← Quay lại trang sách

- 2 -

“Tôi không nghĩ như cậu. Đống đá này rất cũ, cũ lắm rồi, cứ xem lớp bụi phủ lên..những tảng đá thì thấy ngay. Tôi dám cá bằng tất cả quà Giáng sinh của tôi rằng đống đá này là do hầm sập đã xảy ra nhiều thế kỷ trước khi ông đại tá người Anh hoặc anh chàng bị đắm tàu đặt chân vào nơi này. Và cả hai người không ai đủ tò mò và nhọc công dọn sạch đống đổ nát để tìm hiểu phía bên kia có gì”. Rồi ông Gunn bò lên những tảng đá và chiếu ngọn đèn vào đống đổ nát. “Đống đá có vẻ rất tự nhiên. Không phải do nóc hầm bị phá sập. Tôi nghĩ chúng ta có thể dễ dàng qua bên kia”.

“Coi bộ tôi qua không nổi rồi”.

“Im miệng và đào đi”.

Sự việc đã chứng tỏ ông Gunn nhận xét đúng. Đống đá không lớn lắm. Bất chấp những lời cằn nhằn của ông ta, Giordino làm việc như một con lừa. Là người khỏe hơn trong hai người, anh chọn những tảng đá nặng hơn, trong lúc ông Gunn dọn những tảng nhỏ hơn. Những động tác của anh vẫn nhanh nhẹn lúc nâng những tảng đá nặng cả trăm cân Anh, như thể chúng được làm từ vỏ cây bần. Không tới một giờ sau, họ đã tạo được một lối đi đủ rộng cho hai người bò qua.

Vì nhỏ con hơn nên ông Gunn bò qua trước. Ông dừng lại để chiếu đèn vào bên trong.

“Thấy gì không?” Giordino hỏi.

“Một hành lang ngắn dẫn vào một căn hầm khác cách chúng ta chừng hai mươi bộ”. Rồi ông ta tiếp tục bò tới. Sau đó, đứng lên, phủi bụi bám đầy áo quần, dọn dẹp nhiều tảng đá đối diện, do đó, Giordino - với bờ vai lớn hơn - có thể dễ dàng lọt qua. Họ chần chừ một lúc, nhập chung hai chùm ánh sáng lại và rọi vào căn hầm trước mặt.

“Tôi thấy vui vì đã nghe theo ông”, Giordino nói trong lúc thong thả bước tới.

“Tôi có linh cảm tương đối tốt. Tôi cá mười đô là sẽ không có kẻ nào tấn công chúng ta trong căn hầm đó”.

“Tôi không cá đâu”.

Vẫn còn chút lo lắng, với cảm giác bối rối, họ đi vào căn hầm thứ nhì và quét những ngọn đèn lên các vách đá và sàn hầm. Không thấy những chữ khắc ở đây, nhưng họ như đông cứng vì ngạc nhiên trước quang cảnh hiện ra trong chùm ánh sáng vàng nhạt của những đèn chiếu. Họ nhìn trừng trừng vào hai chục cái xác ướp có vẻ là những biểu tượng tôn giáo trông thật rùng rợn, ngồi trên những cái ghế đẽo bằng đá. Hai xác ướp đối diện lối vào được đặt trên một cái bệ nhô cao lên. Những xác ướp còn lại được xếp hai bên thành hình móng ngựa vuông góc.

“Nơi này là cái gì thế?” Giordino hỏi khẽ, có vẻ như anh chờ đợi những hồn ma từ bóng tối hiện ra.

“Chúng ta đang ở trong một ngôi mộ”, ông Gunn đoán phỏng. “Rất cổ, nếu căn cứ theo quần áo”.

Những xác ướp và những mái tóc màu đen của chúng được bảo quản trong một tình trạng khá tốt. Hình dạng những khuôn mặt hoàn toàn còn nguyên vẹn, quần áo cũng vậy với đủ màu đỏ, xanh da trời và xanh lục trông vẫn còn rõ ràng. Hai xác ướp cuối cùng ngồi trên những ghế đá được chạm trổ tinh vi những chủng loại sinh vật sống dưới biển. Quần áo của họ được thêu nhiều hình tượng phức tạp với nhiều màu sắc hơn những xác ướp khác. Những đai bằng đồng đỏ được chạm trổ những hình thù thật tinh xảo và gắn những viên đá quí mà ông Gunn nhận ra đó là những viên ngọc bích và đá opal màu đen bao quanh trán. Những mũ hình chóp cao vẫn nằm yên trên đầu những xác ướp. Cái xác nào cũng mặc áo giáp dài cầu kỳ có gắn vỏ sò lẫn lộn với những viên nham thạch bóng loáng và những tấm yếm bằng đồng che từ cổ đến bụng. Chân xác ướp được che chở bằng những đôi ủng da thuộc cao đến nửa bắp chân. Có hai cái xác rõ ràng thuộc tầng lớp cao hơn và quan trọng hơn những xác khác. Bộ xương bên trái cao hơn bộ xương bên phải. Dù tất cả xác ướp đều để tóc dài, nhưng việc phân biệt đàn ông với đàn bà rất dễ dàng. Đàn ông có xương quai hàm lớn hơn và xương lông mày nổi cao hơn phụ nữ. Nhưng thật thú vị, những dải băng bằng đồng bao quanh trán — hoặc mũ miện - đều có cùng kích thước, như thể tất cả đều có quyền lực ngang nhau. Tất cả đàn ông đều ngồi thành một hàng về bên tay phải của xác ướp ngồi chính giữa tạo thành một góc vuông. Họ đều ăn mặc giống nhau, những đường nét quần áo không thanh lịch như cánh phụ nữ. Những viên ngọc bích và đá opal màu đen cũng ít hơn. Chỉ có sự sắp đặt vị trí là giống nhau, những xác ướp phụ nữ ngồi về bên trái xác ướp được trang điểm lòe loẹt hơn.

Một hàng dài những cây giáo có đầu mũi rất đẹp băng đá dung nham đánh bóng đặt dọc một bên vách đá. Tại những bàn chân mỗi xác ướp là những cái bát bằng đồng và những ly uống rượu với những cái muỗng. Bát và muỗng có khoét lỗ để buộc dính nhau bằng dây da, như thể để người ta đeo chúng lên vai hay quanh cổ, cho thấy những người này luôn mang theo họ những vật dụng cá nhân và thực phẩm. Những đồ gốm xinh xắn bóng loáng được trang trí bằng những hình kỹ hà sơn bằng tay thật tinh xảo, được đặt cạnh những chiếc ghế đá. Có vẻ như những đồ vật thủ công này được tạo ra từ bàn tay những nghệ nhân bậc thầy.

Ông Gunn quan sát những xác ướp thật gần, không khỏi kinh ngạc trước nghệ thuật ướp xác. Kỹ thuật ở đây tỏ ra vượt trội so với kỹ thuật Ai Cập. “Không có dấu hiệu nào cho thấy những cái chết dữ dội. Tất cả giống như đã chết lúc đang ngủ. Tôi không tin tất cả bọn họ rủ nhau tới đây để cùng chết trong cảnh đơn độc và bị lãng quên này”.

“Có những kẻ nào đó còn sống đã đặt họ lên những ghế đá”, Giordino nhận xét.

“Đúng”, ông Gunn phác một cử chỉ quanh căn hầm. “Để ý xem, không một xác ướp nào có tư thế ngồi hoàn toàn giống nhau. Một số đặt hai bàn tay trong lòng, những người khác đặt bàn tay lên tay ghế. Vua và hoàng hậu; hoặc bất kỳ địa vị nào của họ lúc còn sống, đều đưa một bàn tay lên chống cằm như thể họ đã liệu trước định mệnh của mình”.

“Ông nói như diễn viên sân khấu vậy”, Giordino làu bàu.

“Cậu không cảm nhận như Howard Carter khi lần đầu tiên anh ta tận mắt nhìn thấy bên trong ngôi mộ của Hoàng đế Tut sao?”

“Howard đã may mắn. Anh ta tìm thấy vật gì đó chúng ta không thấy”.

“Vật gì?”

“Nhìn quanh ông xem. Không có vàng, chẳng có bạc. Nếu những người này có liên quan đến Tut, thì họ phải là những bà con nghèo khổ của ông ta. Có vẻ như những người này chỉ có đồng đỏ là tài sản quí giá”.

