con thú bị săn đuổi trong phần đời còn lại của mình”.

“Không có chuyện đó đâu”, Pitt trấn an cô. “Một khi cái vỏ bọc điên rồ của Đế quốc Thứ Tư bị đập vỡ, và bọn chúng bị bắt giữ và kết án, tất cả chúng ta đều có thể sống lại cuộc sống bình thường như cũ”.

Pat ngước nhìn Giordino đã ngủ ngon lành trước khi những bánh xe của máy bay rời khỏi đường băng. “Ông ấy không bỏ phí chút thì giờ nào, phải không?”

“Al có thể ngủ bất cứ ở đâu và bất cứ lúc nào. Hắn không khác gì một con mèo”. Anh đưa bàn tay cô lên môi và hôn nhẹ mấy ngón tay. “Cô cũng nên ngủ một lúc. Nếu không, cô không thể chịu đựng lâu đâu”.

Đây là lần đầu tiên Pitt tỏ ra quan tâm chăm sóc cô từ lúc họ gặp nhau, và cô cảm nhận được sự ấm áp đang lan tỏa trong cô. “Đầu óc tôi quá bận rộn nên cũng quên đi sự mệt nhọc”, cô lấy cuốn sổ ghi chép từ túi xách. “Tôi sẽ lợi dụng chuyến bay để bắt đầu phân tích sơ bộ những chữ khắc đó”

“Phi hành đoàn có một máy điện toán trong cabin phía sau, cô xem thử nó có giúp ích gì không?”

“Nó có bộ phận quét để chuyển những ghi chép của tôi lên đĩa không?”

“Tôi nghĩ là có đấy”.

Vẻ mệt nhọc dường như biến mất trên gương mặt Pat. “Nếu vậy thì quá tốt. Đáng tiếc là mấy cuộn phim của tôi đã hỏng sau khi bị ngâm trong nước”.

Pitt thọc tay vào túi quần và rút ra một cái bọc plastic và ném nó vào lòng cô. “Một bộ ảnh về toàn bộ căn hầm đấy”.

Cô thực sự ngạc nhiên khi mở cái bọc ra và nhìn thấy sáu cuộn phim. “Ông có những thứ này từ nơi quỉ quái nào thế?”

“Cô hãy đành lời khen cho bọn Đệ Tứ đế quốc”, anh thản nhiên trả lời. “Al và tôi đến căn hầm đúng lúc hai gã đó hoàn tất việc chụp ảnh những chữ khắc và ký hiệu trên trần hầm, và thế là chúng tôi có những thứ này do phòng thí nghiệm của NUMA cung cấp sau khi họ tráng phim”.

“Ồ, cám ơn ông”, Pat nói với giọng khích động và hôn lên một bên má lởm chởm râu của anh. “Những ghi chép của tôi chỉ gần giống những chữ khắc thôi”. Bất chợt Pitt bỗng trở thành một khách đi đường xa lạ với cô trên một đường phố đông đảo. Pat quay mặt khỏi Pitt và vội vã đi về phía cabin đặt máy tính ở đuôi máy bay.

Pitt gượng đứng lên và đi vào lối đi nhỏ dọc thân máy bay, mở một tủ lạnh và lấy ra một bình nước uống nhẹ. Đáng buồn thật, anh nghĩ, Đô đốc Sandecker không bao giờ cho phép chứa rượu mạnh trên tàu hoặc trên máy bay của NUMA.

Anh đứng lại và nhìn xuống cái thùng gỗ được buộc chặt bằng đai da trên một cái ghế bỏ trống. Cái hộp sọ màu đen bằng nham thạch không hề rời khỏi tầm nhìn của anh từ lúc anh mang nó ra khỏi căn hầm. Anh chỉ có thể tưởng tượng hai hốc mắt trống rỗng đang trợn trừng nhìn anh qua lớp gỗ của cái thùng. Anh ngồi xuống một cái ghế cạnh lối đi nhỏ và kéo cần ăngten của cái điện thoại vệ tinh địa cầu rồi bấm một con số. Cú gọi của anh được nối với bảy mươi vệ tinh đang bay trọng quĩ đạo sẽ chuyển nó tới một vệ tinh khác, ở đây nó được nối với mạng lưới điện thoại công cộng.

Pitt nhìn ra những đám mây đang trôi qua, chờ đợi đầu dây bên kia, ít khi trả lời sau bảy hoặc tám hồi chuông. Sau cùng vào hồi chuông thứ mười, một giọng nói trầm và ấm vọng qua bộ phận thông tin. “Tôi nghe”.

“Chào, St. Julien”.

“Dirk!” St. Julien Perlmutter hét như bom nổ khi ông ta nhận ra giọng nói của ai. “Nếu biết cậu gọi, tôi đã trả lời sớm rồi”.

“Ngược lại bản chất của ông à? Tôi không tin”.

Pitt có thể dễ dàng hình dung ra ông Perlmutter với cái 'thân hình nặng bốn trăm cân Anh’ của ông ta trong bộ pyjama bằng lụa bị chôn vùi trong một núi sách về hàng hải trong cái nhà xe mà ông ta gọi là tổ ấm. Ham kể chuyện những giai thoại tham ăn, một không gian thông thái và có uy tín về những vấn đề hàng hải với một thư viện tập trung những cuốn sách, thư viết tay, tài liệu và kế hoạch quí hiếm nhất thế giới về hầu hết những chiếc tàu đã có mặt trên biển, ông ta đúng là một cuốn bách khoa từ điển lưu động về con người và biển cả.

“Cậu đang ở đâu vậy, con trai?”

“Ba mươi lăm ngàn bộ bên trên dãy núi Rocky Mountains”.

“Cậu không thể chờ đến Washington để gọi tôi sao?”

