← Quay lại trang sách

NHÂN DÂN

NHÂN DÂN

on ơi nước Mỹ cũng rộng như nước ta à? Ở đấy đông dân hơn hay ở ta đông dân hơn?” - Mẹ tôi đã hỏi tôi như vậy vào năm 1959, khi tôi vừa ở thăm nước Mỹ trở về

Người biết vui mà không cần ồn ã

Người biết khóc bằng ánh mắt ráo khô

Người biết chết mà không thèm rên rỉ

Còn ở đâu, nếu chẳng từ miền núi chúng ta?

Giữa đêm khuya, có thể lúc trời đang mưa, có thể khi đẹp trời, giữa xóm làng yên ắng chìm trong giấc ngủ, bỗng vẳng ra tiếng gõ vào cửa sổ.

- Ê, trong nhà có đàn ông không? Thắng ngựa vào thôi!

- Nhưng anh là ai mới được?

- Nếu còn phải hỏi “là ai” thì cứ việc nằm ngủ. Anh sẽ chẳng làm được cái tích sự gì.

Lại có tiếng “cốc, cốc” gõ cửa

- Ê, trong nhà có đàn ông không? Thắng ngựa vào thôi!

- Đi đâu, làm gì mới được!

Nếu còn phải hỏi: “đi đâu”, “làm gì” thì cứ việc ngủ yên Anh sẽ chẳng làm được cái tích sự gì.

Tiếng gõ cửa vang ra lần thứ ba.

- Ê, trong nhà có đàn ông không? Thắng ngựa vào thôi!

- Chờ một lát. Xong ngay đây.

Đó mới thật là người đàn ông, thật là một người miền núi! Và hai người lên đường. “cốc, cốc”. “Trong nhà có đàn ông không? Thắng ngựa vào thôi!” Thế rồi họ không phải chỉ có hai người, ba người, chục người, mà hàng trăm, hàng nghìn. Chim ưng bay đến với chim ưng, con người tìm đến với con người. Đó, nhân dân miền Đaghextan đã hình thành như vậy. Những làn gió núi đẩy đưa nôi trẻ, những dòng suối núi hát những bài hát ru:

- Anh ở đâu, hỡi Đinghir -Đangatru?

- Đinghir đã vào trong rừng sâu

Khi sinh con trai, người ra đặt dao găm xuống dưới gối. Trên cán dao có khắc dòng chữ: “Bố anh đã có bàn tay cầm dao này không hề lẩy bẩy, liệu anh có bàn tay ấy chăng?”

Khi sinh con gái, người ta treo trên nôi quả chuông có đề dòng chữ: “Cô sẽ là chị của bẩy người em trai”

Nôi trẻ đã đung đưa trên dây bắc ngang qua khe núi nhỏ, nối từ vách đá này đến vách đá bên kia. Những người con trai đang lớn lên, những người con gái cũng thế. Cả nhân dân Đaghextan đã trưởng thành: ria mép đã đủ dài, có thể sờ tay vân vê tự hào.

Dân miền Đaghextan đã lên tới 1 triệu 100 nghìn người. Vinh quang về miền đất ấy vang tận tới các vùng núi xa, vinh quang ấy thiêu cháy trái tim tham lam vô độ của những kẻ chuyên đi xâm chiếm, vươn những cánh tay thèm khát tới miền Đaghextan.

Người Đaghextan đã từng nói: “Hãy để yên cho chúng tôi sống bên bếp lò, cùng bố mẹ vợ con. Chúng tôi đâu có nhiều nhặn gì!”

Bọn kẻ thù đáp lại: “Nếu chúng mày ít ỏi, chúng ta sẽ xẻ đôi từng đứa, chúng mày sẽ đông lên”

Và thế là chiến tranh nổ ra.

Cả miền Đaghextan bùng cháy, chìm trong khói lửa. Trên những triền núi, trong khe sâu, trên vách đá đã một trăm nghìn người con ưu tú nhất của Đaghextan nằm xuống, những chàng trai trẻ trung, tráng kiện, dũng mãnh nhất.

Nhưng còn lại một triệu người. Và như ngày xưa, gió vẫn đưa nôi, bài hát ru vẫn trôi ra từ suối núi. Đã trưởng thành thêm một trăm nghìn người con trai miền Đaghextan.

Người ta lấy tên những anh hùng ngã xuống mà đặt tên cho con cháu. Vào thời ấy, bọn A-rập tràn qua Đaghextan.

Một trận đánh lớn đã diễn ra, âm thanh náo động của trận chiến ấy đã vang xa. Những chiếc đầu rơi ra lăn xuống khe như đá núi. Một trăm nhìn người con ưu tú nhất miền Đaghextan đã ngã xuống. Một trăm nghìn chiến sỹ, một trăm nghìn thợ cầy, một trăm nghìn chú rể, một trăm nghìn người cha.

Nhưng còn lại một triệu người, và nôi vẫn đưa, bài hát ru vẫn hát:

- Anh ở đâu, hỡi Đinghir -Đangatru?

- Đinghir đã vào trong rừng sâu

Lại thêm một trăm nghìn người con khôn lớn, đến lúc đấy, vua của mọi vua, hoàng đế Nađir, chẳng khác nào thần chết, từ Iran kéo tới. Ông ta dự định chinh phục cả thế giới này, và để đánh quỵ Đaghextan, chỉ tính quật một đòn.” Ta chỉ khẽ thổi một cái là bọn chúng bay hết như bụi bay!” Ông ta cho dựng lều vải khắp nơi. “Chẳng lẽ lũ chuột này định dám đánh lại đám mèo của ta sao?” - Vua của mọi vua đã nói như vậy trước khi vào trận đánh. Nhưng cuối cùng thì Nađir đã phải nói: “Ta sẵn sàng đổi hết đám quân của ta để lấy một anh hùng Murtuzali của họ”

Vua Nađir đã nói nhiều lời đẹp đẽ. Nhưng muốn biết sức bò, phải xem nó lúc kéo cầy, đâu phải lúc nó nhai. Dân miền cao đã xua vua của mọi vua đi theo gió, đã đuổi quân của y như gió quạt tro tàn, đã thấm máu mình cùng máu quân thù vào đất thung lũng khô cằn miền Trốc. Từ ngày ấy, bên Iran lưu truyền câu ngạn ngữ: “Nếu vua ngu thì sẽ kéo quân đi đánh Đaghextan”

Tôi đã nhìn thấy ở Têhêran ngai vàng của vua Nađir mang từ Ấn Độ về. Tôi đã nhìn thấy chiến lợi phầm mang về từ các nước, nhìn thấy chiếc gươm cong của vua.

- Vật nhỏ này đã khuất phục và làm sợ hãi một nửa thế giới, - các bạn Iran nói thế với tôi.

- Nhưng đã không chạm tới được Đaghextan nhỏ bé.

Tại Menskhét, những bức tường của viện bảo tàng về nhà vua Nađir ghi đầy những bài thơ của các nhà thơ Iran danh tiếng ca ngợi vua hết lời. Nhưng đã ba trăm năm nay, dân chúng Đaghextan có bài ca về hoàng đế nọ:

Chạy đi, tháo thân đi, cho các ngươi trốn thoát

Chúng ta không thèm giết các ngươi đâu

Để các ngươi kể lại ngày sống sót

Làm bia miệng truyền đời, làm bài học dài lâu

Ở Iran người ta cho rằng hoàng đế Nađir đã liên kết các dân tộc rời rạc và lập nên quốc gia Iran hùng mạnh. Có thể trên thực tế là như thế. Nhưng tôi muốn nói thêm rằng ông ta đã giúp các dân tộc sống riêng lẻ ở miền Đaghextan chúng tôi, giúp các trái tim chúng tôi liên kết lại thành một khối. Mối căm thù chung với tên vua xâm lược đã gắn hiền họ lại.

Trong cuộc chiến tranh với vua Iran, Đaghextan đã mất đi một trăm nghìn người con ưu tú nhất. Những người chăn cừu, thợ săn, thợ đá, thợ đúc, thợ cầy, nhà thơ đã hi sinh.

Nhưng còn lại một triệu người. Nôi trẻ vẫn đung đưa, bài hát ru vẫn hát, các chàng kỵ sỹ vẫn đưa đi trên mình ngựa từng người con gái mình yêu, cùng khoác chung tấm áo choàng, cùng biết thương nhau, nối tiếp thêm dòng giống Đaghextan. Lại có thêm một trăm nghìn người con trai, con gái, một trăm nghìn tay liềm, một trăm nghìn dao găm, cây đàn panđur và trống buben.[13]

Đến lúc ấy lại một cuộc chiến tranh nữa nổ ra. Tiếng đại bác nổ rền trong khe sâu, trên những con đường chạy ven triền núi đá. Tiếng rìu đẵn cây lại vọng ra trên sườn núi. Ánh lưỡi lê sáng lên, tiếng đạn bay vun vút.