Tôi tự hỏi họ đến tị nạn vĩnh viễn tại đây từ lúc nào?” Ông Gunn thong thả nói.

“Tốt hơn ông nên hỏi tại sao”, Giordino nói. “Tôi sẽ lấy cái máy từ túi đeo lưng, ghi lại hình ảnh nơi này rồi sau đó, về nhà. Loanh quanh trong nấm mồ này khiến dạ dày tôi lộn tùng phèo”.

Suốt năm giờ đồng hồ sau đó, trong lúc Giordino chụp ảnh từng inch vuông căn hầm, ông Gunn mô tả chi tiết vào cái máy thu băng nhỏ của mình những gì ông ta nhìn thấy. Ông ta cũng phân loại mọi đồ vật thủ công vào một cuốn sổ ghi chép. Họ không đụng vào bất kỳ thứ gì, mọi vật vẫn nguyên vẹn tại vị trí cũ của chúng. Có lẽ những nỗ lực của họ như việc làm của các nhà khảo cổ chuyên nghiệp, nhưng với hàng ngũ những tay nghiệp dư trong những điều kiện khó khăn, thì họ đã làm rất tốt công việc của mình. Mọi thứ phải nguyên vẹn để chờ những người đến sau, những chuyên viên để giải quyết những ẩn số và xác định lai lịch những người chiếm ngự hầm mộ này.

Lúc họ hoàn tất công việc, trời đã xế chiều. Sau khi bò trở lại và vượt qua chỗ lối đi họ đã dọn dẹp, vào tới căn hầm có cái xác của người thủy thủ bị đắm tàu, ông Gunn mới nhận ra Giordino không đi cùng. Ông quay lại nơi trần hầm bị sập và nhìn thấy Giordino đang lấp lại lỗ trống họ đã mở ra với những tảng đá.

“Làm như thế với mục đích gì?” ông ta hỏi.

Giordino dừng tay, nhìn ông Gunn, mồ hôi quyện với bụi chảy thành dòng trên mặt anh. “Tôi sẽ không dọn cỗ sẵn cho kẻ đến sau chúng ta. Bất cứ ai muốn xâm nhập nấm mồ trong kia đều sẽ phải làm việc như chúng ta đã làm”.

Hai người vẫn còn đủ thời gian để trở lại chỗ chiếc máy bay. Dù trận mưa và những cơn gió đã dịu lại lúc họ xuống sườn núi, và họ chỉ còn phải đi khoảng năm chục mét cuối cùng nữa. Khi chỉ còn phải vượt qua một khe nứt hẹp, họ sẽ đến chỗ chiếc máy bay thì một cột lửa màu da cam lóe lên giữa bầu trời u ám. Không có tiếng sấm nổ hoặc tiếng đổ vỡ. Chỉ nghe một tiếng nổ giống như tiếng pháo nổ trong một cái hộp thiếc. Rồi tiếp theo là một quả cầu lửa lóe lên, để lại một cuộn khói xoáy tròn lên cao giữa những đám mây đen.

Giordino và ông Gunn vừa tuyệt vọng vừa bị sốc khi chiếc máy bay 609 bị vỡ toác như một quả dưa rơi từ trên cao xuống vệ đường. Những mảnh vụn bắn tung tóe lên không khí trong lúc nhiều mảnh vỡ và nóng chảy khác của máy bay rơi vung vãi bên mép vực và xuống sườn núi.

Những mảnh kim loại đâm vào vách đá rồi văng ra xa mất tăm trong lúc hai người đàn ông đứng như mọc rễ xuống đất, không ai mở miệng đến cả phút sau đó. Ông Gunn hoàn toàn tê liệt, đôi mắt trợn trừng, không tin điều vừa xảy ra. Phản ứng của Giordino thì ngược lại. Anh đã hóa điên, điên một cách khủng khiếp, hai bàn tay siết chặt, gương mặt trắng bệch vì giận dữ.

“Không thể được”, sau cùng ông Gunn lắp bắp. “Không thấy một chiếc tàu nào trong tầm nhìn, không còn một chỗ nào cho một máy bay khác đáp xuống. Không thể có chuyện kẻ nào đó đã đặt bom vào máy bay rồi trốn thoát mà chúng ta không hay biết gì”.

“Trái bom đã được cài trong máy bay trước khi chúng ta cất cánh tại Cape Town”, Giordino nói, giọng lạnh như băng giá. “Đặt bom và định giờ trên chuyến bay trở về của chúng ta”.

Ông Gunn nhìn anh trống vắng. “Những giờ chúng ta dành cho việc thám hiểm hầm mộ đó...”

“Đã cứu sống chúng ta. Bất luận những tên giết người này là ai, chúng đều không liệu trước chuyện chúng ta có thể tìm thấy điều gì đó khiến chúng ta quan tâm hoặc dành một hoặc hai giờ để tìm tòi quanh quẩn, vì vậy chúng đã định giờ bom nổ sớm hơn bốn tiếng đồng hồ”.

“Tôi không tin có kẻ nào đó đã nhìn thấy căn hầm sau người thủy thủ bị đắm tàu”.

“Chắc chắn không phải là những ông bạn của chúng ta từ khu mỏ Telluride, hoặc những kẻ đã phá hủy căn hầm đầu tiên. Ai đó đã để lộ việc chúng ta bay tới đảo St. Paul, và chúng ta đã chỉ cách cho bọn chúng. Giờ thì chỉ có một vấn đề là chừng nào bọn chúng sẽ tới đây để nghiên cứu những chữ khắc trong căn hầm đầu tiên”.

Trong đầu ông Gunn đang suy nghĩ dữ dội về một tình thế mới sẽ xảy ra. “Chúng ta phải cầu cứu ông Đô đốc ngay”.

“Hãy thông báo bằng mật mã”, Giordino đề nghị. “Bọn này không tồi đâu. Tôi cá mười ăn một là bọn chúng có phương tiện nghe lén việc đàm thoại qua vệ tinh. Tốt nhất ta nên cho chúng ý nghĩ là chúng ta đang ăn cá dưới đáy Ấn Độ Dương”.

Ông Gunn lấy cái điện thoại mặt đất-vệ tinh ra và định bấm số thì ông chợt nảy ra một ý nghĩ. “Giả sử bọn sát nhân tới đây trước toán cứu hộ của ông Đô đốc thì sao?”

“Lúc đó chúng ta sẽ ném đá lên đầu bọn chúng, vì đó là cách duy nhất của chúng ta mà”.

Với chút hy vọng mong manh còn lại, ông Gunn nhìn quanh bãi đáp lổn ngổn đá. “Được thôi”, ông nói, giọng khô như gỗ, “ít nhất chúng ta cũng không bận tâm lo thiếu đá để ném”.

Chiếc tàu Polar Storm với nhóm các nhà khoa học và đoàn thủy thủ của nó đang hoạt động quanh Bán đảo Nam Cực và ngang qua biển Weddell thì thông điệp của Đô đốc Sandecker đến, ra lệnh cho Thuyền trưởng Gillespie tạm đình chỉ việc thám hiểm. Ông ta phải rời khỏi vùng băng giá ngay và chạy hết tốc lực đến bờ biển Prince Olav. Tại đây, ông ta phải dừng lại và chờ ngoài khơi trạm nghiên cứu Syowa của Nhật bản cho tới khi có lệnh mới. Thuyền trưởng Gillespie lệnh cho viên kỹ sư trưởng và nhóm thủy thủ phòng máy cho chiếc tàu phá băng và nghiên cứu khổng lồ chạy với vận tốc tối đa. Họ hầu như đã hoàn thành một công việc bất khả thi là đạt tới vận tốc hai mươi nút. Ông Gillespie thực sự hài lòng khi nhớ lại những người đã tạo ra chiếc tàu từng tuyên bố nó sẽ đạt tới vận tốc tối đa là mười tám nút, vào hai mươi hai năm trước, khi chiếc tàu hạ thủy.