“Tôi muốn biết một dự án nghiên cứu ngay lập tức”.

“Tôi giúp được gì nào?”

Pitt vắn tắt giải thích về căn phòng bí ẩn, những chữ khắc trên các vách đá. Ông Perlmutter lắng nghe với vẻ suy nghĩ, không ngắt lời để hỏi. Lúc Pitt dừng lại, ông mới lên tiếng. “Cậu có ý nghĩ đặc biệt nào trong đầu thế?”

“Tôi biết ông có đủ những hồ sơ về những tiếp xúc với châu Mỹ xảy ra trước khi Columbus tìm ra lục địa này”.

“Tôi có toàn bộ dữ liệu về chuyện đó. Những tài liệu và lý thuyết về tất cả những người đi biển đã từng ghé qua Bắc, Trung và Nam Mỹ trước Columbus nhiều”.

“Ông còn nhớ giai thoại nào về những người đi biển đã xâm nhập sâu vào những lục địa khác và xây dựng những căn hầm dưới lòng đất không? Xây dựng chúng với mục đích duy nhất là lưu lại những thông điệp cho những người đến sau? Những sự kiện như thế có bao giờ được ghi chép trong lịch sử không?”

“Tôi không thể nhớ ngay được. Có một số tường thuật về những trao đổi buôn bán giữa những dân tộc ở châu Mỹ và những người đi biển đến từ châu Âu và Phi châu. Người ta cho rằng việc bán đồng và thiếc đã xảy ra từ năm ngàn năm trước”.

“Ở đâu?” Pitt hỏi.

“Minnesota, Michigan và Wisconsin”.

“Thật chứ?”

“Tôi tin như thế”, ông Perlmutter nói tiếp. “Có một bằng chứng về việc khai mỏ chỉ từ thời cổ đại tại bang Kentucky, khai thác khoáng sản tại Pennsylvania và mica tại Bắc Carolina. Những khu mỏ đã được khai thác từ nhiều thế kỷ trước công nguyên. Sau đó, nhiều thợ mỏ đã biến mất một cách bí ẩn trong một thời gian rất ngắn, bỏ lại những dụng cụ và nhiều thứ khác chứng tỏ sự có mặt của họ ngay tại nơi họ mất tích, không kể đến những điêu khắc bằng đá, những bệ thờ và những ngôi mộ đá. Mộ đá là những tấm đá lớn nằm ngang xuất hiện thời tiền sử, được chống đỡ bằng hai hoặc nhiều trụ đá thẳng đứng”.

“Những thứ đó không do thổ dân Da đỏ Indian tạo ra sao?”

“Người Indian ở châu Mỹ ít khi sản xuất những đồ vật điêu khắc bằng đá và họ ít xây dựng; nếu có, cũng chỉ là những công trình kỷ niệm không phải bằng đá. Những kỹ sư mỏ, sau khi nghiên cứu những cổ vật được đào bới, đã phỏng đoán có trên bảy trăm triệu cân Anh loại đồng đỏ được khai thác và chở đi nơi khác. Chẳng ai tin người Indian có khả năng đó, vì đồng đỏ do những nhà khảo cổ phát hiện chỉ với một lượng nhỏ chừng vài trăm cân Anh dưới dạng những xâu chuỗi và đồ trang sức lòe loẹt. Người Indian cận đại còn làm rất ít những vật dụng bằng kim loại”.

“Nhưng không có chỉ dẫn nào về những căn hầm dưới đất với những chữ khắc bí ẩn sao?”

Ông Perlmutter im lặng một lúc. “Tôi không biết gì về chuyện này. Những thợ mỏ thời tiền sử đã lưu lại rất ít dấu hiệu về đồ gốm hoặc những thông tin bao quát về chữ khắc. Chỉ có vài loại chữ tốc ký và chữ tượng hình, và phần lớn không thể đọc được. Chúng ta chỉ có thể suy đoán chúng thuộc dân tộc nào: Ai Cập, Phénicie ở Tiểu Á, Na Uy hoặc thậm chí một dân tộc nào đó sớm hơn nữa. Có bằng chứng tại miền tây nam những khu mỏ của người Celt ở Tây Âu và tại bang Arizona cho thấy những cổ vật của dân La Mã được phát hiện bên ngoài thành phố Tucson vào cuối thế kỷ trước. Vậy ai có thể tuyên bố điều gì chứ. Hầu hết các nhà khảo cổ học đều không muốn tuyên bố một cách khập khiễng, càng không muốn thần thánh hóa những tiếp xúc xảy ra trước Columbus. Đơn giản chỉ vì họ không muốn phổ biến những chuyện đó”.

“Đó chỉ là sự mở rộng của một ảnh hưởng về văn hóa từ một dân tộc này đến một dân tộc khác qua sự tiếp xúc thôi mà”.

“Chính xác”.

“Nhưng tại sao?” Pitt hỏi, “Khi có nhiều chứng cứ như thế?"

“Các nhà khảo cổ là những kẻ cứng đầu”, ông Perlmutter trả lời. “Tất cả những chứng cứ đều xuất hiện từ Missouri. Người ta phải làm sáng tỏ chúng. Nhưng vì những nền văn hóa xa xưa của châu Mỹ không biết đến tác dụng của bánh xe mà chỉ dùng để làm đồ chơi, cũng không biết khai thác cái mâm xoay trong nghề làm đồ gốm, họ không chấp nhận việc truyền bá văn hóa”.

“Có thể vì một số lý do. Cho đến khi Cortez và những người Tây Ban Nha đến, tại châu Mỹ không có ngựa và bò. Thậm chí tôi còn biết lúc đó họ cho rằng phải mất sáu trăm năm để đi từ Trung Hoa đến châu Âu”.

