TIẾNG NÓI
TIẾNG NÓI
ừ Avar “minlat” có hai nghĩa: “dân tộc” và “mối quan tâm”. “Ai không quan tâm đến dân tộc, người ấy cũng không thể quan tâm đến cả thế giới”, - bố tôi thường nói.
“Liệu dân tộc có phải quan tâm đến kẻ không quan tâm đến dân tộc?” -Abutalíp đặt câu hỏi.
“Chắc bọn gà, ngỗng, chuột thì chẳng có dân tộc, nhưng người ta thì phải có” - mẹ tôi từng nói thế
Có dân tộc có hai nước cộng hòa như dân tộc láng giềng của chúng tôi là Ôxêchin. Lại có nước cộng hòa tới 40 dân tộc.
“Cả một xứ sở lắm tiếng nói, nhiều dân tộc”, -một vị khách đã nói như vậy về Đaghextan.
“Một con rồng nghìn đầu” - kẻ thù đã nói như vậy về Đaghextan.
“Một cái cây nhiều cành” - bạn bè đã nói về Đaghextan như vậy
“Dù có đốt đuốc mà soi tìm khắp thế giới này cũng không thể thấy nơi nào ít người mà nhiều dân tộc như vậy”- những người đi nhiều nơi trên thế giới này đã kết luận như thế.
Abutalíp nói đùa:
- Chúng ta đã giúp cho văn hóa Gruzia phát triển rất nhiều.
- Bác nói gì lạ vậy? Nền văn hóa của họ đã có nghìn năm nay. Nhà thơ Sôta Ruxtaveli đã sống từ 800 năm trước, còn chúng ta thì mới hôm qua mới bắt đầu có chữ viết. Vậy thì làm sao mà chúng ta giúp họ được?
- Thế này nhé. Ở miền chúng ta mỗi làng có một tiếng nói. Người Gruzia, láng giềng của chúng ta, mới quyết định nghiên cứu và so sánh các tiếng nói đó. Những người nghiên cứu chuyện đó mới viết thành bài báo, thành sách khoa học và trở thành học giả, phó tiến sĩ. Chưa chắc họ đã có nhiều tiến sĩ đến như vậy nếu khắp miền Đaghextan chỉ có một tiếng nói. Đầu đuôi là như vậy đó!
Phải rồi, người ta đang viết và sẽ còn viết đủ loại sách về ngữ pháp, cú pháp, ngữ âm, từ vựng của các thứ tiếng Đaghextan. Ở đấy có đủ chuyện để làm đấy. Hỡi các nhà học giả, các vị hãy đến miền chúng tôi, ở đấy có thừa việc cho các vị nghiên cứu, đủ đến tận đời con cháu nữa.
Các nhà học giả tranh cãi nhau. Một số thì nói: ở Đaghextan có bằng này ngôn ngữ, số khác lại nói: chỉ có thể kia thôi. Một số nói: các ngôn ngữ ấy đã hình thành thế này, số khác lại quả quyết là thế khác. Trong ý kiến và lập luận của họ có nhiều điều trái ngược, mâu thuẫn nhau.
Còn tôi thì tôi chỉ biết rằng ngồi cùng trên một chiếc xe bò có khi gồm những người nói năm thứ tiếng khác nhau, và nếu ở ngã tư đường một lúc có chừng dăm chiếc xe bò dừn lại thì bạn có thể nghe tới ba chục thứ tiếng khác nhau!
Khi nhóm đảng hoạt động bí mật do Unlubi Buinắcxki lãnh đạo bị xử bắn - họ gồm sáu người tất cả - thì trước khi chết đã vang lên lời chửi rủa quân thù bằng năm thứ tiếng:
Unlibi Buinắcxki - người Kumức
Xait Apđungalimốp - người Avar
Apđun -Vagáp Gatgiép - Người Đarghin
Mếtgit Ali-Ôgơlư - người Kumức
Apđurăcman Ixmailốp - Người Lêzghin
Ôxkar Lêsinxki - người Nga
Nhà văn Đaghextan là Mahômét Xulimanốp đã viết mười lăm truyện ngắn vui về mười lăm chàng Mahômét thuộc mười lăm dân tộc khác nhau miền Đaghextan. Tập truyện ngắn đã có tên như vậy: “Mười lăm chàng Mahômét”
Nhà văn Nga Đơmitơri Tơrunốp đã viết bút ký về một nông trang, nơi có tới ba mươi hai dân tộc cùng làm việc.
Trong sổ tay của Épfenđi Kapiép còn ghi lại rằng ông và ba nhà văn Đaghextan khác là Xulâyman Xtanxki, Gamzát Xađar và Apđula Magômêđốp cùng đi trong một cu-pê tàu hỏa lên Matxcơva dự Đại hội nhà văn Liên Xô lần thứ nhất. Họ cùng đi với nhau suốt ba ngày đêm, cả ba đều là nhà thơ nhân dân của Đaghextan, thế mà họ cũng không thể nói chuyện với nhau được. Mỗi người nói một thứ tiếng. Đành phải ra hiệu bằng tay, bằng nét mặt với nhau. Rồi cũng hiểu nhau tàm tạm.