Từ Uran đến sông Đanuyp

Những binh đoàn nối tiếp nhau đi

Súng gươm giáp trụ uy nghi

Vương hầu, nguyên thủ… nhất tề ruổi dong

Lính khinh kỵ ngù bông phấp phới

Bụi mù trời bao đội bộ binh

Cờ giăng chi chít đội hình

Thần công đại bác thình thình kéo theo.

Như thác réo, hùm beo hung tợn,

Như mây đen cuồn cuộn về đông

Núi Kazbếch thất thần

Chìm trong giấc mộng dữ dằn đau thương

Đếm sao xuể tai ương sắp đổ

Kẻ thù như kiến cỏ, đếm sao?...

Đúng thế, khó mà tính đếm được hết số kẻ thù. Trong các bài hát của chúng tôi có câu nói rằng nhiều khi một người dân vùng cao đã phải đương đầu với một trăm tên địch. Các cụ già kể lại về cuộc chiến tranh ấy: “Bị cụt tay này, đánh tiếp bằng tayy còn lại. Bị cụt đầu, thân mình còn đánh tiếp. Ngựa chết lấy làm lũy ngăn đường, ngăn khe; từ vách đá lao xuống giữa rừng lưỡi lê của giặc. Bọn địch giở giọng thuyết phục chúng tôi: máu chảy thế đủ rồi. Kháng cự là vô ích. Rồi các anh sẽ chạy vào đâu? Các anh đâu có chánh để bay lên trời. Các anh đâu có móng sắt để đào xuống đất.

Nhưng Samin đã trả lời:

- Có cánh! Đó là lưỡi gươm của tôi, Móng vuốt của chúng tôi là dao găm, là mũi tên.

25 năm liền, những người dân miền cao đã chiến đấu dưới sự lãnh đạo của Samin. Và những năm ấy không phải chỉ dáng vẻ bên ngoài của Đaghextan thay đổi mà cả đến dòng sông, tên đất cũng đổi thay. Sông Avar-Kôixu biến thành sông Kara-Kôixu nghĩa là Dòng sông đen. Xuất hiện những “Vách đá tử thương”. “Khe núi chết”, dòng sông Valêrich trở thành nổi tiếng, mãi mãi lưu truyền trong trí nhớ nhân dân lối mòn Samin, con đường Samin, điệu múa Samin.

Kết cục bi thảm của cuộc chiến tranh là ngọn núi Guníp. Thủ lĩnh Samin đã khấn vái lần cuối trên đỉnh ngọn núi ấy. Khi đang làm lễ, Samin bị đạn bắn vào cánh tay giơ lên. Nhưng ông không giật mình và vẫn tiếp tục cầu nguyện. Máu chảy ròng ròng xuống đầu gối vị thủ lĩnh, xuống phiến đá mà ông đang đứng. Vị thủ lĩnh bị thương đã cố làm xong buổi lễ của mình. Khi ông đứng dậy, những người xung quanh nói với ông:

- Ngài bị thương rồi, thưa thủ lĩnh!

- Vết thương này có nghĩa lý gì đâu! Nó sẽ lành thôi - Samin bứt một nắm cỏ rồi lau máu khỏi cánh tay- Đaghextan đang chảy máu. Vết thương kia mới khó chữa hơn nhiều.

Vào giờ phút nặng nề nhất ấy, thủ lĩnh Samin đã gọi đến giúp mình những con người dũng cảm, những ai từ lâu đã nằm sâu dưới mộ. Những người đã để lại đầu mình ở Akhungô, những người đã hy sinh ở Khunzắc, cả những ai nằm xuống trên dải đất đầy sỏi đá gần làng Xantư, những ai đã yên nghỉ ở làng Ghécghêbin và cả những ai đã ngã xuống ở làng Đácgô

Ông nhớ lại người cùng làng, bậc tiền bối của mình, vị thủ lĩnh đầu tiên là Cazi-Mahômét, ông nhớ lại vị phó tướng thọt chân Khátgi-Murát, nhớ đến Alibêkiláp, Ăcbecđiláp, và nhiều dũng sỹ khác. Người mất đầu, người cụt tay, người bị bắn vào tim, giờ đây họ đều nằm xuống mảnh đất Đaghextan. Chiến tranh có nghĩa là chết chóc. Một trăm nghìn người con ưu tú nhất của Đaghextan…

Khi đi băng qua đất nước Nga bao la, Samin vẫn nhiều lần thốt lên:

- Đaghextan nhỏ quá dân chúng tôi ít quá!. Tôi thèm được có dù chỉ thêm một nghìn tay gươm!

Ở vùng Thượng Guníp còn giữ lại tảng đá trên có khắc dòng chữ: “Trên tảng đá này công tước Bariachinxki đã ngồi tiếp tù binh Samin”

- Mọi cố gắng của các người, cả cuộc chiến đấu của các người đều vô ích hết, - Bariachinxki nói như vậy với người tù binh của mình

- Không, không vô ích đâu, -Samin trả lời, - Nhân dân sẽ mãi mãi còn nhớ đến cuộc chiến đấu này. Cuộc chiến đấu này đã làm cho nhiều người vốn có tử thù với nhau trở thành anh em, đã liên kết những làng vốn kình địch lẫn nhau, đã hòa thành một khối dân tộc Đaghextan duy nhất từ bao nhiêu bộ tộc vốn sống riêng rẽ, lúc nào cũng chỉ biết tới có bộ tộc của mình. Tôi đã giành được tình cảm quê hương, tình cảm thống nhất Đaghextan và truyền lại cho con cháu mai sau. Chẳng lẽ đấy không đáng gì sao?

Tôi hỏi bố tôi:

- Tại sao quân A-rập, Timua, vua Nađir lại tấn công nước ta, gây đổ máu, gieo tai họa thù ghét? Bọn chúng cần gì đến Đaghextan, một xứ sở giống như con sói con chẳng khi nào biết đến dịu dàng và âu yếm?

- Bố kể cho con nghe câu chuyện về một người rất giàu. Phải rồi ông ta là một kẻ giàu nứt đố đổ vách. Khi ông ta trèo lên một ngọn đồi thì nhìn thấy khắp thung lũng, suốt từ chân núi đổ ra tận biển, chen chúc những đàn cừu của mình. Những đàn bò, đàn ngựa của ông ta cũng đông vô kể. Khắp nơi đâu cũng nghe thấy tiếng cừu kêu. Kẻ giàu có khoái chí thấy rằng cả thế giới này là của y, tất cả súc vật trên thế giới ấy cũng là của y.

Nhưng bỗng y nhìn thấy một mảnh đất nhỏ trống trải, vắng bóng súc vật của y. Tim y bỗng đau nhói như thể có ai chọc dao vào tận đấy. Y bừng bừng nổi giận và gào lên bằng giọng đầy dữ tợn: “Sao đằng kia lại có mảnh đất trơ ra nhưng miếng da rụng lông thế kia? Chẳng lẽ ta lại không đủ cừu để làm kín chỗ đó sao? Xua cừu đến đó mau, xua đến ngay!”

Nhưng câu chuyện Samin mới là điều bố tôi thường ưa thích nhất. Chẳng hạn như chuyện Saminh đã chiến thắng tên cướp táo bạn như thế nào.

Có lần thủ lĩnh Samin cùng bộ hạ của mình kéo đến một làng. Đám chức sắc trong làng tiếp Samin với thái độ thù địch. Họ nói:

- Chúng tôi chán ngấy chiến tranh rồi. Chúng tôi muốn được sống yên lành. Nếu không có ông thì chúng tôi đã quy thuận nhà vua từ lâu rồi.

- Thế mà các ông cũng đã từng là người vùng cao hay sao? Các ông muốn ăn bánh mỳ Đaghextan mà phụng sự kẻ thù sao? Chẳng lẽ ta đã phá hoại hòa bình và cảnh sống yên lành của dân chúng sao? Chính là ta đang bảo vệ những cái đó!

- Thưa thủ lĩnh, chúng tôi cũng là người Đaghextan, nhưng chúng tôi thấy rằng cuộc chiến tranh này chẳng đem lại lợi ích gì cho Đaghextan bây giờ cũng như sau này cả. Bướng bỉnh, cố chấp đâu có đưa người ta đi xa!

- Chẳng lẽ các người cũng là người Đaghextan sao? Theo địa điểm thì quả thật là các người sống ở Đaghextan, nhưng lòng dạ các người lại là của loài thỏ đế. Các người thích ngồi cời than trong bếp lò, khi Đaghextan đang chảy máu. Hãy mở cổng làng ra! Bằng không, ta sẽ mở nó bằng kiếm!