“Tôi có thế nói gì nào?” ông Perlmutter thở dài. “Tôi chỉ là một gã say mê những câu chuyện hàng hải nhưng lại không thích viết những luận thuyết về những vấn đề tôi không biết rõ”.

“Nhưng ông sẽ tìm trong thư viện của mình bất kỳ mô tả nào về những căn hầm dưới lòng đất với những chữ viết không thể giải mã tại những nơi xa xôi trên Trái Đất từ nhiều ngàn năm trước chứ?”

“Tôi sẽ cố hết sức”.

“Cám ơn ông, ông bạn già. Tôi không thể đòi hỏi hơn”. Pitt đặt hết lòng tin vào người bạn cũ của gia đình đã từng đặt Pitt vào lòng khi anh còn là một cậu bé con và kể cho anh nghe những câu chuyện về biển.

“Còn có điều gì đó mà cậu không nói cho tôi biết về căn phòng phải không?” ông Perlmutter hỏi.

“Chỉ là một cổ vật điêu khắc”.

“Loại cổ vật gì thế?”

“Một cái hộp sọ bằng nham thạch màu đen, kích cỡ như thật”.

Ông Perlmutter im lặng một lúc. Sau cùng, ông nói, “Cậu có hiểu ý nghĩa của nó không?”

“Không có gì rõ rệt”, Pitt trả lời. “Tất cả những gì tôi có thể cho ông biết là nó không được tạo hình bằng những dụng cụ hiện đại. Những người cổ đại đã chạm trổ và đánh bóng một vật như thế với nham thạch đòi hỏi phải mất hàng chục thế hệ mới thực hiện nổi”.

“Câu nói đúng. Nham thạch là một loại thủy tinh lỏng - hay dung nham - từ núi lửa phun ra và nhanh chóng đông đặc. Trải qua nhiều ngàn năm, người ta dùng nó để làm đầu mũi tên, những con dao và những ngọn giáo. Nham thạch rất giòn. Muốn tạo ra một vật như thế quả là một kỳ công, đòi hỏi cả trăm năm mài dũa cẩn thận để không làm vỡ hoặc làm nứt nó”.

Pitt liếc nhìn cái thùng gỗ buộc trên cái ghế. “Đáng tiếc là ông không có mặt ở đây để xem nó, St. Julien”.

“Không cần đâu. Tôi biết nó trông giống cái gì rồi”.

Pitt hiểu. Ông Perlmutter nổi tiếng về chuyện đùa dai với các nạn nhân của mình khi ông ta chuẩn bị biểu diễn khả năng hiểu biết. Pitt không còn cách chọn lựa nào khác hơn là tự chui vào bẫy của ông già. “Ông phải tận mắt nhìn thấy mới biết nó đẹp như thế nào”.

“Có phải tôi đã quên không bảo cậu, cậu bé thân mến”, ông Perlmutter nói, từng tiếng rõ ràng như giễu cợt, “là tôi biết nơi khác cũng có một cái hộp sọ giống như thế?”

Chiếc Cessna Ultra V chạm đường băng phía đông của Căn cứ Không quân Andrews và tiếp tục chạy về phía những nhà chứa máy bay do không quân cho những cơ quan khác của chính phủ thuê. Những tòa cao ốc lo việc vận tải của đội hàng không NUMA nằm về phía đông bắc của căn cứ. Một chiếc xe van của NUMA với hai nhân viên an ninh đang chờ để đưa Giordino đến thành phố Alexandria và đưa Pat về chỗ ở mới và an toàn, nơi con gái cô đang đợi cô.

Pitt thận trọng mang cái thùng gỗ chứa cái hộp sọ nham thạch ra khỏi máy bay và đặt nó lên mặt đường băng. Anh không đi cùng Pat và Giordino mà ở lại phía sau.

“Ông không đi với chúng tôi à?”

“Không, một người bạn sẽ đón tôi tại đây”.

Cô nhìn anh với ánh mắt sâu lắng. “Bạn gái?”

Pitt bật cười. “Cô có tin đó là bố già của tôi không?”

“Không, tôi không nghĩ là tôi tin”, giọng cô châm chọc. “Bao giờ tôi gặp lại ông?”

Anh hôn nhẹ lên trán cô. “Sẽ sớm hơn cô tưởng”.

Rồi anh đóng cửa máy bay và nhìn theo chiếc xe tải nhỏ chạy về phía cổng chính căn cứ. Anh thư giãn và ngồi trên mặt đường băng, dựa lưng vào một bánh xe của bộ phận đáp của máy bay. Không khí mùa xuân tại Washington thật dễ chịu và tinh khiết với nhiệt độ không vượt quá mười sáu độ C. Anh đợi chừng mười phút thì một chiếc xe thật đẹp sơn màu xanh lục bạc với động cơ thật êm chạy vào và dừng lại bên cạnh chiếc máy bay.

Bộ khung của chiếc Rolls Royce đời Sylver Dawn xuất xưởng từ nhà máy Hooper & Công ty năm 1955 được thiết kế rất thấp, gần mặt đất, từ mũi đến đuôi xe. Với động cơ sáu xilanh 263 inch khối có thể đẩy chiếc xe lên tới vận tốc tối đa tám mươi bảy dặm mỗi giờ, nhưng với tốc độ đó, người ta cũng chỉ nghe tiếng bánh xe cọ xát mặt đường.

Hugo Mulholland, tài xế của ông St. Julien Perlmutter, bước xuống xe và chìa bàn tay ra. “Rất vui được gặp lại ông, thưa ông Pitt”.