Ông vui vì chiếc tàu cũ kỹ của mình đã tới điểm hẹn sớm hơn tám tiếng. Nước ở đây quá sâu để thả neo, vì vậy ông cho tàu chạy tới mép ngoài của khối băng trước khi ra lệnh tắt động cơ. Sau đó, ông thuyền trưởng báo cho Đô đốc Sandecker biết tàu Polar Storm đã tới trạm Syowa và đợi lệnh.

Câu trả lời thật ngắn gọn, “Chuẩn bị nhận một thông điệp”.

Thời gian nghỉ ngơi cho mọi người cơ hội làm nốt công việc dở dang của họ. Những nhà khoa học bận rộn phân tích và ghi chép những khám phá của mình vào máy tính, trong lúc đoàn thủy thủ lo sửa chữa định kỳ dành cho chiếc tàu.

Họ không phải chờ đợi lâu.

Vào buổi sáng ngày thứ năm, từ lúc rời biển Weddell, lúc ông Gillespie đang quan sát khối băng trôi qua cái ống dòm thì ông nhìn thấy một chiếc trực thăng chậm chạp hiện ra trong màn sương buổi sáng sớm. Nó bay theo một đường thẳng về phía chiếc tàu Polar Storm. Ông ra lệnh cho viên sĩ quan thứ nhì của mình đón tiếp chiếc trực thăng sẽ hạ cánh trên boong sau tàu.

Chiếc trực thăng dừng một chỗ trong vài giây rồi đáp xuống boong tàu. Một người đàn ông xách một chiếc valy nhỏ và một túi vải nhảy xuống từ một cánh cửa máy bay và nói gì đó với viên sĩ quan thứ nhì của ông Gillespie. Rồi anh ta quay lại và vẫy tay chào viên phi công đã chở anh tới chiếc tàu. Cánh quạt tăng tốc và chiếc trực thăng bốc lên vào bầu không khí lạnh lẽo trong lúc Pitt bước lên đài chỉ huy tàu Polar Storm.

“Hêlô, Dan”, anh nồng nhiệt chào ông thuyền trưởng. “Rất vui gặp cậu”.

“Dirk! Cậu từ đâu đến?”

“Từ Punta Arenas tại eo biển Magellan trên chiếc phản lực của không quân đến đường băng gần trạm nghiên cứu của Nhật Bản. Họ có lòng tốt cho một trực thăng mang tôi tới đây”.

“Cái gì mang cậu đến tận Nam Cực thế?”

“Một dự án nghiên cứu nhỏ tại vành đai Nam Cực”.

“Tôi biết ông Đô đốc có thứ gì đó giấu trong tay áo. Ông ta không hề hé răng với tôi về chuyện cậu sẽ tới đây”.

“Ông ấy có lý do của mình”, Pitt đặt cái va li lên bàn để bản đồ, mở ra và đưa cho ông Gillespie một tờ giấy ghi những tọa độ. “Và đó là thân phận của chúng ta “.

Ông thuyền trưởng nhìn những con số chỉ tọa độ rồi nhìn vào tấm hải đồ. “Vịnh Stefansson”, ông ta bình thản nói. “Cũng gần đây thôi, trên bờ biển Kemp không xa đảo Hobbs lắm. Nơi đó chẳng có gì hấp dẫn đâu. Một nơi vô sinh tôi từng trông thấy. Chúng ta tìm thứ gì ở đó?”

“Một chiếc tàu vô chủ”.

“Tàu bị đắm dưới khối băng?”

“Không”, Pitt trả lời với một nụ cười nửa miệng. “Bị kẹt trong băng”.

Thậm chí vịnh Stefansson trông còn heo hút và hoang sơ hơn cả mô tả của ông Gillespie về nó, đặc biệt dưới một bầu trời dày đặc mây đen như than đốt, và mặt biển ảm đạm với những tảng băng trôi đầy đe dọa. Những cơn gió quất lên mặt mũi như những mũi kim và Pitt bắt đầu nghĩ đến những nỗ lực đòi hỏi sự vận động cơ bắp để vượt qua những tảng băng và tiếp cận bờ địa cực. Máu trong người như chảy mạnh hơn khi anh nghĩ đến chuyện sẽ thám hiểm một chiếc tàu chưa ai đặt chân lên boong của nó từ năm 1858.

Liệu nó còn ở đó không, anh tự hỏi, đúng như Rosanna Mender và chồng bà đã phát hiện nó gần một thế kỷ rưỡi trước? Hay cuối cùng nó đã vỡ nát vì bị những khối băng ép mạnh, hoặc nó đã trôi giạt ra biển và bị đắm dưới nước biển lạnh buốt?

Pitt nhìn thấy thuyền trưởng Gillespie đang đứng một bên cánh đài chỉ huy, nhìn qua ống dòm về phía xa đằng sau con tàu phá băng. “Tìm cá voi à?” anh hỏi.

“Tàu ngầm”, ông Gillespie thật thà trả lời.

Pitt nghĩ ông thuyền trưởng nói đùa. “Không có nhiều bầy sói trong vùng biển này chứ?”

“Chỉ có một”, ông Gillespie vẫn áp sát cái ống dòm lên mắt. “Chiếc U-2015. Nó cứ bám theo đường rẽ nước của tàu chúng tôi hầu như từ khi chúng tôi suýt va chạm nó mười ngày trước”.

Pitt vẫn chưa tin những gì anh nghe. “Cậu nghiêm chỉnh đấy chứ?”.

Cuối cùng, ông Gillespie hạ ống dòm xuống. “Hoàn toàn nghiêm chỉnh”. Rồi ông bắt đầu kể với Pitt về chuyện gặp chiếc tàu ngầm. “Tôi nhận ra nó từ một tấm ảnh cũ trong thư viện hàng hải của tôi. Không có gì đáng ngờ nữa. Đúng là chiếc U-2015. đừng hỏi tôi bằng cách nào nó còn tồn tại sau tất cả những năm đó hoặc tại sao nó bám theo chiếc tàu này. Tôi không thể trả lời. Tất cả những gì tôi biết là nó đang lẩn quẩn ở đây”.

Pitt đã làm việc chung với thuyền trưởng Gillespie ít nhất trong bốn dự án sau nhiều năm. Anh biết ông ta là một trong những thuyền trưởng đáng tin cậy nhất trong đoàn tàu thám hiểm của NUMA. Dan Gillespie không phải là một gã ba hoa hoặc một kẻ dựng chuyện huyễn hoặc. Ông ta là một người tỉnh táo và quyết đoán, và trong lý lịch chưa hề có một vết đen nào. Chưa gây tai nạn hoặc thương tích cho chiếc tàu từ ngày ông lèo lái nó.

“Ai có thể tin sau chừng đó năm...” giọng nói của Pitt nhỏ dần. Anh cũng không tin chắc những gì mình nói.

“Không cần đọc tư tưởng của cậu tôi cũng biết cậu đang nghĩ tôi bịa chuyện”, ông Gillespie nghiêm chỉnh nói. “Nhưng tôi sẽ chứng tỏ điều đó. Cô Evie Tan, hiện đang có mặt trên tàu để làm một phóng sự về cuộc thám hiểm cho một tạp chí quốc gia, đã chụp ảnh được chiếc tàu ngầm khi chúng tôi suýt va đụng nó”.

“Lúc đó cậu có thấy đặc điểm nào của nó không?” Pitt hỏi vặn. “Loại có kính tiềm vọng hay loại có ống thông hơi?”

“Nó vừa trồi lên lại lặn xuống ngay”, ông Gillespie trả lời.

“Vậy do đâu cậu chắc chắn là nó vẫn quanh quẩn đâu đây?”

“Một trong những nhà khoa học của chúng tôi thả những micro khuyếch âm, loại dùng dưới nước, qua mạn tàu... Ông ta dùng chúng để ghi âm cá voi nói chuyện với nhau. Chúng tôi bố trí bộ phận nghe cách ba phần tư dặm phía sau chiếc tàu. Vì vậy chúng tôi nghe được tiếng động cơ của chiếc tàu ngầm rõ ràng như tiếng chó sủa”.

“Một khái niệm không tồi, nhưng tôi muốn kéo một quả bóng thăm dò thời tiết có gắn máy đo từ trường, như thế tốt hơn”.