Đám chức sắc trong làng thương lượng mãi với thủ lĩnh Samin, cuối cùng đã quyết định để ông vào làng và đón tiếp một cách hòa bình như đón một vị khách cao quý. Còn Samin thì cam kết lại rằng sẽ không giết một người nào trong làng và sẽ quên đi mọi lỗi lầm cũ. Ông nghỉ lại trong nhà người bạn trung thành của mình, sống ở đó vài ngày để tiếp tục đàm phán với đám chức sắc trong làng. Vào thời kỳ đó, trong làng và vùng chung quanh có một tên cướp khủng khiếp đang hoành hành, hắn to lớp khác thường, cao trên hai mét. Hắn cướp của tất cả không trừ một ai, tước đoạt thóc lúa, gia súc, bò ngựa, đe dọa và giết chóc dân làng. Đối với hắn chẳng có hiểu điều gì là thiêng liêng, Đức Allah, Hoàng đế và thủ lĩnh Hồi giáo - tất cả đều là những từ rỗng tuếch đối với hắn.

Đám chức sắc trong làng bèn yêu cầu Samin:

- Xin thủ lĩnh giải thoát cho dân làng khỏi tên cướp này.

- Thế ta sẽ phải làm gì với nó?

- Thưa thủ lĩnh, phải giết, phải giết nó. Chính nó cũng đã nhiều lần giết người.

- Ta đã thề không giết một người nào trong làng này rồi, ta phải làm đúng như đã thề

- Xin thủ lĩnh tìm dùm cách cứu thoát chúng tôi khỏi tai họa này!

Vài ngày sau, các bộ hạ của Samin đã vây bắt được tên cướp, trói nó dẫn vào làng đặt dưới nhà hầm. Để trừng phạt tên cướp thích đáng, người ta lập phiên tòa đặc biệt. Họ đi tới quyết định là chọc mù mắt tên cướp. Làm mù mắt nó xong, người ta lại tống nó xuống nhà hầm giam lại

Mấy ngày nữa trôi qua, vào một đêm khi trời gần sáng, Samin đang ngủ say, bỗng trong phòng ông có tiếng động ầm ầm. Samin chồm dậy, nhìn quanh. Ông thấy bóng người to lớn như thú dữ, miệng gầm ghè những lời nguyền rủa, tiến đến phía ông, phía sau dùng rìu phá tan cửa ra vào. Samin hiểu ngay rằng tên cướp bằng cách nào đó đã thoát ra khỏi nhà hầm và bây giờ nó đến trả thù.

Tên khổng lồ tiến tới, mồm nghiến răng kèn kẹt. Một tay hắn cầm dao găm, một tay cầm rìu. Samin cũng vơ vộn dao găm của mình. Ông gọi đám bộ hạ của mình, nhưng tên cướp đã kịp băm chết họ từ nãy. Cả làng đang ngủ say. Không ai nghe thấy tiếng Samin gọi.

Samin vừa lùi vừa chọn thời điểm thích hợp để tiến đánh đối thủ của mình, nhưng tên này vì không còn nhìn thấy gì nên cứ vung tay rìu, vừa nhảy từ chỗ này sang chỗ kia. Hắn đập nát hết mọi đồ đạc trong phòng.

- Mi ở đâu, hả người dũng sỹ mà sách nào cũng nói đến? - tên khổng lồ gầm lê. - Mi trốn ở đâu? Lại đây mà trói tao, mà bắt tao, mà chọc mù mắt tao!

- Ta ở đây này! - Thủ lĩnh Samin hét lên thật to và nhảy phắt ngay sang chỗ khác. Lưỡi rìu tên cướp bổ phập vào đúng chỗ tường, nơi một giây trước Samin vừa đứng.

Ngay lúc ấy, Samin chớp lấy thời cơ, lao vào đánh tên cướp. Nhưng hắn khỏe hơn, dữ tợn hơn. Hắn định túm lấy Samin mà quăng, mà ném đi, mấy lần làm ông bị thương. Nhưng sự khôn khéo, nhanh nhẹn đã cứu Samin mấy lần tránh được đòn chết người của địch thủ. Cuộc đọ sức kéo dài hai tiếng liền. Cuối cùng tên cướp túm được Samin, nhấc bổng lên cao. Hắn định quật mạnh Samin xuống nền nhà rồi sau đó sẽ chặt lấy đầu. Đang bị nhấc lơ lửng trên không, Samin đã khôn khéo kịp đâm mấy nhát dao găm vào gáy và đầu tên cướp. Hắn bỗng rã rời, xỉu đi, lảo đảo rồi đổ sập xuống như một cái tháp bằng gạch. Con dao găm văng ra khỏi tay hắn. Samin bị chín vết thương và ông đã phải nằm lại chữa cả một tháng liền ở đấy.

Cuộc chiến đấu của Samin với những kẻ thù hùng mạnh từ xa kéo đến cũng có nhiều điều giống cuộc ẩu đả đó. Kẻ xâm lược ở miền núi xa lạ nhiều khi cũng hành động như kẻ bị mù. Còn Samin thì nhiều lần khéo léo tránh đòn địch rồi bất ngờ thọc ngang vào sườn hay chọc từ sau lưng.

Chắc người dân miền núi nào cũng có riêng hình ảnh của Samin. Tôi cũng hình dung ra ông theo cách riêng của mình.

Dạo ấy ông còn trẻ, Trên tảng đá lớn bằng phẳng ở Akhungô, ông đã quỳ xuống, hai tay đưa lên trời cao - đôi bàn tay vừa rửa trong dòng nước sông Kôixu của người Avar. Ống tay áo xắn lên. Đôi môi lẩm bẩm nói lời gì - một số người cam đoan rằng khi làm lễ cầu nguyện hễ ông thốt ra từ “Đức Allah” thì người chung quanh nghe thành chữ “tự do” và khi ông thì thào nhắc tới chữ “tự do” thì người ta cũng nghe như chữ “Đức Allah”

Khi ông có tuổi. Trên bờ biển Caxpie, ông đã mãi mãi từ giã Đaghextan, lúc này ông đã là tù binh của Sa hoàng. Ông trèo lên tảng đá cao và đưa mắt nhìn biển Caxpie đang nổi sóng. Đôi môi ông đáng lẽ lẩm bầm từ “Đức Allah” và “tự do” thì lại khẽ nói lời “từ biệt”- người ra nói rằng vào phút ấy trên gò má ông đã hơi ươn ướt. Nhưng mà Samin chưa bao giờ khóc. Chắc đó là do bọt sóng biển bắn tung lên.

Tuy thế, tôi vẫn thường hình dung ra ông rõ nhất qua câu chuyện của bố tôi, trong ngôi nhà chật hẹp, lúc ẩu đả ác liệt kéo dài với tên cướp phát khùng.

Với Khátgi-Murát, có lúc ông sống hòa thuận, có lúc bất hòa. Nhiều chuyện thật có, mà tưởng tưởng cũng có, lưu truyền trong dân gian.

Sau khi cất nhắc Khátgi-Murát lên địa vị phó tướng, Samin đã phái ông đến miền Khaiđắc và Tabaxaran để lôi kéo họ thao mình, hay đúng hơn là đưa họ vào cuộc chiến. Ông hy vọng rằng Khátgi-Murát sẽ dùng lời lẽ mà thuyết phục họ, tuy nhiên, vị phó tướng mới nhậm chức đã thi hành một chính sách roi vọt và bạo lực ở Khaiđắc và Tabaxaran. Nếu có ai nói bóng gió đến luật lệ thì Khátgi-Murát giơ nắm đấm mình ra chỉ và nói:

“Đấy, đây là luật lệ của các người đây. Ta là Khátgi-Murát người làng Khunzắc. Chính ra là luật lệ chủ yếu của các người”

Những tin tức đồn đại về hành động bạo ngược của Khátgi-Murát truyền đến tai Samin. Ông cho người đi gọi ngay vị phó tướng về gặp mình. Khátgi-Murát trở về mang theo một khối lượng lớn của cải lấy được. Đội quân của Khátgi-Murát lùa đằng trước mình những đàn bò, đàn ngựa, đàn cừu lớn. Còn chính Khátgi-Murát thì giữ bên yên ngựa mình một cô gái đẹp mà ông đã cướp được.

- Axxalam alâykum, xin chào chủ lĩnh Samin - Khátgi-Murát vừa xuống ngựa vừa cất tiếng chào.

- Vaalâykum xalam, chào phó tướng! Ta rất mừng thấy anh đã về. Anh đem được chuyện gì hay không?