Pitt toét miệng cười và bắt tay người tài xế. Ông ta chẳng hề tỏ ra lịch sự, nhưng Pitt không quan tâm. Anh biết Hugo đã trên hai mươi năm. Người tài xế vừa là phụ tá đắc lực của ông St. Julien thực sự là một người nhiệt tình và tận tụy, dù ông ta có một gương mặt khó đăm đăm, ít khi mỉm cười hoặc bày tỏ những dấu hiệu tương đắc với người khác. Ông ta đón cái túi căng phồng của Pitt và đặt nó vào cốp sau xe rồi bước lùi lại trong lúc Pitt đặt cái thùng gỗ bên cạnh cái túi. Rồi ông Mulholland mở cửa xe và đứng sang một bên.

Pitt chui vào xe và ngồi vào băng sau. Hai phần ba cái băng đã bị thân hình đồ sộ của ông Perlmutter choáng hết. “Chào st. Julien, trông ông giống cái hộp đàn viôlông gớm”.

“Giống cái hộp đàn viôlông bass hơn chứ”, ông Perlmutter ôm đầu Pitt giữa hai lòng bàn tay và hôn lên hai má anh. Người đàn ông khổng lồ đội một cái nón Panama trên cái đầu bạc trắng- Gương mặt đỏ au với cái mũi giống như một đóa hoa tuy-luýp nằm dưới cặp mắt màu xanh da trời. “Lâu quá nhỉ. Kể từ khi cô gái Á châu bé bỏng của Tổ chức Nhập cư và Nhập Quốc tịch dùng bữa tôi với chúng ta trong căn hộ là cái nhà chứa máy bay của cậu”.

“Cô bé Julia Marie Lee. Khoảng thời gian này năm ngoái”.

“Cô ấy ra sao rồi?”

“Lần cuối cùng tôi nghe nói Julia đã sang làm việc tại Hồng Kông”.

“Cô ấy không bao giờ ở đâu lâu, phải không?” Ông già có vẻ ngậm ngùi.

“Có lẽ cô ấy đến đó để sống gần mẹ”.

“Có thể”.

Pitt đổi đề tài. “Tôi đánh hơi thấy mùi thức ăn?”

“Cậu ăn lần cuối lúc nào?”

“Tôi chỉ điểm tâm với cà phê và uống thức uống nhẹ thay cho bữa trưa”.

Ông Perlmutter kéo một cái giỏ, loại dùng để đi picnic từ sàn xe và đặt nó lên cặp đùi kếch sù của mình, rồi ông lấy một cái khay từ lưng băng ghế trước. “Tôi đã chuẩn bị một bữa ăn nhỏ cho cậu trên đường đi tới Fredericksburg”.

“Đó là nơi chúng ta sẽ đến phải không?” Pitt hỏi vừa háo hức nhìn những thức ăn ngon lành trong cái giỏ.

Ông Perlmutter chỉ gật đầu trong lúc mở chai sâm banh Yellow Label Veuve Clicquot Ponsardin Brut. “Thích chứ?”

“Thứ tôi rất mê đấy”, Pitt gật gù.

Sau khi Mulholland được vẫy tay cho qua cổng chính, ông ta quẹo trái lên xa lộ Capital Beltway rồi lái về phía đông qua sông Potomac cho đến khi tới Springíỉeld, tại đây ông ta rẽ về hướng nam.

Trong khoang sau xe, ông Perlmutter đặt một bộ đồ ăn bằng bạc và bằng sứ lên cái khay và bắt đầu đặt những đĩa thức ăn lên, khởi đầu với món nấm xào lá lách, rồi món tôm nướng vỉ với nhiều bơ và phó mát, kết thúc với rượu vang đỏ ngâm táo.

“Một bữa tiệc thực sự, ông St. Julien ạ. Ít khi tôi được ăn một bữa sang trọng như thế này”.

“Tôi ăn dài dài”, ông Perlmutter nói vừa vỗ cái bụng bự cua mình. “Và đó là điểm khác nhau giữa cậu và tôi”.

Bữa ăn dã chiến kết thúc với một bình thủy nhỏ cà phê pha bằng khí nén. “Không có cônhắc à?” Pitt hỏi với giọng khối hài.

“Giờ này là quá sớm đối với một người ở cái tuổi sáu mươi để dùng rượu mạnh. Uống vào lúc xế chiều thích hơn”.

“Cái hộp sọ thứ nhì ông nói đang nằm ở đâu?”

“Fredericksburg”.

“Thì ông đã nói rồi mà”.

“Nó thuộc về một quí bà đã có tuổi rất dễ thương tên là Christine Mender-Husted. Bà cô của người phụ nữ này tìm thấy cái hộp sọ lúc bà theo chồng trong một chuyến săn cá voi, và tàu của họ bị kẹt giữa vùng băng giá trong suốt mùa đông tại Nam Cực. Một câu chuyện thật ly kỳ. Theo những gì gia đình thuật lại thì bà Rosanna Mender bị lạc trên khối băng trong một cơn bão tuyết. Đến lúc chồng bà, Thuyền trưởng Bradíbrd Mender, chủ nhân chiếc tàu săn cá voi Paloverdc và nhóm thủy thủ của ông cứu được bà, thì họ nhìn thấy một chiếc tàu vô chủ chạy buồm của Công ty Hàng hải Anh-Đông An. Vì tò mò, họ lên chiếc tàu và lục soát nó, phát hiện toàn bộ thủy thủ đoàn và hành khách đã chết. Trong một hầm chứa, họ tìm thấy một cái sọ người bằng nham thạch màu đen và những vật lạ lùng khác mà họ phải bỏ lại vì khối băng bắt đầu vỡ buộc họ phải gấp rút trở về tàu của mình”.

“Họ mang theo cái hộp sọ chứ?”

Ông Perlmutter gật đầu. “Đúng thế, chính bà Rosanna đã mang nó khỏi chiếc tàu vô chủ. Nó trở thành một vật gia truyền từ đó”.