Ông Gillespie bật cười “Cũng là một khái niệm không tồi. Chúng tôi đã nghĩ tới chuyện đặt máy quét bên mạn tàu để dò bắt âm thanh rõ hơn, và điều đó có vẻ quá mạo hiểm vì dễ bị chúng phát hỉện và phá hoại. Tôi hy vọng cậu có thể tìm ra một giải pháp tốt nhất”.

Một ý nghĩ chợt lóe lên trong đầu Pitt. Anh bắt đầu tự hỏi liệu có phải anh đã không nhận định một cách khách quan? Thậm chí ý nghĩ có sự liên quan giữa những gã giết mướn của Đệ Tứ Đế quốc và chiếc tàu ngầm cũ kỹ cũng là một ý nghĩ điên rồ. Và chưa có dấu hiệu nào trong toàn bộ âm mưu này tỏ ra có ý nghĩa”.

“Hãy thông báo cho ông Đô đốc”, Pitt yêu cầu. “Bảo ông ấy chúng ta cần sự giúp đỡ”.

“Như thế có quấy rầy ông ấy không?” ông Gillespie nói, tỏ ra phân vân. “Ta cứ tìm cách giấu tung tích và chơi trò mèo vờn chuột”.

Pitt nhẹ lắc đầu, tỏ ra không đồng ý. “Tôi sợ con quỉ của chúng ta sẽ chờ cơ hội. Chúng đợi kết quả từ chiếc tàu Madras”.

“Đó là tên chiếc tàu vô chủ phải không?”

Pitt gật đầu. “Một chiếc tàu của Đông An công ty mất tích năm 1779”.

“Và cậu nghĩ nó bị kẹt trong băng tại một nơi nào đó dọc bờ biển địa cực?” Ông Gillespie hỏi với vẻ ngờ vực.

“Tôi hy vọng nó vẫn còn nằm tại chỗ cũ”.

“Trên tàu có thứ gì mà NUMA xem quan trọng đến thế?”

“Mọi câu trả lời đều dẫn tới sự kiện làm điên đầu người ta”.

Ông Gillespie không yêu cầu được giải thích nhiều hơn. Nếu đó là tất cả những gì Pitt muốn cho ông biết, ông chấp nhận điều đó. Trách nhiệm của ông là bảo vệ chiếc tàu và những người có mặt trên tàu. Ông sẽ tuân thủ mọi mệnh lệnh từ ông chủ của mình tại NUMA mà không thắc mắc gì, trừ phi những mệnh lệnh đó xâm phạm sự an ninh của tàu Polar Storm.

“Cậu muốn tôi cho tàu xâm nhập cách khối băng bao xa?”

Pitt đưa cho ông thuyền trưởng một mẩu giấy. “Tôi rất biết ơn nếu cậu đưa tàu Polar Storm vào đúng tọa độ này”.

Ông Gillespie nhìn những con số trên mảnh giấy một lúc. “Không biết băng ở tọa độ này dày mỏng thế nào, những tôi sẽ đưa cậu đến đó càng gần càng tốt”.

“Tôi có thể hỏi do đâu cậu có những con số này không?”

“Trong nhật ký của tàu Paloverde, một chiếc tàu săn cá voi đã phát hiện chiếc tàu của Đông An công ty đã lâu lắm rồi. Chẳng có gì bảo đảm độ chính xác của chúng cả”.

“Cậu biết đấy”, ông Gillespie nói với vẻ ủ rũ, “những chủ tàu săn cá voi trước kia có thể đưa tàu của họ đến bất kỳ nơi tối tăm nào, nên tôi cũng khó lòng đưa chiếc tàu của tôi đến gần nơi họ đã tới”.

Chiếc tàu Polar Storm xâm nhập vào vùng băng trôi và tiếp cận những khối băng dày đặc như một mạng lưới, chẳng khác gì một cầu thủ hậu vệ chạy xuyên qua một rừng cầu thủ đối phương. Trong dặm đầu tiên, những khối băng không dày hơn một bộ, và mũi chiếc tàu phá băng đẩy chúng dạt sang hai bên khá dễ dàng. Nhưng càng gần bờ, khối băng bắt đầu phình lớn ra và dày tới ba đến bốn bộ. Rồi chiếc tàu chậm dần và dừng lại. Nó lùi để lấy trớn rồi tiếp tục lao vào khối băng, tạo một khe nứt và một lối đi dài mười lăm bộ, cho tới khi khối băng khép lại và ngăn cản nó tiến tới. Sự việc cứ diễn đi diễn lại, và mũi tàu phá băng cứ tiến dần từng quãng một.

Óng Gillespie theo dõi kết quả việc phá băng. Ông ta đang ngồi trên một cái ghế xoay lớn, quan sát màn hình của cái máy dò âm thanh dưới biển sâu chuyển những ký hiệu âm thanh từ đáy biển lên. Những ký hiệu nẩy trả lại và báo hiệu khoảng cách tính bằng bộ giữa sống tàu và đáy biển. Vùng biển này chưa được nghiên cứu độ sâu, nên đáy biển không được đánh dấu trên những tấm hải đồ.

Pitt đứng cách đó vài bộ, nhìn qua cái ống dòm mượn của ông Gillespie, thu ngắn khoảng cách của khối băng sáng rực rỡ dưới ánh mặt trời. Những khối băng dốc đứng nằm gần bờ địa cực nhô cao đến hai trăm bộ trước khi mở rộng ra thành một mặt phẳng mênh mông về phía địa cực. Anh quét ống dòm dọc theo chân những khối băng, cố phát hiện một vài dấu vết của chiếc tàu Madras bị giam trong băng. Không một dấu hiệu nào được nhìn thấy, không có thân sau chiếc tàu nào kẹt trong băng, không một cột buồm ló lên khỏi những vách băng.

“Ông Pitt?”

Anh quay lại và chạm trán một người đàn ông lùn và mập, khoảng gần bốn mươi tuổi, đang mỉm cười với anh. Gương mặt ông ta đỏ hồng và hiền lành với đôi mắt màu xanh lục, sáng lóng lánh và cái miệng rộng cong lại vì nụ cười. Một bàn tay thật mềm mại chìa ra.

“Vâng”, Pitt chỉ đơn giản trả lời, ngạc nhiên vì bàn tay mềm mại đó lại siết bàn tay anh thật chắc.

“Tôi là Ed Northrop, trưởng nhóm các nhà khoa học và băng hà học ở đây. Tôi không nghĩ tôi cảm thấy thích thú lắm”.

“Tiến sĩ Northrop. Tôi thường nghe Đô đốc Sandecker nói về ông”, Pitt nói, vui vẻ.

“Vậy à?” ông Northrop bật cười.

“Thật ra thì ông Đô đốc không bao giờ tha lỗi cho ông vì đã bỏ những cục băng vào giày bốt của ông ấy trong lần thám hiểm tại phía bắc biển Bering”.

“Thù dai dữ. Chuyện đó đã xảy ra mười lăm năm rồi còn gì”.

“Và ông cũng đã trải qua chừng đó năm tại Bắc Cực và Nam Cực”.

“Tôi đã nghiên cứu những biển băng được mười tám năm. Nhân tiện, tôi tình nguyện bám sát ông trong chuyến đi này”.

“Xin đừng nghĩ tôi ích kỷ, nhưng tôi nên đi một mình thì hơn”.

Ông Northrop gật đầu và ôm cái bụng bự với cả hai bàn tay.

“Đâu có hại gì nếu có một người tốt đi cùng và anh ta, khá hiểu biết về băng, vả lại tôi rất bền bỉ, không giống vẻ bề ngoài đâu”.

“Xem ra tôi bị thuyết phục mất rồi”.

“Tới rồi! “, ông Gillespie đột ngột kêu lên. Rồi ông gọi xuống phòng máy. “Dừng tất cả lại, cơ trưởng. Chúng ta đã đến nơi cần đến”. Ông quay sang Pitt. “Chúng ta đang ở đúng vị trí kinh độ và vĩ độ cậu yêu cầu”.

“Cám ơn Dan, cậu tài thật. Đây chính là địa điểm tàu Paloverde bị kẹt trong băng vào mùa đông Nam Cực năm 1858”.

Tiến sĩ Northrop nhìn qua cửa sổ đài chỉ huy về phía khối băng trải dài từ chiếc tàu đến bờ. “Từ đây tới đó khoảng hai dặm. Một chuyến đi bộ ngắn trong bầu không khí trong lành này sẽ giúp chúng ta khỏe khoắn”.