- Thưa thủ lĩnh, tôi đã không trở về tay không. Có tiền bạc, có ngựa cừa, có thảm trải. Ở vùng Tabaxaran người ra dệt thảm rất đẹp

- Thế không có gái đẹp sao?

- Có cả gái đẹp. Đẹp tuyệt vời nữa chứ! Tôi mang về để dâng cho thủ lĩnh

Hai người đưa mắt nhìn nhau. Một lát sau Samin nói:

- Anh hãy trả lời ta xem, có phải ta sẽ chiến đấu cặp kè bên mình cô gái xinh đẹp này sao? Ta không cần cừu mà cần người. Ta không cần ngựa mà cần kỵ sĩ. Anh lùa súc vật của dân chúng về. Như vậy là anh đã xiên dao vào tim họ, đẩy họ ra xa khỏi chúng ta. Lẽ ra họ đã phải trở thành những chiến sỹ của chúng ta để thay vào những người bị thương, bị chết. Bây giờ thì lấy ai thay vào đó được? Chẳng lẽ câu chuyện ở Xantư và Ghécghêbin có thể lặp lại với chúng ta, nếu được những người dân Khaiđắc và Tabaxaran đứng về phía chúng ta? Lẽ nào có thể chấp nhận được điều là người Đaghextan lại cướp bóc của người Đaghextan sao?

- Thưa thủ lĩnh, nhưng họ không hiểu tiếng nói nào khác!

- Thế nhưng anh đã có hiểu tiếng nói của họ chưa? Nếu anh hiểu họ thì đâu có phải dùng đến roi vọt, bạo lực. Chẳng lẽ phó tướng của ta lại là kẻ cướp sao?

- Thưa thủ lĩnh, tôi là Khátgi-Murát, người làng Khunzắc.

- Ta là Samin ở làng Grimrư. Rồi cả Kêbet-Mahômet ở Têlet và Guxây ở Triêkê nữa. Rồi sao nữa? Người Avar, người Khinđalian, người Kumức, Lêzghin, Lắc và những người vừa bị anh cướp bóc ở Khaiđắc và Tabaxaran, tất cả đều là con của một Đaghextan. Chúng ta cần phải hiểu nhau. Bởi chúng ta là năm ngón tay trên một bàn tay. Để tạo thành nắm đắm, các ngón tay cần phải kết với nhau thật chặt. Cảm ơn anh, anh Khátgi-Murát, về lòng dũng cảm. Vì lòng dũng cảm, anh xứng đáng với một phần thưởng. Anh đã được vấn khăn lên đầu. Nhưng bây giờ thì ra không tán đồng với việc làm của anh.

- Thưa thủ lĩnh, thủ lĩnh chẳng đã im lặng khi những kẻ đầu vấn khăn khác cũng đã làm việc cướp bóc. Còn đến lượt tôi thì mọi thứ sấm sét lại trút xuống đầu!

- Tôi biết anh định ám chỉ ai, Khátgi-Murát ạ. Anh định nói tới Ăcbecđiláp, đến Kazi-Mahômet, con trai ta, hay thậm chí đến chính cả ta chứ gì. Nhưng ở Môzđốc, Ăcbecđilap chỉ cướp đồ đạc của kẻ thù. Còn ta đã lấy của cải của những lãnh chúa không muốn theo chúng ta, thậm chí còn chống lại chúng ta. Không được, Khátgi-Murát ạ. Để trở thành phó tướng, không phải chỉ có trái tim dũng cảm và lưỡi dao găm sắc là đủ đâu. Còn cần phải có một cái đầu tỉnh táo.

Những lần tranh cãi như vậy thường xảy ra luôn giữa Samin và Khátgi-Murát. Mối bất hòa lại được thổi phồng, cường điệu lên bởi các lời đồn đại, và cuối cùng sự thù hằn độc địa đã ngăn tách họ ra. Khátgi-Murát đã bỏ Samin mà đi sang phía khác rồi bị mất đầu. Thân mình của Khátgi-Murát được chôn cất tại Nukha. Thật là một sự phân chia đang lưu ý: đầu thì rơi vào tay quân giặc, còn trái tim thì ở lại với Đaghextan, số phận thật lạ lùng

CÁI ĐẦU CỦA KHÁTGI-MURÁT

Tôi nghe tiếng ồn ào trong trận đánh

Thấy chiếc đầu bị chém đã lìa vai

Thấy máu chảy trên đá trần ướt lạnh

Khắp thôn làng xơ xác tả tơi

Tôi cúi xuống hỏi chiếc đầu đẫm máu

“Ngươi là đầu ai, có thể nói ta hay?

Đã từng hưởng bao vinh quang chiến đấu

Để phải lìa mình trước định thủ hôm nay?”

Chiếc đầu nói: “Chẳng có gì phải dấu

Tôi chính là đầu: Khátgi-Murát lừng danh

Chỉ vì phạm lỗi lầm không cải hối

Mà hôm nay đến nỗi phải lìa mình!

Tôi đã chọn sai đường tiến thủ

Bệnh háo danh làm hỏng cả đời người

Và ta rụng giữa vòng vây kẻ địch

Trong trận phiêu lưu không có đường lui…”

Những người đàn ông sinh ra trên núi

Dẫu một đời phải xa biệt làng quê

Đều ao ước, dù sống, dù phải chết

Thề giữ thân cho toàn vẹn trở về!...

Người ta đã đưa thủ lĩnh Samin đi khỏi Đaghextan. Đã xây nên đủ loại pháo đài, đồn lũy với tua tủa lỗ châu mai chĩa về mọi hướng. Súng lớn, súng nhỏ lộ ra từ các lỗ châu mai. Dù đạn không bắn ra, nhưng những họng súng ấy như muốn nói: “Này, dân chúng, ngồi yên đấy, phải lo giữ mình cho tử tế, biết điều nghe chưa!”

Những bộ tộc vùng cao mang thân phận tủi hờn

Tủi hờn đến cả chim muông, cây cỏ

Không một hướng đi nào rộng mở

Ngoài lối từ ngục tù đến cõi chết đau thương

“Xứ sở của bọn man rợ”, - một tên tỉnh trưởng khi rời khỏi Đaghextan đã nói như vây. “Dân chúng ở đấy không sống trên đất mà sống dưới vực”, - một kẻ khác đã viết thế.

“Chỉ riêng cái vùng đất đã có cũng là quá nhiều đối với bọn người dã man ấy” - Kẻ thứ ba khẳng định

Trên núi cao Đaghextan,vĩnh viễn màu tuyết phủ

Bóng tối của đêm đen cũng vĩnh viễn phủ dày

Trước đây, khi quê hương thân yêu, Xulâyman Xtanxki đã thốt lên như vậy

“Kể từ ngày Đaghextan bị tống giam vào ngục tù, mọi tháng trong năm đều có 31 ngày”, - trước đây có lúc bố tôi đã viết thế

“Hỡi núi cao, ta cùng ngươi ngồi dưới hầm sâu” - Abutalíp đã có lần nói vậy.

“Đến hươu trên núi cũng phải buồn vì tai họa ấy”, - trước đây chị Ankhin Marin đã từng hát vậy.

“Chẳng có gì đáng nghĩ tới thế giới này. Kẻ nào bánh thịt to hơn, kẻ đó nhiều vinh quang hơn”, - Makhơmút đã phẩy tay mà nói thế

“Chẳng nơi nào có hạnh phúc cả” -Ăcmét Munghi, người miền Kubatri, sau khi đi khắp thế giới, đã rút ra kết luận đó.

Nhưng Irtri Kazắc thì viết: “Người đàn ông Đaghextan ở đâu cũng vẫn phải là người đàn ông Đaghextan”

Và cũng chính Batưrai trước khi chết đã viết: “Cầu cho những người dũng cảm không sinh ra những đứa con nhút nhát”

Và cũng chính Makhơmút đã ca:

Con hươu lang thang, quẩn quanh trong rừng rậm

Thì chỉ gặp lối mòn, hoặc cái chết mà thôi!

Và cũng chính Abutalíp đã nói: “Thế giới này sắp chuyển rung rồi. Hãy để nó ầm ầm rung chuyển!”

Và đã đến ngày sấm sét nổ ra. Sấm sét nổ từ xa, không phải lan truyền đến Đaghextan ngay, nhưng tất cả đã rạch ròi phân đôi mọi thứ bằng một ranh giới ngời ánh đỏ: lịch sử, số phận, cuộc đời của mỗi con người, tất cả nhân loại. Căm giận và tình yêu, ý nghĩa và niềm khát vọng - tất cả đều đã tách làm đôi

- Anh có nghe: Sấm đã nổ rồi!

- Nổ ở đâu vậy?