Pitt lười biếng nhìn qua cửa sổ chiếc Rolls Royce về phía cánh đồng xanh mởn chạy dài của bang Virginia. “Thậm chí nếu cả hai cái hộp sọ giống hệt nhau, cũng chẳng có dấu hiệu nào cho chúng ta biết ai đã tạo ra chúng, và tại sao?”

“So sánh hai hộp sọ không phải là lý do tôi hẹn gặp quí bà Mender-Husted”.

“Vậy mục đích của ông là gì?”

“Suốt mười năm qua, tôi đã cố nài mua những ghi chép liên quan đến những ngày đi săn cá voi của Thuyền trưởng Mender. Kể cả những cuốn sổ ghi chép của chiếc tàu ông ta phục vụ. Nhưng vật quan trọng nhất trong bộ sưu tập của gia đình Mender, thứ mà tôi đã nài nỉ đến mỏi cả răng, là cuốn nhật ký của chiếc tàu vô chủ được tìm thấy trong khối băng”.

“Gia đình Mender cũng sở hữu vật đó?”

Ông Perlmutter cười như một con cáo. “Tôi hy vọng khi bà Mender-Husted nhìn thấy cái sọ của chúng ta, bà có thể thông cảm và chịu bán cho tôi cái sọ của bà cùng bộ sưu tập gia đình đã lưu giữ”.

“Ông thấy xấu hổ khi soi gương à?”.

“Có chứ”, ông Perlmutter bật cười ranh mãnh. “Nhưng chuyện đó sẽ chóng qua thôi”.

“Có chỉ dẫn nào trong cuốn sổ nhật ký của chiếc tàu vô chủ, nơi đã tìm thấy cái hộp sọ không?”

Ông Perlmutter lắc đầu. “Tôi chưa được đọc cuốn nhật ký đó. Ông Mender-Husted khóa kỹ nó”.

Nhiều giây trôi qua, Pitt chìm đắm trong suy nghĩ. Anh không thể không tự hỏi có bao nhiêu hộp sọ được cất giấu trên khắp hành tinh này.

Một giờ rưỡi sau, chiếc Rolls Royce tới Fredericks-burg. Mulholland lái chiếc xe sang trọng lên một lối đi cong dẫn tới một ngôi nhà lộng lẫy xây theo kiểu thuộc địa trên khu đồi cao của thành phố nhìn xuống dòng sông Rappahannock và thung lũng chết chóc, nơi mười hai ngàn năm trăm người lính của các bang liên hiệp đã ngã xuống chỉ trong một ngày trong cuộc Nội Chiến. Tòa nhà được xây từ năm 1848, là một hình ảnh nhắc nhớ thời quá khứ.

“Nào, chúng ta đến rồi”, ông Perlmutter nói trong lúc Mulholland mở cửa xe.

Pitt đi vòng ra sau xe, giở cái nắp capô lên và lấy cái thùng gỗ đựng cái hộp sọ. “Câu chuyện sẽ hấp dẫn đây”, anh nói trong lúc họ lên bậc cấp và kéo sợi dây chuông gọi cửa.

Bà Christine Mender-Husted có thể đã đạt tới cái tuổi của một bà nội của bất kỳ một chàng trai nào. Nhưng bà vẫn còn nhanh nhẹn khi bước ra đón tiếp lúc họ đến. Mái tóc bạc trắng, một nụ cười thân thiện hiếu khách, gương mặt với những đường nét thánh thiện. Những cử chỉ cũng nhanh nhẹn như đôi mắt màu nâu sáng lấp lánh của bà. Bà chào ông Perlmutter với cái bắt tay nồng nhiệt và gật đầu khi ông này giới thiệu Pitt.

“Xin mời vào”, giọng bà thật ngọt ngào. “Tôi đang đợi các vị. Hai vị dùng trà chứ?”

Hai người đàn ông đồng ý và được đưa tới một phòng đọc sách trần rất cao, và ngồi xuống hai cái ghế bọc da. Sau đó, một cô gái — được giới thiệu là con gái của một người láng giềng có nhiệm vụ giúp những việc vặt trong nhà — mang trà ra. Bà Christine quay sang ông Perlmutter.

“Nào, St Julien, như tôi đã nói với ông qua điện thoại, tôi vẫn không sẵn sàng bán những kho báu của gia đình đâu”.

“Tôi vẫn cho phép sự hy vọng không bao giờ được rời khỏi tâm trí”, ông Perlmutter nói, “nhưng tôi đưa Dirk tới đây vì một lý do khác”. Ông quay sang Pitt. “Cậu vui lòng để phu nhân Mender-Husted xem qua món đồ vật trong cái hộp gỗ chứ?”

“Hãy gọi tôi là Christine”, bà nói. “Họ thời con gái và họ lúc đã kết hôn của tôi gộp lại nghe dài dòng quá”.

“Gia đình vẫn thường xuyên sống tại Virginia chứ ạ?” Pitt hỏi, tạo không khí trò chuyện lúc anh mở cái chốt của cái thùng gỗ chứa hộp sọ lấy từ khu mỏ Pandora.

“Dòng họ chúng tôi có sáu thế hệ sống tại California, nhiều người bây giờ vẫn còn sống trong vùng San Francisco. Riêng tôi, vì đã kết hôn với một ông đến từ Virginia và đã phục vụ dưới ba đời Tổng thống với vai trò cố vấn đặc biệt”.

Pitt chợt im lặng, đôi mắt anh chạm phải một cái hộp sọ màu đen bằng nham thạch đặt trên mặt lò sưởi đang cháy chập chờn. Rồi, thật chậm rãi, như bị thôi miên, anh mở nắp cái thùng gỗ. Sau đó anh lấy cái hộp sọ ra, bước lại gần lò sưởi và đặt nó bên cạnh bản sao của nó trên mặt lò sưởi.