“Không có chiếc xe trượt băng nào trên tàu à?”

“Rất tiếc, công việc của chúng tôi chỉ thu hẹp trong phạm vị cách tàu một trăm mét. Chúng tôi thấy không cần tăng thêm phí tổn vào ngân sách dự án”.

“Nhiệt độ bầu không khí lúc này bao nhiêu?”

“Từ năm đến mười độ dưới số không. Tương đối ấm tại những vùng này”.

“Tôi không thể đợi lâu hơn nữa”. Pitt có vẻ nôn nóng.

“Cậu phải nghĩ đã gặp may vì bây giờ là mùa thu. Vào mùa xuân lạnh hơn nhiều”.

“Tôi thích những miền nhiệt đới hơn, với những cơn gió mậu dịch ấm áp và những cô gái đáng yêu trong những chiếc xà rông quay tròn, theo tiếng trống trong lúc mặt trời lặn”.

Đôi mắt Pitt quét dọc thân thể một phụ nữ châu Á hấp dẫn đang bước thẳng tới chỗ anh. Cô mỉm cười và nói, “Ông không quá ấn tượng đấy chứ?”

“Đó là bản chất của tôi mà”.

“Người ta bảo tôi ông là Dirk Pitt”.

Anh mỉm cười thân thiện. “Hy vọng như vậy. Và chắc cô là Evie Tan. Dan Gillespie cho tôi biết cô đang thực hiện một phóng sự bằng ảnh về những thám hiểm liên quan đến băng tại địa cực”.

“Tôi được đọc nhiều về những kỳ công của ông. Tôi có thể phỏng vấn khi ông trở về, sau chiến dịch tìm kiếm này chứ?”

Theo bản năng, Pitt ném cho ông Gillespie một ánh mắt dò hỏi, và ông này lắc đầu. “Tôi chả nói gì về mục đích của cậu”.

Pitt siết nhẹ bàn tay cô chìa ra. “Tôi sẽ rất vui được dành cho cô một buổi phỏng vấn, nhưng bản chất dự án của chúng tôi không liên quan đến băng giá”.

“Vậy nó dính líu tới quân đội?” cô hỏi, vẻ mặt vô thưởng vô phạt.

Ngay lập tức Pitt bắt thóp được thói tọc mạch của cô gái. “Chẳng dính líu gì tới những họat động bí mật của quân đội hoặc dính líu tới những kho báu trên những chiến thuyền Tây Ban Nha, hoặc những người tuyết khủng khiếp cả. Thực ra, câu chuyện u ám lắm, tôi không tin bất kỳ một ký giả tự trọng nào lại có thể quan tâm đến vụ này”. Rồi anh nói với ông Gillespie. “Có vẻ như chúng ta đã bỏ chiếc tàu ngầm lại phía ngoài những tảng băng trôi”.

“Hoặc như thế”, ông thuyền trưởng nói, “hoặc chúng vẫn bám sát chúng ta bên dưới những khối băng”.

“Chúng đã sẵn sàng đối đầu với ông”, sĩ quan thứ nhất Bushey nói với Pitt.

“Tôi sẽ chờ”.

Đoàn thủy thủ hạ cầu và chuyển xuống mặt băng ba xe chở dụng cụ, một chiếc chở những thiết bị cắt băng được che bằng vải dầu. Hai chiếc kia chỉ chở những dây buộc để bảo vệ những cổ vật họ có thể tìm thấy. Pitt đứng giữa khối tuyết dày một bộ, nhìn ông Gillespie đang nói với một người đàn ông có hình dáng và kích cỡ của một con gấu Kodiak. “Tôi sẽ gởi viên sĩ quan thứ ba của tôi đi cùng cậu và Tiến sĩ Northrop. Đây là Ira Cox”.

“Rất vui gặp tất cả các vị”, Cox nói qua chòm râu dài tới ngực. Giọng nói của anh ta có vẻ như từ một nơi nào đó dưới sâu vọng lên. Anh ta không chìa tay ra. Những ngón tay kếch sù của anh ta bọc kín trong những chiếc găng tay to kềnh dành cho vùng cực.

“Không còn ai khác tình nguyện sao?”

“Ý kiến của tôi đấy”, ông Gillespie nói, “tôi không thể cho phép một trong các thành viên hàng đầu của Đô đốc Sandecker làm việc đơn độc trên một vùng băng đỏng đảnh khó lường như thế này. Tôi không chịu nổi trách nhiệm đâu. Theo cách của tôi, nếu các vị gặp sự cố, các vị sẽ có nhiều cơ hội sống sót hơn. Nếu các vị lỡ có rơi vào tay một con gấu vùng cực, Cox sẽ vặn cổ nó tới chết”.

“Làm gì có gấu địa cực tại Nam Cực chứ”.

Ông Gillespie nhìn Pitt và nhún vai, “Tại sao không phòng ngừa nhỉ?”

Pitt không kháng cự. Tự đáy lòng, anh biết nếu có xảy ra chuyện tồi tệ nhất, một hoặc cả hai người đàn ông này có thể sẽ cứu sống anh.

Trong lúc mùa thu đang ngự trị khắp Nam Cực, biển quanh lục địa này cũng động dữ dội. Nhưng khi mùa đông đến và nhiệt độ giảm xuống, nước trở nên đậm đặc và bóng loáng như được bôi dầu. Sau đó, những mảnh băng tạo nên những cái đĩa trôi được gọi là “bánh kẹp”, lan rộng và dính vào nhau, và sau cùng tạo ra những tảng băng trôi phủ đầy tuyết. Vì năm nay băng hình thành sớm hơn mọi năm, nên Pitt, ông Northrop và Cox di chuyển không mấy khó khăn qua lớp băng gồ ghề nhưng trên mặt lại trơn láng. Họ đi vòng qua những chỗ băng nhô cao và hai tảng băng trôi đã rời khỏi bờ biển trước khi bị đông cứng trong khối băng. Đối với Pitt, những tảng băng trôi trông giống những cục bướu xấu xí trên một cơ thể nham nhở là mặt biển chung quanh.

Những vất vả khi phải vượt qua lớp tuyết dày cả bộ vẫn không làm chậm hành trình của họ. Bước chân của họ vẫn vững vàng. Tiến sĩ Northrop dặn đầu, quan sát khối băng lúc đi tới đề phòng mọi hiện tượng băng vỡ hoặc bị lạc. Ồng ta không phải kéo chiếc xe chở dụng cụ nên được rảnh tay để kiểm soát mặt băng. Vừa kéo một xe dụng cụ, Pitt theo sau ông Northrop, anh di chuyển dễ dàng nhờ những tấm ván trượt băng đã lấy từ nhà kho của cha anh tại Breckenridge, bang Colorado. Cox đi cuối cùng, kéo cả hai xe dụng cụ mà vẫn tỏ ra không hề cố gắng, như thể kéo hai món đồ chơi.

Hôm nay thời tiết thật đẹp, mặt trời rực rỡ trên một bầu trời trong vắt không một gợn mây đến tận chân trời. Màu xanh của bầu trời dần dần biến thành trắng xám và mặt trời trở thành một quả cầu màu cam nhạt. Những bông tuyết bắt đầu rơi, có thể nhìn thấy rõ ràng. Pitt không quan tâm đến chuyện thời tiết trở nên xấu đi, và không cho phép đầu óc bận bịu với mặt biển màu lục chỉ cách bàn chân anh một sải tay dưới kia. Anh không hề rời mắt khỏi những vách băng càng lúc càng cao hơn bên trên những tấm ván trượt của anh khi họ đến gần hơn. Anh có thể nhìn thấy ngọn núi Hansen phủ băng về phía đất liền, nhưng vẫn chưa thấy bất kỳ dấu hiệu nào, dù lờ mờ của chiếc tàu bị kẹt trong băng. Anh bắt đầu có cảm giác lạc lõng trong vùng mênh mông, hẻo lánh, vĩnh viễn không có người ở này.