- Khắp cả nước Nga

- Sấm gì vậy?

- Sấm Cách mạng

- Cách mạng của ai?

- Của những người con dân lao động

- Mục đích của nó là gì?

- Để cho ai vốn chẳng là gì sẽ trở thành tất cả

- Mầu của nó là gì?

- Màu đỏ?

- Bài ca của nó?

- “Đấu tranh nay là trận cuối cùng”

- Quân đội của nó là ai?

- Những người đói khát, buồn khổ. Là đội quân lao động vĩ đại

- Tiếng nói của nó, dân tộc của nó?

- Là mọi tiếng, mọi dân tộc

- Ai đứng đầu?

- Lênin

- Cách mạng nói gì với những người miền cao Đaghextan? hãy dịch cho chúng tôi nghe

Các anh hùng và các nhà thơ đã dịch tiếng nói của Cách mạng sang mọi thổ ngữ miền Đaghextan

“Hỡi nhân dân Đaghextan đã từng bị áp bức bao thế kỷ nay! Cách mạng vĩ đại đã theo những con đường núi ngoằn ngoèo mà đến nhà, đến ruộng vườn các bạn. Hãy lắng nghe Cách mạng, hãy phục vụ Cách mạng. Cách mạn nói với các bạn những lời mà chưa từng bao giờ các bạn được nghe. Cách mạng nói:

- Hỡi anh em, Nước nga mới đang đưa tay ra cho các bạn. Hãy đón lấy, hãy lắm chặt tay ấy, đó là sức mạnh, là niềm tin của các bạn

- Hỡi nhưng người con của núi rừng! Hãy mở cửa nhà nhìn ra thế giới lớn bên ngoài. Không phải một ngày mới bắt đầu, mà là cả cuộc đời mới bắt đầu. Hãy đón chào cuộc đời ấy!

- Bây giờ các bạn không còn phải cúi mình trước kẻ thống trị. Từ giờ trở đi, không kẻ ngoại bang nào dám ngồi lên mình ngựa của các bạn. Bây giờ ngựa của bạn là của bạn, tự do của bạn là của bạn.”

Tiếng nói của chiến hạm “Rạng đông” đã được dịch ra các thổ ngữ miền Đaghextan như vậy. Những người đã dịch nó là Makhát, là Unlubi, Ôxkar, Giêlan, Kazi-Mahômét, Mahômet-Mirza, Garun và nhiều chiến sỹ cách mạng khác, những người đã hiểu quá rõ nỗi thống khổ của Đaghextan.

Và Đaghextan đã đón lấy số phận của mình. Người dân miền cao đã đón nhận màu cờ và bài ca cách mạng. Nhưng bọn thù ghét cách mạng thì hoảng sợ. Sấm sét đã nổ trên đầu chúng, đất dưới chân chúng đã chuyển rung, biển trước mặt chúng đã sôi lên và đá đã ầm ầm lăn xuống phía sau lưng chúng. Thế giới cũ đã ngả nghiêng và sụp đổ. Cả vực sâu thẳm đã hiện ra trước chúng.

- Nào đưa tay đây cho ta! - Bọn kẻ thù của cách mạng khẩn khoản vật nài, chúng tự gọi mình là bạn của Đaghextan

- Tay của các người đầy máu

- Hãy đứng lại, đừng bỏ đi, hãy nhìn lại sau, hỡi Đaghextan!

- Nhìn cái gì đằng sau, có cái gì trong quá khứ mới được chú? Toàn là đói nghèo, giả dối, ngu tối và đổ máu.

- Hỡi Đaghextan bé nhỏ! Còn đi đâu nữa?

- Phải đi tìm nghĩa lớn!

- Ngươi sẽ chẳng khác nào con thuyền độc mộc giữa đại dương. Sẽ bị sóng vùi. Tiếng nói, đạo giáo, phong tục của các ngươi sẽ biến mất, mũ trên đầu và cả đầu ngươi nữa cũng không còn! - kẻ thù đe dọa.

- Ta đã quen đi trên những con đường nhỏ hẹp. Chẳng lẽ bây giờ đi trên đường lớn lại trượt ngã gãy chân sao? Ta đã bao đời này tìm con đương ấy. Sẽ chẳng sợi tóc nào rụng mất trên đầu ta

- Đaghextan, ngươi là kẻ vô đạo. Ngươi đang diệt vong. Hãy cứu lấy Đaghextan! -lũ quạ kêu lên quàng quạc, bầy sói rền rĩ thế. Gào kêu, đe dọa, vật nài, giết chóc, lừa dối. Biết bao kẻ đã ném đá vào ngọn đèn vừa thắp sáng!

Biết bao kẻ rắp tâm đốt cháy chiếc cầu vĩ đại! Bao ngọn cờ đã đến, bao kẻ cướp đã vào. Giằng xe nhau mảnh đất Đaghextan nhỏ bé, nhưng giằng nhau tấm áo khoác ngoài giữa đêm đông giá lạnh. Và Đaghextan ngơ ngác chạy loanh quanh như chú hươu vừa thoát cũi. Kẻ thù nào cũng dữ tợn tham lam lao vào bắt nó. Biết bao kẻ thù đã săn đuổi nó, dương súng nhằm bắn nó!

“Ta là Nagiơmuđin Gôxưnxki, thủ lĩnh của Đaghextan, thủ lĩnh được dân bầu bên hồ Anđi. Thanh gươm của ta nhằm bổ xuống chiếc đầu nào có mũ đính vành vải đỏ!”

“Hỡi những người anh em cùng theo Hồi giáo! Hãy theo te. Ta đã trương cao ngọn cờ màu xanh của đạo!” -Một kẻ khác đã cất giọng the thé mà nói như vậy. Đó là Uzun-Khátgi.

“Chừng nào ta chưa cắm được đầu thằng Bônsêvích cuối cùng lên cọc đặt trên đỉnh núi cao nhất miền Đaghextan, chừng đó ta chưa chịu treo vũ khí của mình lên tường!” - hầu tước Núcbếc Tarkôpxki gào lên như vậy.

Đúng vào năm đó, viên đại tá quân đội Nga hoàng là Kaimat Alikhanốp đã xây cho mình một tòa lâu đài ở vùng Khunzắc. Hắn gọi một người miền cao đến và chỉ cho xem nhà mới của mình. Khoái chí với lâu đài mới xây, y dương dương tự đắc hỏi:

- Thế nào, lâu đài của ta đẹp chứ?

- Đối với kẻ hấp hối thì lại còn quá đẹp là đằng khác, - người miền cao trả lời

- Sao ta lại sắp chết?

- Cách mạng tới…

- Không đời nào ta để nó tràn vào Khunzắc, - đại tá Alikhanốp nói thế và nhảy phắt lên con ngựa trắng của mình

“Ta là Xaitbây - cháu ruột của thủ lĩnh Samin. Ta từ chỗ giáo chủ Thổ Nhĩ Kỳ đến, để cùng với quân của người giải phóng Đaghextan” -lại một kẻ nữa đến nói như vậy và dẫn theo đủ loại tướng tá, sỹ quan của Thổ Nhĩ Kỳ.

“Chúng tôi là bạn của Đaghextan” - bọn can thiệp nước ngoài kêu lên, và bọn lính Anh nhảy xuống miền đất núi

Đaghextan là cửa ngõ của Baku. Ta phải khóa trái cửa đó lại!” - viên đại tá quân Nga hoàng là Bitrêrakhôp đã khoe khoang như vậy và phá luôn thành phố Cảng Pêtơrốpxcơ.

Đã có nhiều khách không mời mà đến. Bao nhiêu bàn tay bẩn thỉu đã giằng xe tấm áo che ngực Đaghextan! Bao nhiêu ngọn cờ khác nhau đã xuất hiện ở đây! Bao nhiêu ngọn gió đã quay cuồng trên dải đất này! Bao nhiêu ngọn sóng đã hất vào vách đá!

“Nếu ngươi không chịu khuất phục, hỡi Đaghextan kia, ta sẽ đẩy ngươi xuống biển mà dìm chết!” -bọn người từ nơi xa lại buông lời đe dọa.

Vào thời kỳ đó, bố tôi đã viết: “Đaghextan giống như con thú bị chim rỉa từ mọi phía!”

Súng đã nổ, lửa đã bốc cao, máu đã đổ, khói đã xông lên từ vách đá, ruộng lúa cháy thiêu, làng mạc xơ xác, tiêu điều, ốm đau bênh tật làm nhiều người quặt quẹo, các thành lũy đua nhau đổi chủ. Mọi chuyện ấy đã kéo dài trong bốn năm.

“Bán ruộng, mua ngựa, bán bò mua gươm”- dạo ấy người vùng cao thường nói thế.