“Ô kìa!” bà Christine thở hổn hển. “Tôi chưa bao giờ nghĩ lại có một cái khác nữa”.

“Tôi cũng thế”, Pitt nói, vừa ngắm nghía hai cái hộp sọ màu đen. “Tôi có thể nói, khi quan sát bằng mắt thường, người ta không thể nào thấy chỗ khác nhau của chúng. Chúng giống nhau cả về hình dáng lẫn chất liệu cấu tạo. Thậm chí kích thước cũng y hệt nhau. Như thể chúng từ một khuôn đúc mà ra”.

“Xin cho tôi biết, thưa bà Christine”, ông Perlmutter nói với tách trà trong lòng bàn tay, “câu chuyện lạ lùng mà bà cố của bà đã truyền lại về cái sọ này”.

Bà nhìn ông Perlmutter như thể ông ta vừa đặt một câu hỏi ngốc nghếch. “Ông cũng biết như tôi, là nó được tìm thấy trên một chiếc tàu có tên là Madras, bị mắc kẹt trong băng tại Nam Cực. Chiếc tàu đi từ Bombay của Ấn Độ đến Liverpool, Anh quốc, với ba mươi bảy hành khách, một thủy thủ đoàn bốn mươi người và nhiều hàng hóa khác gồm trà, tơ lụa, hương liệu và đồ sứ. Bà cố tôi tìm thấy cái sọ người trong một hầm chứa chất đầy những cổ vật khác”.

“Điều tôi muốn nói là người ta có tìm thấy chỉ dẫn nào cho biết vì sao những cổ vật lại có mặt trên tàu Madras hay không”.

“Theo những gì tôi biết thì cái hộp sọ và những vật dị thường khác không được đưa lên tàu tại Bombay. Chúng được thủy thủ đoàn và hành khách phát hiện khi chiếc tàu này dừng lại để lấy nước tại một đảo hoang trong chuyến hành trình - Các chi tiết đều được ghi trong cuốn nhật ký”.

Pitt ngập ngừng. Anh sợ phải nghe điều tồi tệ nhất, và lặp lại, “Bà nói cuốn nhật ký có ghi điều đó?”

“Thuyền trưởng Mender không giữ nó. Ước muốn duy nhất của thuyền trưởng tàu Madras là trao trả nó cho những chủ nhân chiếc tàu. Bà cố tôi đã gởi nó đến Liverpool bằng đường bưu điện”.

Pitt có cảm giác như anh chạy đâm bổ vào một bức tường gạch trong một con đường hẹp. “Bà biết những chủ nhân chiếc tàu Madras đã gởi một đoàn thám hiểm đi tìm chiếc tàu vô chủ và theo dấu cuộc hành trình của nó đến nơi xuất hiện những cổ vật đó?”

“Những chủ nhân nguyên thủy của chiếc tàu - như tổ tiên tôi biết sau đó - đã bán Công ty thương mại trước khi Thuyền trưởng Mender gởi cuốn nhật ký cho họ”, bà Christine giải thích. “Những người chủ mới của công ty đã gởi hai đoàn thám hiểm trên hai chiếc tàu khác nhau đi tìm chiếc tàu Madras, nhưng cả hai chiếc tàu đó đều mất tích cùng với những thủy thủ đoàn”.

“Vậy những ghi chép đều thất lạc?” Pitt hỏi, vẻ thất vọng.

Đôi mắt bà Christine sáng lên. “Tôi không nói như thế”.

Anh nhìn người phụ nữ luông tuổi, cố đọc một điều gì đó trong mắt bà. “Nhưng...”.

“Bà cố tôi là một phụ nữ rất tinh tế”, bà ngắt lời Pitt. “Bà cụ đã chép lại một bản sao cuốn nhật ký của tàu Madras trước khi chồng bà gởi nó sang Anh quốc”.

Với Pitt, tiết lộ này chẳng khác gì mặt trời vừa ló ra khỏi những đám mây đen. “Bà vui lòng cho phép tôi được đọc nó chứ?”

Bà Christine không trả lời ngay. Bà bước lại một bàn giấy cũ dành cho các thuyền trưởng và ngước nhìn một bức tranh, khung bằng gỗ sồi, trên tường trước mặt cái bàn giấy. Bức tranh vẽ một người đàn ông ngồi trong một cái ghế bành, hai cánh tay và hai cẳng chân vắt tréo nhau. Và dù khuôn mặt bị một bộ râu rậm che gần hết, vẫn cho thấy đó là một người đàn ông đẹp trai. Ông ta có một thân hình to lớn, thân thể và đôi vai choáng đầy cái ghế. Người phụ nữ đứng sau lưng, với một bàn tay đặt lên vai ông ta, có thân hình nhỏ bé và đôi mắt màu nâu rất sáng. Cả hai mặc những trang phục của thế kỷ XIX.

“Thuyền trưởng Bradford và bà Rosanna Mender”, bà Christine nói với giọng nuối tiếc, như thể bà đang lạc vào quá khứ mà bà chưa được sống bao giờ. Rồi bà quay nhìn ông Perlmutter. “St. Julien, tôi nghĩ đã tới lúc rồi. Tôi đã cất giữ cho riêng mình những giấy tờ và thư từ của họ quá lâu. Tốt nhất là những thứ đó cần được người khác đọc để biết tới lịch sử họ đã sống. Bộ sưu tập nay thuộc về ông với cái giá ông đã đề nghị”.

Ông Perlmutter bước khỏi cái ghế, nhẹ nhàng như thể ông ta có thân hình của một lực sĩ điền kinh, và ông ôm chặt bà Christine. “Xin cám ơn bà, phu nhân thân mến. Tôi hứa tất cả những thứ này sẽ được cất giữ và bảo quản trong những hồ sơ lưu trữ để những sử gia sau này tham khảo”.