Hơn một giờ sau, họ đã qua hết khối băng trôi và đến chân những vách băng dựng đứng. Ông Gillespie theo dõi mọi hành động của họ cho tới lúc họ dừng lại tại mép phía trong của khối băng. Những bộ quần áo màu ngọc lam do NUMA cung cấp khiến họ dễ dàng được nhận ra trên nền trắng lóa mắt của băng. Anh kiểm tra dụng cụ báo thời tiết có đến hàng chục lần. Tuyết vẫn rơi nhẹ và trời không có gió nhưng anh biết rõ hiện tượng này có thể thay đổi chỉ trong vài phút. Và gió thực sự là một nhân tố khó hiểu nhất. Không hề báo trước, nó có thể nhanh chóng biến đổi màu trắng chói chang trên mặt băng trở thành xám xịt kèm theo những tiếng hú rợn người.

Ông Gillespie nhấc điện thoại truyền qua vệ tinh của chiếc tàu lên, rồi bấm một chuỗi số. Ngay lập tức ông được nối dây với Đô đốc Sandecker. “Họ đã lên bờ và bắt đầu tìm kiếm”, ông thông báo cho chủ mình.

“Cám ơn cậu, Dan”, ông Sandecker trả lời. “Hãy báo cáo khi họ trở về”.

“Còn một chuyện khác nữa, thưa Đô đốc. Tôi sợ là chúng tôi sẽ gặp trở ngại”. Rồi ông thuật ngắn gọn câu chuyện chiếc tàu ngầm. Lúc ông kết thúc, một khoảnh khắc im lặng kéo dài, có lẽ ông Đô đốc dành thì giờ để tiêu hóa hết những gì mình vừa nghe.

Sau cùng, ông nói dứt khoát, “Tôi sẽ lo vụ này”.

Ông Gillespie trở lại đài chỉ huy và lại nhấc cái ống dòm lên. “Tất cả những sự việc này đều nhắm vào chiếc tàu vô chủ”, ông nói như một hơi thở. “Tốt hơn ta phải tỏ ra xứng đáng”.

Trên bờ, Pitt cố xua đuổi cảm giác chán nản. Anh biết quá rõ bất kỳ sự tìm kiếm nào về một thứ gì đó đã thất lạc quá lâu là cả một công việc gian nan. Không có cách nào để xác định có bao nhiêu lớp băng đã che lấp chiếc tàu trong suốt một trăm năm mươi năm. Theo tất cả những gì anh biết, có thể nó đã nằm sâu dưới cả trăm mét trong khối băng. Lấy vị trí chiếc tàu Polar Storm như một khởi điểm cơ bản, anh phỏng đoán họ đã cách nó khoảng hai dặm. Pitt và Cox mỗi người sử dụng một: máy định vị cầm tay nhỏ có kích cỡ bằng một bao thuốc lá để xác định vị trí của họ bất kỳ lúc nào. Họ bắt đầu leo lên, bỏ lại những xe chở dụng cụ tại địa điểm xuất phát này. Pitt đi đầu, hướng về bên trái, trong lúc Cox và ông Northrop lùng sục bên phải. Đến khi mỗi người bọn họ đi được chừng một dặm, họ đồng ý trở lại điểm xuất phát.

Đi nhanh hơn những người kia nên Pitt là người đầu tiên trở lại chỗ những xe chở dụng cụ. Sau một lúc xem xét từng khoảng cách nhỏ bên dưới những vách băng dựng đứng, anh chán nản vì không tìm ra dấu vết nào của chiếc tàu Madras. Ba mươi phút sau, nhà băng hà học về tới, ngồi dựa lưng vào một gờ băng nhỏ, chân tay duỗi thẳng ra, lấy lại hơi thở, xoa bóp đầu gối và mắt cá. Ông ta nhìn Pitt và phác một cử chỉ thất vọng.

“Rất tiếc, Dirk, tôi chẳng thấy gì trong khối băng có hình dáng một chiếc tàu cả”.

"Tôi cũng chẳng hơn gì ông”, Pitt nói.

“Tôi không thể nói gì nếu không có kiểm chứng, nhưng tôi dám cá là đã có lúc nào đó, khối băng vỡ ra và trôi đi, mang theo chiếc tàu cùng với nó ra biển”.

Giọng nói của ông Gillespie từ túi áo jacket bằng lông cừu của Pỉtt vọng ra. Anh lấy một máy bộ đàm cầm tay liên lạc giữa bờ và tàu, và trả lời. “Nói đi, Dan, tôi nghe cậu rất rõ”.

“Có vẻ sắp có bão lớn”, ông Gillespie cảnh báo. “Các bạn nên trở lại tàu càng nhanh càng tốt”.

“Chuyện này thì không chần chừ được. Sẽ sớm gặp lại cậu”.

Pitt nhét cái máy bộ đàm vào túi áo, nhìn lên phía băng trôi về phía bắc, và chỉ thấy trống trơn. “Ông rời Cox tại điểm nào?”

Bị hỏi đột ngột, ông Northrop ngồi thẳng lên và nhìn qua khối băng. “Cậu ta tìm thấy một khe hở trên vách băng và lách vào. Lúc đó tôi nghĩ cậu ta vào xem qua rồi sẽ quay ra ngay và đi theo tôi”.

“Tốt hơn tôi nên tìm cậu ta”.

Pitt lao đi trên hai tấm ván trượt theo dấu chân còn hiện rõ trên mặt tuyết. Hai dấu chân đi nhưng chỉ một dấu chân trở về. Gió nhanh chóng mạnh hơn, những bông tuyết nhỏ li ti trở nên dày hơn, như một tấm lụa mỏng. Ánh sáng rực rỡ bỗng chốc mờ đục và mặt trời hoàn toàn biến mất. Anh không thể không ngưỡng mộ sự can đảm của bà Rosanna Mender. Anh nghĩ sự kiện bà đã sống sót sau trận bão tuyết lạnh buốt quả là một phép lạ. Anh nhận ra mình đang trượt đi dưới những doi băng hiện ra lờ mờ trên đầu mình, và có cảm giác bất cứ lúc nào một trong những doi băng đó cũng có thể rơi xuống vùi chôn anh.

Anh nghe tiếng gọi lớn bị tắt nghẹn vọng lại từ một nơỉ không xa lắm lẫn trong tiếng gió rít. Anh dừng lại và lắng nghe, tai vểnh lên như muốn xé rách tấm màn băng.

“Ông Pitt! Đến đây!”.

Lúc đầu, Pitt không trông thấy gì trừ vách khối băng trắng bệch đông cứng. Sau đó anh thoáng thấy một mảnh vai màu ngọc lam ve vẩy trên đầu một ngọn giáo ló ra từ vách khối băng. Pitt nhấn hai đầu cặp gậy trượt xuống mặt tuyết và lướt về phía Cox. Anh có cảm tưởng mình giống như Ronald Colman tại Lost Horizon, vùng vẫy trượt qua cơn bão tuyết khủng khiếp của ngọn Himalaya để vào được hang động đưa ông ta tới Shangri-la. Trong phúc chốc, anh đã lọt vào một khe nứt và sau đó, nhận ra mình đang ở trong một nơi không có gió, khô ráo và yên tĩnh.

Anh chồm tới trên hai cây gậy trượt tuyết và nhìn chung quanh một căn hầm bằng băng rộng mỗi bề khoảng tám bộ và phía trên thu hẹp lại như một chóp núi cao khoảng hai mươi bộ. Từ lối vào, màu tro xám của căn hầm chuyển dần thành màu đen ngà. Vật duy nhất có màu sắc rõ ràng anh có thể nhìn thấy là bộ quần áo chống lạnh của Cox.

“Một trận bão dữ đang thành hình”, Pitt nói, chỉ về hướng lối vào. “Tốt nhất là ta nên quay lại tàu ngay”.

Cox kéo cặp kính bảo hộ lên, nhìn Pitt với ánh mắt kỳ lạ. “Ông muốn rời nơi này à?”

“Ở đây tốt thật, nhưng chúng ta không được phí phạm thì giờ”.

“Tôi nghĩ ông đang tìm kiếm một chiếc tàu cũ phải không?”

“Tôi cũng nghĩ thế”, Pitt có vẻ cáu.

Cox đưa bàn tay đeo găng lên, duỗi thẳng ngón trỏ về một hướng trên cao. “Sao?”