Ngựa đã hí vang, khi chủ nó ngã xuống. Quạ moi mắt những thây ma.

Bố tôi đã từng ví Đaghextan dạo đó với tảng đá, tràn qua đấy có nhiều dòng sông khác nhau đã réo lên. Còn mẹ tôi thì ví với con cá bơi ngược chiều dòng nước xiết.

Abutalíp nhớ lại: “Dạo nấy nước ta mới thấy nhiều người thổi kèn zurna làm sao!”. Chính ông cũng đã từng làm người thổi kèn zurna cho đội du kích.

Giờ đây người ta đang viết lại bằng bút mực câu chuyện lịch sử mà ngày xửa những thanh gươm đã viết. Giờ đây, khi nghiên cứu những ngày ấy, người ta bắc đồng cân cân từng chiến công. Khi đánh giá các anh hùng, các nhà khoa họa giả tranh luận sôi nổi với nhau, thậm chí còn có thể nói là chiến đấu thực sự với nhau.

Nhưng các anh hùng thì đã làm xong phận sự của mình. Vả quả thật tôi không quan tâm đến chuyện xem ai nhất ai nhì, ai ba, ai bốn. Điều quan trọng là: cách mạng đã cất dao găm vào bao, sau khi vén vạt áo dài lau sạch vết máu của tên địch cuối cùng. Người vùng cao đã rèn con dao găm ấy thành lưỡi liềm. Chiếc lưỡi lê nhọn của mình, anh ta cắm xuống dải đất thoai thoải giữa hai vạt đá. Giữ chặt tay cày, anh bắt đầu cầy xới mảnh ruộng của mình: luôn miệng thúc bò đi nhanh hơn nữa: chất cao rơm thu từ ruộng về để lên đầy xe.

Cắm lá cờ đỏ lên đỉnh núi cao, Đaghextan ung dung vân vê ria mép của mình. Từ chiếc mũ vấn khăn của tên thủ lĩnh tự phong Gôxưnxki, dân chúng đã kết hình bù nhìn, còn chính “thủ lĩnh” thì đã bị cách mạng trừng trị. Trước tòa án, Gôxưxli khẩn khoản xin tha tội: “Vua Nga còn để cho Samin sống. Tóc không rụng khỏi đầu ông. Sao các ngài lại định giết tôi?”

Đaghextan và cách mạng trả lời y rằng đối với những kẻ như y thì Samin cũng chặt đầu. Samin đã nói rằng: “Kẻ phản bội thì ở dưới đất tốt hơn là trên mặt đất”. Và sự trừng phạt đã diễn ra, không một ngọn núi nào run rẩy, không một người nào khóc, không ai đặt bia lên mộ chôn tên giặc.

Còn Kaimat Alikhanốp thì chạy qua vùng rừng Xunchin trên mình con ngựa trắng. Hai con trai y cùng chạy theo y. Nhưng đạn của du kích đã đuổi kịp bọn chúng. Con ngựa trắng của ngài đại tá, đầu ủ rũ cúi xuống, thọt một chân đã trở về thành lũy Khunzắc.

- Bọn chúng đã dẫn mày đi theo con đường sai lạc rồi - Muxlim Ataep đã nói thế với con vật đáng thương.

- Thế mà bọn nó định đưa cả Đaghextan đi theo con đường đó đấy

Người ta đã đánh đuổi Bitrêrakhốp. Những đội du kích bừng bừng căm giặn đã dìm y chết chìm trong sóng biển Caxpie. “Amen”, - sóng biển tràn qua người y đã nói. “Amen”, - những ngọn núi cũng tiếp lời, - hãy để cho kẻ nào tạo ra địa ngục trên trái đất này phải rơi vào địa ngục.”

Ở Xtambun tôi đi ra ngoài chợ. Những người vốn gốc Avar trước kia xúm quanh tôi và chỉ cho tôi thấy một lão già đang lách đi giữa đám đông người. Lão ta trông lép kẹp như cái bao tải đã trút hết thóc ra.

- Lão ta là Cazimbây đấy

- Cazimbây nào?

- Là kẻ cùng kéo vào Đaghextan với quân của giáo chủ Thổ - nhĩ-kỳ ấy

- Chẳng lẽ nó còn sống sao?

- Như ông thấy, cái thân xác nó thì vẫn còn sống đấy!

- Họ giới thiệu tôi với lão già

- Đaghextan à…Tôi có biết đất nước đó, -lão già ọp ẹp đó nói

- Ở Đaghextan, chúng tôi cũng biết đến ông đấy, -tôi nói

- Phải rồi, tôi có sang đấy

- Ông có định sang đó nữa thôi? - tôi cố ý hỏi lão

- Không bao giờ sang đó nữa, -lão già nói rồi vội vàng bước vào sau quần hàng của mình

Lẽ nào kẻ bán hàng xén ngoài chợ Xtambun ấy lại quên rằng chính ở ngoài đồng làng Kaxunken, y đã giết chết ba người thợ cầy vô tôi? Chẳng lẽ y lại quên vách đá trên núi cao mà từ đó cô gái vùng cao đã nhảy xuống để khỏi lọt vào tay quân lính của y? Lẽ nào kẻ bán hàng vặt vãnh lại quên rằng có lần quân lính đã dẫn một chú bé đến trước mặt y và y đã giật trái anh đào của nó rồi nhổ hột vào giữa mắt đứa bé? Chắc ít ra thì hắn ta cũng không thể quên là đã phải mặc quần đùi mà bỏ chạy và một bà già vùng cao còn gọi với theo y: “Ê, mày bỏ quên mũ mãng rồi này!”

Bọn kẻ cướp đã bỏ chạy khỏi Đaghextan. Lính đổ bộ Anh đã bỏ chạy. Cazimbây đã bỏ chạy. Cháu của Samin là Xaitbây cũng đã bỏ chạy.

- Xaitbây bây giờ ở đâu? - tôi hỏi một người ở Xtambun

- Ông ta bỏ sang Arập Xauđich rồi

- Để làm gì?

- Để buôn bán. Ông ta có một ít đất ở bên ấy

Những kẻ làm nghề buôn bán: Các vị đã không được buôn bán ở Đaghextan. Cách mạng đã nói: “Chợ không họp”. Cách mạng đã lấy chổi thấm máu mà quét sạch đám người bẩn thỉu khỏi mảnh đất miền cao. Bây giờ chỉ còn thần xác ọp ẹp của những kẻ tự nhận là “cứu tinh, bảo vệ Đaghextan” ấy còn lang thang ở những miền xa lạ.

Cách đây vài năm ở Bâyrut có diễn ra Hội nghị các nhà văn Á - Phi. Tôi cũng được cử đến dự Hội nghị này. Có lúc không phải chỉ phát biểu trên Hội nghị mà còn phải nói chuyện ở những nơi mời chúng tôi đến. Trong một lần nói chuyện như vậy, tôi đã kể về Đaghextan của tôi, về con người, tập quán, đã đọc thơ của nhiều nhà thơ Đaghextan và của mình.

Sau buổi nói chuyện, một người phụ nữ trẻ đẹp đón gặp tôi trên bậc thang.

- Thưa ngài Gamzatốp, tôi có thể nói chuyện với ngài được không, ngài có thể dành cho tôi một ít thời giờ được không?

Và chúng tôi cùng đi trên những phố Bâyrút buổi tối

- Xin ngài hãy kể về Đaghextan. Hãy làm ơn kể hết tất cả - người bạn đường bất ngờ ấy yêu cầu tôi vậy

- Nhưng mà tôi vừa kể cả giờ liền rồi

- Tôi muốn nghe nữa, nghe nữa

- Thế chị quan tâm đến điều gì hơn cả?

- Tất cả, tất cả những gì liên quan đến Đaghextan.

Tôi bắt đầu kể. Chúng tôi lang thang dạo phố, không cần biết đi đâu Không để tôi kết thúc câu chuyện, chị ta cứ nói:

- Xin ngài kể nữa đi, kể nữa đi!

Tôi lại nói tiếp

- Xin ngài đọc thơ bằng tiếng Avar đi

- Nhưng mà chị có hiểu gì đâu

- Thế cũng không sao

Tôi đọc thơ. Ai lại từ chối những điều mà một người phụ nữ trẻ đẹp thế yêu cầu! Hơn nữa, trong giọng nói của chị ta có thể cảm thấy mối quan tâm chân thành muốn hiểu Đaghextan, nên không thể nào từ chối được

- Ngài có thể hát được một bài hát Avar nào không?

- Ồ không. Tôi không biết hát

- “Chắc chị ta sắp sửa bắt tôi múa nữa đây”- tôi chợt nghĩ

- Ngài có muốn nghe tôi hát không?