Bà Christine bước lại, đứng giữa Pitt và cái lò sưởi. “Và đối với ông, thưa ông Pitt, tôi xin trao cái hộp sọ nham thạch cho ông. Giờ thì ông đã có một đôi xứng hộ, ông dự trù sẽ làm gì với chúng?”

“Trước khi chúng được gởi cho một viện bảo tàng về những đồ cổ, chúng sẽ được nghiên cứu và phân tích trong một phòng thí nghiệm để xem người ta có thể xác định niên đại và gắn nó với một nền văn minh cổ nào”.

Bà nhìn cái hộp sọ của mình một lúc lâu trước khi thở dài. “Tôi không nỡ nhìn nó ra đi, nhưng tôi biết nó phải được quan tâm một cách hợp lý để xác định giá trị của nó đứng đắn hơn. Ông biết đấy, người ta luôn luôn nhìn nó như một điềm triệu báo trước những bất hạnh và thảm kịch. Nhưng từ giây phút bà cố Rosanna của tôi mang nó từ khối băng đang tan lên tàu của chồng bà, vật này chỉ đem lại may mắn và phúc lành cho gia tộc Mender”.

Trong lúc trở lại Washington, Pitt đọc những ghi chép trong cuốn nhật ký của tàu Madras, do chính tay là Rosanna Mender chép lại từ cuốn sổ ghi chép bìa da lấy từ chiếc tàu vô chủ. Dù chiếc Rolls Royce chạy thật êm, thỉnh thoảng Pitt vẫn phải ngước lên nhìn ra ngoài xa để tránh bị say xe.

“Có gì hấp dẫn không?” ông Perlmutter hỏi Pitt trong lúc Mulholland lái xe lên cầu George Mason bắc ngang sông Potomac.

Pitt rời mắt khỏi cuốn nhật ký. “Có đấy, giờ thì chúng ta đã biết chính xác nơi đoàn thủy thủ tàu Madras phát hiện cái hộp sọ, và nhiều, rất nhiều điều khác nữa”.

Chiếc Rolls đến một điểm dừng cạnh một nhà chứa máy bay - mà Pitt gọi là nhà - trong một chỗ khuất tại Phi trường Quốc tế Washington. Cái nhà chứa máy bay trông già khọm, được xây từ năm 1936, có vẻ như nó đã bị bỏ hoang từ lâu. Cỏ dại che kín chung quanh những bức tường nhăn nhúm của nó, và những cửa sổ đều bị bít kín bằng những tấm ván.

Ngay khi Hugo vừa dừng xe, hai người đàn ông vũ khí đầy mình đột ngột hiện ra như vừa mọc lên từ một nơi nào đó, đứng hai bên hông xe với những khẩu súng tiểu liên tự động sẵn sàng nhả đạn. Một người nghiêng xuống cửa xe, trong lúc người kia đứng đối mặt với Mulholland, như để canh chừng ông ta giở trò nguy hiểm. “Trong các vị có ai là ông Dirk Pitt không?” Người đàn ông đang nhìn vào trong xe hỏi.

“Tôi đây”.

Người lính gác nhìn kỹ anh một lúc. “Giấy tờ, thưa ông”. Đó không phải là một yêu cầu mà là một mệnh lệnh.

Pitt chìa cái thẻ NUMA của anh ra, người lính gác nhấc vũ khí của mình lên và mỉm cười. “Rất tiếc đã làm phiền, nhưng chúng tôi được lệnh bảo vệ ông và tài sản của ông”.

Pitt biết những người đàn ông này là những nhân viên bảo vệ an ninh liên bang. Họ được huấn luyện rất chuyên nghiệp để bảo vệ những viên chức chính phủ có cuộc sống luôn bị đe dọa. “Tôi biết ơn sự quan tâm và cống hiến của các bạn”.

“Còn hai quí ông này?”

“Bạn tốt cả”.

Người nhân viên an ninh đưa cho Pitt cái remote báo động nhỏ. “Ông vui lòng mang cái này bên mình trong mọi lúc khi ông có mặt tại nhà. Nếu gặp bất kỳ dấu hiệu nguy hiểm nào, dù nhỏ nhất, hãy bấm cái nút báo động. Chúng tôi sẽ đáp ứng ngay trong hai mươi giây”.

Người nhân viên an ninh không nói tên anh ta, và Pitt cũng không hỏi.

Mulholland mở cửa xe, và Pitt lấy cái túi của anh. Đến lúc đó, anh nhận ra hai nhân viên an ninh đã biến mất. Anh nhìn quanh nhà chứa máy bay và dõi mắt qua cánh đồng trống bên cạnh đường bay chính, vẫn không thấy bóng hai nhân viên an ninh, như thể họ chưa từng xuất hiện trước đó. Pitt chỉ có thể đoán họ ẩn mình dưới mặt đất.

“Tôi sẽ bảo Hugo lái xe tới Tổng hành dinh NUMA và đưa hai cái hộp sọ nham thạch cho họ”, ông Perlmutter nói.

Pitt đặt bàn tay lên vai ông Mulholland. “Ông cẩn thận mang chúng đến phòng thí nghiệm trên tầng sáu và giao nó cho nhà khoa học có nhiệm vụ lo việc này nhé. Tên ông ta là Harry Matthews”.

Mulholland chỉ nhếch mép cũng đã giống người khác nhe răng cười. “Tôi sẽ không làm rơi chúng đâu”.

“Tạm biệt, ông St. Julien. Và cám ơn ông”.

“Khỏi cần, con trai. Chuẩn bị ăn tối đi”.