Pitt ngước nhìn. Chỗ đó, gần đỉnh khe nứt, một phần nhỏ bằng gỗ của đuôi một chiếc tàu cũ chạy buồm nhô ra khỏi khối băng.

Pitt trượt tuyết trở lại chỗ Tiến sĩ Northrop và họ cùng kéo ba chiếc xe trượt tuyết chở dụng cụ vào trong căn hầm băng. Pitt cũng thông báo vắn tắt cho thuyền trưởng Gillespie về phát hiện của họ và bảo đảm với ông ta rằng họ an toàn và ấm áp trong căn hầm.

Cox nhanh chóng lấy ra những dụng cụ và bắt đầu tấn công tảng băng với một cái búa và đục, tạo chỗ bám để đặt tay chân thành một bậc thang để leo lên chỗ lộ ra của chiếc tàu bị băng chôn vùi. Boong trên cùng của chiếc tàu không bị băng bao phủ khi bà Rosanna và chồng - thuyền trưởng Bradford Mender - xâm nhập tàu Madras. Nhưng trải qua một trăm bốn mươi năm, băng đã hoàn toàn phủ kín chiếc tàu cho tới đỉnh những cột buồm của nó.

“Tôi rất ngạc nhiên khi thấy nó được bảo quản tốt như thế”, ông tiến sĩ nói. “Tôi tưởng cho tới lúc này nó đã bị ép nát như những cây tăm xỉa răng rồi chứ”.

“Nó chứng tỏ rồi đấy”, Pitt nói, giọng khô khan. “Các nhà băng hà học đã nhầm”.

“Nghiêm chỉnh mà nói, sự kiện này đáng nghiên cứu kỹ lưỡng. Những vách băng ở đây, tại bờ biển, đã trồi lên và không bị vỡ. Đó là một hiện tượng rất không bình thường. Phải có một lý do xác đáng giải thích tại sao khối băng ở đây cứ cao lên mà không bị đẩy ra biển”.

Pitt ngước nhìn Cox đang đục một bậc cấp dẫn lên chỗ thân tàu lộ ra. “Tại sao cậu làm như thế, Ira?”

“Những tấm ván vách tàu cũng bị đông cứng và trở nên dễ vỡ như cặp mắt kính của bà nội tôi. Tôi phải khoét một cái lỗ đủ bự để chui vào bên trong thân tàu trong một giờ nữa”.

“Coi chừng cậu đục trúng ngay sườn tàu thì may ra một tuần lễ nữa cậu mới chui qua đấy”.

“Tôi biết một chiếc tàu được kiến trúc như thế nào mà, ông Pitt”, Cox chọc tức.

“Câu làm gì cũng được”, Pitt thân mật nói, “miễn là bốn mươi phút nữa chúng ta sẽ lọt vào bên trong chiếc tàu và thuyền trưởng Gillespie sẽ thưởng cậu một chai có dây nơ xanh về tài đục băng của cậu”.

Cox không phải là người dễ tiếp cận. Anh ta có rất ít bè bạn trên tàu Polar Storm. Ấn tượng đầu tiên của anh ta về Pitt là “thằng nhóc này trông sao mà quan liêu thế, cứ ra cái điều ta đây là một trong những nhân vật sừng sỏ của NUMA”, nhưng lúc này, anh ta đã nhận ra gã giám đốc dự án đặc biệt của NUMA là một người bình dị, có chiều sâu nhưng lại rất hài hước. Anh ta thực sự bắt đầu thích Pitt. Cảm giác lạnh nhạt bắt đầu tan biến.

Ba mươi bốn phút sau, Cox leo xuống và loan báo thắng lợi. “Đã có lối vào, thưa quí ông”.

Pitt cúi đầu thật sâu. “Cám ơn cậu, Ira. Đại tướng Lee phải hãnh diện vì cậu đấy”. (Đại tướng Robert E.Lee và Thomas “Tường đá” Jackson là hai tướng lãnh sáng chói nhất của 11 bang ly khai miền Nam trong cuộc Nội chiến Hoa Kỳ. ND.)

Cox cúi đầu trả lễ. “Như tôi thường nói “hãy dành dụm tiền bạc cho các bang ly khai”. Ông làm sao biết được các Bang ly khai có thể lại nổi dậy lắm chứ”.

“Tôi tin chuyện đó có thể xảy ra mà”.

Pitt leo lên những bậc thang Cox đã đục vào tảng băng và là người đầu tiên chui qua lỗ trống. Đôi giày bốt của anh chạm sàn tàu cách lỗ trống khoảng bốn bộ về phía dưới. Anh nhận ra mình đang lọt vào một cabin gần phần sau thân tàu.

“Thấy gì không?” ông Northrop nôn nóng hỏi.

“Một căn bếp đóng băng”, Pitt trả lời. Anh ló đầu ra ngoài lỗ trống. “Lên đi, và mang theo đèn chiếu”.

Cox và ông Northrop nhanh chóng nhập bọn với Pitt. Những đèn chiếu của họ soi sáng khắp căn phòng như ánh sáng ban ngày. Ngoại trừ những lớp bồ hóng bám vào ống khói cái lò bếp bằng sắt lớn và những lò nướng, căn bếp trông thật lạnh lẽo như thể nó chưa bao giờ được dùng tới. Pitt mở cửa lò nướng nhưng không thấy có tro bên trong.

“Những kệ để đồ dùng đều trống trơn”, Cox nhận xét. “Chắc chắn họ đã ăn cả giấy, thùng chứa và ly tách”.

“Có lẽ chỉ ăn giấy thôi”, ông Northrop nói khẽ, bắt đầu cảm thấy nặng nề.

“Chúng ta cùng tập trung quan sát”, Pitt đề nghị, “Một trong chúng ta có thể phát hiện điều gì đó mà những người khác bỏ sót”.

“Chúng ta phải tìm kiếm loại đặc biệt gì?” Cox hỏi.

“Một phòng chứa cổ vật nằm ngay bên dưới cabin thuyền trưởng”.

“Tôi cho rằng phải có đến hai hoặc nhiều boong tàu bên dưới chỗ chúng ta đang đứng”.

“Phòng này chắc hẳn là căn bếp dành cho các sĩ quan trên tàu và hành khách. Cabin thuyền trưởng cũng gần đâu đây thôi. Chúng ta hãy tìm một hành lang bên dưới”.

Pitt bước qua một cánh cửa và chiếu ngọn đèn của mình vào một phòng ăn tập thể. Bàn, những cái ghế và các thứ đồ gỗ chung quanh đều bị phủ một lớp băng dày đến một inch. Dưới ánh sáng những bóng đèn cao áp của họ, cả căn phòng lấp lánh như một ngọn đèn chùm. Một bộ đồ trà nằm ngay giữa bàn ăn như đang đợi người sử dụng nó.

“Chẳng có ai ở đây cả”, ông Northrop nói, đã có vẻ bớt căng thẳng.

“Tất cả đều chết trong cabin của họ”, Pitt nói. “Có lẽ do cả ba nguyên nhân là thân nhiệt giảm, đói và thiếu vitamin”.

“Chúng ta sẽ tiếp tục đi đâu?” Cox hỏi

Pitt chiếu đèn qua một cánh cửa phía cuối cái bàn ăn. “Qua bên đó, chúng ta sẽ tìm thấy một lối đi dẫn xuống boong bên dưới”.

“Do đâu ông biết cách bố trí của một chiếc tàu đã có hai trăm năm tuổi?”

“Tôi đã nghiên cứu bản vẽ và thiết kế những chiếc tàu buôn của Đông An công ty. Dù chưa bao giờ tận mắt nhìn thấy một chiếc nào, tôi vẫn nhớ nằm lòng từng xó xỉnh của chúng”.

Họ leo xuống một cái thang, trượt chân trên những nấc thang đóng băng nhưng vẫn không té ngã. Pitt dẫn đầu, đi qua một khẩu ca nông trông còn mới như vừa xuất xưởng chưa được bao lâu. Cánh cửa phòng chứa đồ vẫn để mở, như lúc bà Rosanna và toán thủy thủ tàu Paloverde rời khỏi nó.

Pitt, trong trạng thái căng thẳng, bước vào và quét ngọn đèn chiếu khắp căn phòng.