- Nếu chị thực lòng tôi rất mừng được nghe

Đến lúc ấy, chúng tôi đã đi tới sát bờ biển ngả màu xanh nhạt dưới ánh trăng rất sáng.

Và thế là ở Bâyrut xa xôi, một người đẹp không quen biết đã hát cho tôi nghe bài hát Đaghextan “Đalalai”, bằng thứ tiếng tôi không thể hiểu được. Nhưng rồi khi chị ta hát sang bài thứ hai thì tôi nhận ra rằng chị đã hát bằng tiếng Kumức.

- Sao chị lại biết tiếng Kumức? - tôi ngạc nhiên hỏi

- Tiếc rằng tôi không biết tiếng đó

- Thế còn bài hát…

- Bài hát này là ông tôi dạy

- Sao, ông của chị đã ở Đaghextan à?

- Vâng, ông tôi ở đó một thời gian

- Lâu chưa?

- Ngài biết không, ông tôi là Nucbếc Tarkôpxki.

- Đại tá Tarkôpxki sao?! Bây giờ ông ấy ở đâu rồi?

- Sống ở Têhêran một thời gian. Vừa mới mất năm nay. Khi gần chết, ông cứ bảo tôi hát cho ông nghe bài hát này mãi.

- Bài hát về gì vậy?

- Về những con chim đổi mùa…Ông còn dạy tôi một điệu múa Đaghextan. Đây, ngài xem này

Gương mặt người đẹp bỗng rạng rỡ, sáng lên như trăng rằm, chị nhẹ nhàng đưa tay lên cao, rồi trôi nhẹ đi một vòng hệt như con thiên nga bơi trên mặt hồ.

Sau đó, tôi yêu cầu chị ta hát lại một lần nữa bài hát về loài chim đổi mùa. Chị còn dịch cả lời cho tôi. Trở về khách sạn, tôi ghi lại bài hát theo trí nhớ, sau khi đã chuyển nó thành thơ bằng tiếng Avar.

…Phải rồi, mùa xuân đã đến với Đaghextan. Nhưng tôi vẫn cứ nghĩ mãi: không biết hầu tước Nubếc Tarkôpxki ấy có liên quan gì tới bài ca về loài chim đổi mùa này. Một kẻ sống giữa thủ đô Têhêran của Hoàng đế Iran như ông ta, thì cần gì phải nhớ đến mặt trời trên đỉnh núi, bởi lẽ ông ta đã là một viên đại tá bỏ chạy khỏi xứ sở cách mạng, để trốn tránh sự trừng phạt của Đaghextan. Làm sao mà ông ta có thể cảm thấy được nỗi buồn nhớ quê hương?

Khi mới sống ở Iran, Tarkôpxki nói: “Điều xảy ra với tôi ở Đaghextan là sai lầm của số phận, và tôi sẽ trở về đấy để sửa chữa sai lầm ấy”. Cùng với đám bạch vệ chạy ra nước ngoài ở đấy, ngày nào Tarkôpxki cũng ra bờ biển Caxpie để săn đón tin tức mới từ miền Đaghextan. Nhưng lần nào bọn họ cũng chỉ thấy lá cờ đỏ phần phật bay trên cột các con tàu bơi trên biển Caxpie. Về mùa thu, khi nhìn những đàn chim bay từ phương bắc tới, vợ ông ta buồn rầu cất tiếng hát. Bà cũng đã hát bài hát về loài chim đổi chỗ theo mùa. Dạo đầu, hầu tước Tarkôpxki đã rất khó chịu khi nghe bài hát đó.

Năm tháng trôi qua. Các con ông đã lớn, còn ông thì mỗi năm một già thêm. Ông hiểu rằng mình đã vĩnh viễn mất Đaghextan. Ông hiểu rằng một số phận khác đã đến với Đaghextan và đất nước này đã chọn cho mình con đường đi duy nhất đúng. Đến lúc ấy, vị hầu trước già nua nọ đành cũng bắt đầu khe khẽ hát bài ca về những đàn chim đổi mùa.

Bố tôi nói:

- Đaghextan không đi với những kẻ nào không đi với nó

Abutalíp nói thêm:

- Ai trèo lên mình ngựa lạ, kẻ đó sẽ nhanh chóng ngã xuống. Con dao găm này của chúng ta không hợp với áo may khác kiểu

Xulâyman Xtanxki viết:

“Tôi giống như lưỡi dao bị vùi xuống đất. Chính quyền Xô-viết đã đưa tôi lên, đánh sạch vết hoen rỉ và bây giờ tôi sáng lấp loáng”

Bố tôi còn nói:

- Từ xưa chúng ta vốn vẫn là người vùng cao, nhưng chỉ đến bây giờ chúng ta mới trèo lên được đỉnh núi.

Abutalíp nói thêm:

- Đaghextan, ngươi phải bước ra khỏi nhà hầm!

Mẹ tôi vẫn thường hát khi nhịp nhàng đưa nôi:

Ngủ đi con, rừng núi đã yên bình

Trên vách đá không còn nghe súng nổ…

Tháng ngắn nhất là tháng hai, thế nhưng lại là tháng quan trọng nhất, - Abutalíp còn nói thêm. - Tháng hai - Nga hoàng bị lật đổ. Tháng hai - thành lập Hồng quân. Tháng hai - Lênin tiếp đoàn đại biểu dân chúng miền cao

Vào thời gian ấy, ở làng Rugútgia xa xôi, phụ nữ đã làm bài hát về Lênin:

Người cho ta được làm người

Cho ta vũ khí rạng ngời chiến công

Đêm đen vây bủa mịt mùng

Có Lênin đất bỗng bừng sáng ra

Bóng đêm như bóng quạ già

Lẩn xa chim ó, lẩn xa phượng hoàng

Một dân tộc nhỏ có thể có số phận lớn. Những loài chim Đaghextan đang hót. Lời những người con cách mạng đang vang lên. Trẻ con đang nhắc đến họ. Tên tuổi họ được khắc vào bia mộ. Nhưng còn có những anh hùng không biết mộ nằm đâu.

Tôi thích dạo đi trên đường phố thủ đô Đaghextan vào đêm thanh vắng. Khi tôi đọc những tên phố, tôi lại có cảm giác các vị chủ tich Ủy ban cách mạng Đaghextan đang ngồi họp lại. Makhat Đakhađaép! Tôi đang nghe lời nói của ông: “Chúng ra là các chiến sỹ cách mạng. Ngôn ngữ chúng ta, tên gọi chúng ta, tính nết chúng ra đều khác nhau. Nhưng chúng ta có cùng một thứ: đó là lòng trung thành với cách mạng Đaghextan. Không một ai tiếc máu xương, tiếc cuộc đời mình cho cách mạng và Đaghextan”

Bọn thổ phỉ, trong đội quân của hầu tước Tarkôpxki đã giết chết Makhat.

Unlubi Buinắcxki. Tôi đang nghe lời nói của anh: “Kẻ thù sẽ giết tôi, Chúng sẽ giết các bạn tôi nữa. Nhưng những ngón tay chúng ta xiết chặt lại thành nắm đấm duy nhất thì kẻ thù không thể nào tách ra được. Quả đấm này nặng nề và chính xác bởi nó thu trong mình sức nặng lý tưởng cách mạng và những nỗi thống khổ của Đaghextan. Quả đấm ấy sẽ giáng vào yết hầu những kẻ áp bức. Chúng mày nên biết tới điều đó!”

Quân phản cách mạng của tướng Đênikin đã giết chết Unlubi, người cộng sản trẻ tuổi Đaghextan năm ấy vừa 28 tuổi. Bọn chúng giết anh trên sa mạc. Bây giờ hạt anh túc đã nở hoa ở đấy.