Pitt nhìn theo khi chiếc Rolls lao ra con đường đất dẫn tới một cánh cổng an ninh của phi trường, kéo theo một dải bụi phía sau cản xe. Anh nhìn lên một trụ đèn, và thấy một camera an ninh nhỏ xíu gắn trên đỉnh. Có lẽ điều đó làm hài lòng sự tò mò của anh vì nó giúp anh biết nơi hai nhân viên an ninh ẩn nấp.

Với một dụng cụ nhỏ điều khiển từ xa, Pitt ngăn sự hoạt động của hệ thống báo động rải khắp nhà chứa máy bay, rồi anh mở một cánh cửa có vẻ như đã đóng chặt từ Thế Chiến II. Anh khoác cái túi lên vai và bước vào. Bên trong tối tăm và phủ kín bụi bặm. Không một góc nào có ánh sáng rọi tới. Anh đóng cánh cửa lại và ấn một công tắc đèn, ánh sáng tỏa khắp nhà chứa máy bay.

Sàn nhà, được sơn màu trắng đục, gần như bị phủ kín bởi những dãy xe cổ điển có đến năm mươi chiếc đủ màu sắc bóng loáng. Ngoài ra còn có một máy bay phản lực của Đức từ Thế Chiến II và một máy bay ba động cơ hiệu Ford, ra đời từ những năm 1930 và có tên là Con Ngỗng Thiếc. Một chiếc xe điện đặt trên hai đường ray dọc theo một bức tường. Và như để góp thêm vào câu chuyện, trong phòng còn có một chiếc xuồng bằng gang có gắn máy ở đuôi và một cái bè có buồng lái và cột buồm. Toàn thể bộ sưu tập được canh gác bởi một cái trụ gỗ khắc hình vật tổ của người Da Đỏ Haida.

Pitt dừng lại để đảo mắt nhìn khắp bộ sưu tập đa dạng của mình. Hài lòng vì mọi thứ vẫn nằm đúng chỗ, anh leo lên cái thang hình xoắn ốc bằng sắt dẫn lên căn hộ của anh nằm ở tầng trên nhà chứa máy bay.

Bên trong trông chẳng khác gì một bảo tàng ngành hàng hải. Những hộp kính chứa những chiếc tàu có bánh lái bằng gỗ và những hộp la bàn, những chuông của tàu biển, những nón trùm đầu bằng đồng đỏ và đồng thau dành cho thợ lặn. Một phòng khách, phòng làm việc, phòng ngủ nối liền buồng tắm, một căn bếp chung với phòng ăn, tất cả chiếm một diện tích không hơn một ngàn một trăm bộ vuông.

Dù mệt nhọc hơn anh tưởng, Pitt vẫn mở cái túi quần áo và ném những quần áo bẩn vào cái máy vừa giặt vừa sấy khô. Sau đó, anh vào phòng tắm và tắm dưới vòi sen thật lâu, vặn cái vòi nước nóng trên một bức tường rồi nằm ngửa thư giãn trên sàn phòng, đôi chân duỗi thẳng vào một góc. Đang nhâm nhi một ly tequila thì chuông cửa trước phòng khách báo có người đến.

Pitt nhìn vào cái màn hình chiếc TV đặt giữa hai kệ sách, và nhận ra ông phó giám đốc NUMA, Rudi Gunn, đang đứng trên ngưỡng cửa tầng dưới. Anh nhấn một cái nút trên cái remote, và nói, “Mời vào, Rudi, tôi đang ở tầng trên”.

Gunn leo lên cầu thang và bước vào căn hộ. Là một người nhỏ thó với mái tóc lưa thưa và cái mũi La Mã, nhưng ông Gunn lại đeo một cặp kính thật dày có gọng sừng, ông là một cựu hạm phó trong Hải quân và là một học viên hàng đầu trong Trường Hàng hải. Hiện tại, Gunn rất được kính trọng trong số những nhân viên NUMA vì sự thông minh cao độ của ông. Đôi mắt to màu xanh nước biển càng to hơn sau cặp kính dày cộm.

“Hai anh chàng với những khẩu tiểu liên tự động như muốn nuốt sống tôi cho tới khi tôi chứng tỏ mình là một người bạn của cậu từ NUMA họ mới tỏ ra tử tế cho”.

“Ý tưởng của Đô đốc Sandecker đấy”.

“Tôi biết ông ấy có thuê một nhóm an ninh, nhưng tôi không biết bằng cách nào họ xuất hiện tài tình như vậy. Rồi họ biến mất như một làn khói”.

“Họ là những người hành động rất hiệu quả”, Pitt nói.

“Tôi được báo cho biết đại khái tình huống của cậu tại Telluride”, ông Gunn nói, ngồi thu mình trong một cái ghế. “Câu nói đang lan truyền cả thị trấn đó lúc này là mạng sống của cậu không đáng giá hai xu”.

Pitt mang ra cho ông ta một ly trà đá lấy từ nhà bếp. Ông Gunn ít khi uống bất kỳ thứ gì có chất cồn, trừ những dịp đặc biệt, mà cũng chỉ uống bia. “Nhưng không dành cho những tay gà mờ của bọn Đệ Tứ Đế quốc đâu. Tôi chắc chắn bọn đó không bao giờ đủ sức tống tôi vào một nấm mồ”.

“Tôi muốn nhúng tay vào vụ này”, ông ta dừng lại và uống hết nửa ly trà đá. “Tôi đã gặp vài người bạn tại CIA”

“Điều gì khiến CIA hứng thú với một tội ác xảy ra trong nước chứ?”

“Họ nghi ngờ những tên sát nhân đã gây khó khăn cho cậu tại khu mỏ Pandora có thể là một bộ phận của một tổ chức tội ác quốc tế”.

“Bọn khủng bố?” Pitt hỏi.

Gunn lắc đầu. “Đó không phải là một tôn giáo hoặc bọn cúng bái cuồng tín. Nhưng ý đồ của chúng vẫn c