Những thùng gỗ chứa hàng vẫn xếp ngăn nắp từ sàn lên tới nóc phòng dọc theo thân tàu, như lúc chúng được mang tới vào năm 1858. Hai trong những thùng gỗ nằm trên sàn, chốt cài mở sẵn. Một bình trà bằng đồng đỏ nằm bên cạnh, sau cánh cửa, nơi nó đã lăn tới khi ông Mender và toán thủy thủ của ông hối hả rời khỏi chiếc tàu lúc khối băng bắt đầu tan ra và trôi ra biển.

Pitt quì xuống và khởi sự lấy ra những đồ vật từ những thùng gỗ đã mở chốt với thái độ trân trọng và đặt chúng lên sàn phòng phủ băng. Trong một lúc, anh đã sưu tập không chỉ những tượng nhỏ chạm khắc những thú vật thường thấy như chó, mèo, sư tử, những loài thú nuôi mà còn cả những điêu khắc các loài động vật anh chưa trông thấy bao giờ. Một số tượng được chạm trổ từ đồng đỏ, phần lớn từ đồng thau. Anh cũng tìm thấy những hình tượng về con người, đa số là phụ nữ trong những áo chùng dài với những chiếc váy xếp nếp che kín cặp chân đến tận bàn chân trong những đôi ủng lạ lùng. Những mái tóc trang điểm cầu kỳ, và thắt thành bím xõa dài đến thắt lưng và bộ ngực có độ lớn vừa phải.

Nằm dưới đáy những thùng gỗ, giống như những thẻ đánh bạc trên những bàn gieo xúc xắc trong những sòng bạc lớn, là những miếng đồng hình đĩa tròn dày khoảng nửa inch và có đường kính năm inch. Những đĩa này được chạm trổ trên cả hai mặt với sáu mươi biểu tượng, theo Pitt trông giống những biểu tượng trong căn hầm tại khu mỏ Paradise. Chính giữa những cái đĩa là những hình tượng người Ai Cập cổ, một bên là một người đàn ông và bên kia là một phụ nữ. Người đàn ông đội trên đầu một cái nón hình chóp gập lại về một bên, và một cái áo giống như áo choàng bên ngoài cái áo giáp che ngực và một cái váy ngắn na ná cái váy xếp nếp của người Tô Cách Lan. Ông ta cưỡi một con ngựa một sừng nhô lên từ đỉnh đầu, tay cầm một thanh gươm to bản đưa cao lên khỏi đầu trong hành động đang chém ngang cổ một con quỉ có hình dáng một con thằn lằn với những cái miệng rộng hoác chơm chởm răng.

Người phụ nữ bên mặt kia cái đĩa mặc quần áo cũng tương tự người đàn ông, nhưng có nhiều đồ trang sức hơn trên thân mình, nhiều xâu chuỗi với những vật trông giống vỏ sò và một loại hạt gì đó. Bà ta cũng cưỡi một con ngựa có sừng ngay đỉnh đầu. Thay vì cầm một thanh gươm, bà ta đang đâm một cây giáo vào một con thú mà Pitt nhận ra là một con cọp răng kiếm, một loài động vật đã tuyệt chủng từ nhiều ngàn năm.

Đầu óc Pitt lãng đãng trở về một thời đại khác, tại một nơi khác, mơ hồ và chập chờn, hiện ra như một màn sương. Lúc cầm những cái đĩa trong lòng bàn tay, anh cố cảm nhận sự tiếp xúc gần gũi với những người đã tạo ra chúng. Nhưng thần giao cách cảm không phải là một trong những sở trường của Pitt. Anh là một người gắn liền với cái ở đây và bây giờ. Anh không thể vượt qua bức tường vô hình ngăn cách quá khứ với hiện tại.

Trạng thái mơ mộng của Pitt bị phá vỡ bởi giọng nói mang âm điệu miền Nam của Ira Cox.

“Ông có muốn mang những thùng gỗ này lên xe chở dụng cụ không?”

Bừng tỉnh, Pitt ngước nhìn lên và gật đầu. “Ngay sau khi tôi đậy nắp những thùng gỗ lại, chúng ta sẽ mang chúng lên boong trên. Sau đó dùng dây thả chúng qua lỗ thủng cậu đã đục trên thân tàu xuống mặt sàn căn hầm băng”.

“Tôi đếm có tất cả hai mươi bốn thùng gỗ”, ông Northrop nói. Ông ta bước lại chỗ một thùng gỗ và nhấc một cái lên. Gương mặt ông ta chuyển sang đỏ như gấc và đôi mắt trợn trừng.

Cox nhanh chóng nhận ra tình huống, đỡ cái thùng gỗ từ tay ông tiến sĩ dễ dàng như ẵm một đứa trẻ. “Tốt hơn ông nên dành những công việc nặng nhọc cho tôi, ông tiến sĩ”.

“Cậu không biết tôi chịu ơn cậu nhiều chừng nào đâu, Ira”, ông Northrop nói, mừng rỡ vì thoát khỏi những thùng gỗ nặng gần cả trăm cân Anh.

Cox chọn phần việc nặng nhọc nhất. Mỗi bên vai vác một thùng gỗ, anh ta chuyển chúng cho Pitt. Pitt buộc dây và thả chúng xuống những xe chở dụng cụ đợi sẵn. Tại đây, ông Northrop xếp gọn chúng lại. Khi đã chấm dứt công việc, trên mỗi chiếc xe có tám cái thùng gỗ. Pitt bước lại chỗ lối vào hầm băng và gọi về chiếc tàu. “Chỗ ông lúc này trận bão thế nào?” Anh hỏi ông Gỉllespie.

“Theo dự đoán của những nhà khí tượng học trên tàu, nó còn kéo dài vài giờ nữa”.

“Những xe chở dụng cụ đã đầy ắp những cổ vật”, Pitt nói.

“Cậu cần giúp đỡ gì không?”

“Mỗi chiếc xe phải gánh gần tám trăm cân Anh. Mọi giúp đỡ để đưa chúng về tàu Polar Storm đều được hoan nghênh”.

“Chờ đến lúc thời tiết sáng sủa hơn nhé”, ông Gillespie nói. “Đích thân tôi sẽ đưa người đến giúp các cậu”.

“Cậu thực sự muốn tới chỗ chúng tôi chứ?”

“Không cho tôi đặt chân lên boong của chiếc tàu từ thế kỷ mười tám à? Tôi thà không được uống cônhắc của Pháp còn hơn”.

“Tôi sẽ giới thiệu cậu với ông thuyền trưởng”.

“Cậu đã gặp ông thuyền trưởng?” Ông Gillespie tò mò hỏi.

“Chưa, nhưng nếu bà Rosanna Mender không quá tọc mạch, chắc chắn ông ta không bị khuấy động như thế này”.

Thuyền trưởng Leigh Hunt vẫn ngồi tại bàn giấy nơi ông đã chết năm 1779. Không có gì thay đổi, từ vết nứt nhỏ của khối băng đã giam hãm chiếc tàu trước kia. Với sự kính trọng, họ quan sát đứa bé nằm trong cái giường cũi và bà Hunt, sau hai thế kỷ, lớp băng đã phủ kín vẻ mặt buồn bã và hình dáng mảnh khảnh thanh lịch của bà. Con chó chỉ là một đống màu trắng đông cứng.

Họ đi qua những cabin, chiếu đèn lên những hành khách đã chết từ lâu. Lớp băng như những tấm vải liệm sáng lấp lánh chỉ cho thấy phần nào những cái xác bên dưới. Pitt cố hình dung những động tác cuối cùng của họ, nhưng thảm kịch có vẻ quá cay đắng, và anh không thể đủ điềm tĩnh để nghĩ tới. Nhìn thấy những cái xác nhợt nhạt dưới ánh sáng mờ đục qua lớp băng, người ta khó lòng tưởng tượng họ đã là những người từng sống, thở và làm việc hằng ngày trước khi chết tại một nơi xa xôi, khủng khiếp nhất của thế giới. Những biểu cảm trên một số gương mặt méo mó qua lớp băng, trông thật ghê rợn, không sao mô tả đúng được. Đó là những cảm nghĩ sau cùng của họ khi họ mất hết hy vọng được cứu thoát, có phải thế?

&l