Tôi còn nghe tiếng nói của Ôxkar Lêsinxki, của Kazi-Mahômet Agaxiep, của Garun Xaiđốp, Alibếch Bagatưrốp, Xaphar Duđaorôp, Xôntan-Xait Kazbêkôp, của bốn con Batưmurzaép, của Ômarôp-Trôcxki…Còn có thể kể thêm nhiều tên người đều đã hy sinh. Nhưng mỗi cái tên ấy là lửa, là vì sao, là bài hát. Tất cả họ đều là những anh hùng trẻ mãi. Họ là những anh hùng trẻ mãi. Họ là những Tsapaép, Sorxơ, Saumian của miền Đaghextan. Họ đã ngã xuống ở Áctắc, ở kha núi Aia-Cắc, ở bên dòng Caxumkent, bên thành Khunzắc, trong làng Khaxavuro bị cháy, nơi Đécben cổ kính. Không một hòn đá nào trong khe núi Arakan không thấm máu các vị chính ủy Đaghextan. Ở vùng núi thấp Môtrôc, kẻ thù đã đặt bẫy rình bắt đội quân của Bagatưrôp. Cảng Pêtơrốpxcơ, Têmir-Khan-Sura và cả bốn dòng sông Kôixu đều đã chứng kiến cảnh đầu tơi máu chảy. Giờ đây hoa vẫn được ném xuống bốn dòng sông Kôixu để tưởng nhớ những người đã khuất. Một trăm nghìn người Đaghextan đã hy sinh -họ là những đảng viên cộng sản và chiến sỹ du kích. Nhưng nhiều dân tộc khác đã biết đến Đaghextan. Hàng triệu người bạn đã giơ tay ra đón Đaghextan đó. Cảm thấy hơi ấm của những bàn tay bè bạn, người Đaghextan bèn nói với nhau: “Chúng ta giờ đây không còn ít ỏi nữa”

Chiến tranh không sinh ra con người, nhưng trong ngọn lửa của chiến tranh cách mạng, nước Đaghextan mới đã sinh ra.

Ngày 13 tháng 11 năm 1920, Đại hội bất thường lần thứ nhất các dân tộc Đaghextan được triệu tập. Nhân danh chính phủ Liên bang cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô Viết Nga, Xtalin đã phát biểu tại Đại hội. Chính Người đã công bố quyết định thành lập nước Cộng họa tự trị Đaghextan - xứ sở của núi rừng. Bắt đầu tên gọi mới, con đường mới, số phận mới. Trong lịch của Đaghextan ngày này được ghi bằng màu đỏ.

Ít lâu sau, nhân dân Đaghextan nhận được một món quà. Lênin đã gửi tặng tấm ảnh của mình với dòng chữ đề: “Tặng Đaghextan Đỏ”. Những người thợ kim hoàn miền Kubatri và thợ mộc Unxun đã làm nên chiếc khung tuyệt đẹp để treo tấm ảnh ấy. Cũng vào năm ấy con tàu mới “Đaghextan Đỏ” đã rời cảng Makhátkala ra đi.

Và chính giờ đây Đaghextan cũng giống như một con tàu hùng vĩ bắt đầu cuộc hành trình dài trên biển lớn.

“Ngôi sao buổi sáng”. Tờ tạp chí đầu tiên của Đaghextan đã có tên gọi như vậy. Bình minh đã đến với Đaghextan. Những cánh cửa đã mở vào cuộc đời rộng lớn.

Trong những ngày nội chiến khó khăn, khi những đội quân của Gôxưnxki làm chủ núi rừng, bố tôi đã nhận được thư của một bạn học cũ cùng trường.

Trong thư, người bạn học cũ đã kể về Nagiơmuđin Gôxưnxki và quân đội của ông ta. Cuối thư, bố tôi đọc thấy mấy dòng này: “Nagiơmuđin không hài lòng về anh. Tôi có cảm giác rằng ông ấy rất muốn anh làm thơ ca ngợi ông để tuyên truyền trong dân chúng. Tôi đã nhận nhiệm vụ bắt liên lạc với anh và hứa rằng anh sẽ thực hiện ý muốn đó của Nagiơmuđin. Xin anh hãy thực hiện yêu cầu của tôi và nguyện vọng của thủ lĩnh Nagiơmuđin. Ông ấy đang chờ anh trả lời”

Bố tôi đã trả lời: “Nếu anh đã nhận nhiệm vụ như thế thì anh hãy tự làm lấy thơ về Nagiơmuđin. Về phần tôi thì tôi không có ý định làm đẹp lòng ông ta. Vaxxalam vakalam, chào anh…”

Cũng vào thời gian ấy, chiến sỹ bônsêvích Mahômet-Mirza Khizrôép đã mời bố tôi đến Temir-Khan-Sura và mời cộng tác với báo “Ngọn núi đỏ”. Chính báo này đã đăng bài thơ của bố tôi - “Lời kêu gọi những người cùng khổ vùng cao”

Bố tôi viết về Đaghextan mới, đã cộng tác với báo “Ngọn núi đỏ”. Thời gian trôi qua. Gia đình Mahômet-Mirza Khizrôép đã sinh hạ một người con gái. Ông cho mời bố tôi đến để đặt tên giùm. Hai tay nâng đứa bé lên cao bố tôi dõng dạc nói:

- Dagơra!

“Dagơra” có nghĩa là “ngôi sao”

Những vì sao mới đã ra đời. Những đứa trẻ lớn lên mang theo tên của những anh hùng đã ngã xuống. Cả Đaghextan trở nên giống như cái nôi lớn.

Sóng biển Caxpie hát những bài hát ru cho Đaghextan. Đất nước Liên Xô vĩ đại cúi xuống bên Đaghextan như người mẹ hiền bên đứa trẻ

Còn mẹ tôi thì dạo ấy đã hát những bài hát về đàn chim én, về những ngọn cỏ mọc lên từ sau phiến đá, về những bông hoa nở rộ mua thu. Trong âm thanh những bài hát ru ấy, trong ngôi nhà chúng tôi, ba người con trai và một người con gái đã lớn lên.

Và ở Đaghextan lại có thêm một trăm nghìn con trai con gái lớn lên. Đã xuất hiện thêm những thợ cầy, chăn nuôi gia súc, làm vườn, đánh cá, thợ đá, thợ đúc, nhà nông học, bác sỹ, giáo viên, kỹ sư, nhà thơ, nghệ sỹ. Những con tàu lớn ra khơi, máy bay vút lên trời cao và những ngọn đèn xưa nay chưa từng thấy đã tỏa sáng.

- Giờ đây tôi đã trở thành chủ nhân của một gia sản lớn -Xulâyman Xtanxki đã nói

- Bây giờ tôi không phải chỉ lo cho làng mình mà còn lo cho cả đất nước - bố tôi nói

- Hỡi nhưng bài ca của ta, hãy bay đến điện Kremli! - Abutalíp thốt lên

Những thế hệ mới đã tạo ra những tính cách mới của dân tộc

Đất nước Xô Viết vĩ đại là một cây đại thụ. Đaghextan làm một cành trên đó.

Thế rồi bọn phát xít đã tấn công chúng ta, để hòng đánh bật rễ gốc cây đó, để đốt cả thân, cành của nó.

Vào ngày hôm đó, cuộc sống phải trôi đi như thường lệ. Phiên chợ chủ nhật nhóm họp ở Khunzắc. Trong thành đang có triển lãm thành tựu nông nghiệp của huyện. Một tốp thanh niên kéo đi nhằm leo lên đỉnh núi Xetlô. Nhà hát Avar đang chuẩn bị diễn vở kịch của bố tôi: “Chiếc hòm tai họa”. Tối hôm đó sẽ phải là đêm công diễn đầu tiên.

Nhưng ngay từ buổi sáng, một chiếc hòm tai họa đã bật tung nắp và buộc người ta phải quên đi mọi thứ tai họa khác: buổi sáng hôm ấy, chiến tranh nổ ra.

Ngay lúc ấy, từ khắp các bản làng đã túa ra những tốp đàn ông vừa thanh niên, vừa những người đứng tuổi, mới hôm qua còn yên lành cày ruộng, chăn cừu, đến hôm nay đã thành chiến sỹ bảo vệ Tổ quốc. Ông già, bà cả, phụ nữ, trẻ con đứng rất lâu trên mái nhà khắp làng nhìn theo bóng những người ra đi. Và họ đã đi rất lâu, nhiều người đi mãi mãi. Thường chỉ nghe thấy những lời nói:

- Con chào mẹ, con đi đây!

- Bố ở lại mạnh khỏe, bố nhé!

- Chào Đaghextan!

- Các con đi mạnh giỏi, mang chiến thắng trở về!

Những đoàn tàu nối nhau rời Makhátkala ra đi, như đẩy núi non cách xa biển lớn. Những đoàn tàu mang theo đi tuổi trẻ, vẻ đẹp, và sức mạnh của Đaghextan. Sức mạnh đó cần cho cả đất nước. Cũng có khi nghe thấy những lời:

- Em gắng ở lại nhé, em thân yêu!

- Xin tạm biệt em, người vợ yêu thương của anh!

- Đừng bỏ em, em muốn đi cùng anh!

- Bọn anh sẽ chiến thắng trở về đấy!

Những đoàn tàu rời ga. Những đoàn tàu nối tiếp nhau đi. Tôi nhớ lại trường sư phạm thân thuộc của mình. Trung đoang kỵ binh Đaghextan đã tập hợp bên nấm mộ lớn của những liệt sỹ cách mạng vô danh. Chỉ huy trung đoàn là một chiến sỹ du kích nổi ti?