Nhớ lại cuộc đời du kích của mình, Abutalíp đã kể: “Ngồi quanh nồi cháo yến mạch là một tốp người nói hai mươi thứ tiếng. Một túi bột mì thường được chia cho người của hai mươi dân tộc!”
Ở nước chúng tôi có vùng Thượng Giengutai và Hạ Giengutai. Khoảng cách giữa hai vùng đó là ba cây số. Nhưng vùng Hạ Giengutai thì nói tiếng Kumức và vùng Thượng Giengutai thì nói tiếng Avar!
Người Đarghin nói rằng người vùng Mêghép là người Đarghin: Người Avar cũng nói rằng ở đấy là người Avar. Thế thì chính dân Mêghép nói họ là người gì? Họ nói: chúng tôi chẳng phải là người Đarghin, cũng chẳng phải người Avar. Chúng tôi là người Mêghép. Chúng tôi có tiếng nói riêng của mình! Đi khỏi vùng Mêghép bảy cây số sẽ tới làng Trốc. Chớ có nói tiếng Mêghép ở đấy, vì làng Trốc cũng lại có tiếng nói riêng của mình!
Người ta giải thích sở dĩ bí mật của những người thợ bạc vùng Kubatri giữ được lâu là vì chẳng ai hiểu được ngôn ngữ của họ cả. Giả sử như có anh thợ bạc nào ngứa mồm muốn nói bí quyết của nghề mình thì cũng chẳng ai hiểu được anh ta!
Người ta còn kể lại rằng ngày xưa có lần lãnh chúa vùng Khunzắc cử thám tử của mình đến làng Giđatli nghe xem ở đấy người ta nói gì với nhau trong đình làng và ngoài chợ, để biết dân làng Giđatli đang nghĩ gì.
Thám tử trở về sớm hơn dự định.
- Biết cả rồi sao?
- Thưa lãnh chúa, chẳng biết gì hết ạ.
- Sao lại thế?
- Mỗi người nói một thứ tiếng. Ngôn ngữ của họ tôi không sao hiểu được.
Một người vùng núi đến chợ làng Anđi để mua áo khoác ngoài. Trông thấy áo ưng ý, anh ta mon men bước lại gần và bắt đầu mặc cả. Mặc cả đi mặc cả lại một lúc thì bỗng thấy người bán sổ với nhau hàng tràng bằng thứ tiếng Anđi. Người mua áo bèn nói:
- Vì tôi là người mua nên cần phải nói thứ tiếng tôi hiểu.
- Ừ, thì chúng tôi sẽ nói cho anh hiểu chừng nào anh bằng lòng với giá chúng tôi đặt.
Nói cho công bằng thì xưa nay người Anđi chưa bao giờ chịu thiệt trong khi mua bán.
Một chàng thanh niên miền cao phải lòng một cô gái đẹp
Anh quyết định viết cho nàng ba chữ thiêng liêng: “Anh yêu em” - nhưng không phải trong thư, mà ở nơi người con gái ấy đi qua và ở những nơi cô ta có thể thấy lời tỏ tình của anh: ở vách đá, trên con đường mòn dẫn đến nguồn nước, trên tường nhà cô, trên cây đàn panđur của mình. Nếu chỉ thế thôi thì cũng chưa thành tai họa. Nhưng chẳng dè chàng trai nọ lại nảy ra dự định ghi ba chữ đó bằng tất cả các thứ tiếng có ở Đaghextan.
Nhằm đạt được mục đích đó, anh lên đường. Anh nghĩ rằng cuộc hành trình sẽ không lâu, nhưng không ngờ ở mỗi làng người ta lại nói ba chữ ấy theo cách khác nhau
Điê mun iôkula (tiếng Avar)
Zaz vun kianđa (tiếng Lêzghin)
Tơtun ina trai bura (tiếng Lắc)
Khơlu nap rigunra (Tiếng Đarghin)
Men xênhi xuêmen (tiếng Khumức)
Uzun uvu kunduzut (tiếng Tabaxaran)
Me ture khôxđenum (tiếng Tát)
Lại còn dân làng Bôtlích, Trốc, Xumađin, Xunchin…nữa chứ!
Người ta kể rằng cho đến nay chàng trai si tình vẫn còn lang thang khắp các triền núi, còn người yêu của anh ta thì đã đi lấy chồng từ lâu, đã già lụ khụ, còn “hiệp sỹ” của chúng ta thì vẫn đi tìm những lời tỏ tình ấy..
- Anh có biết ở làng anh người con trai nói: “Anh yêu em” như thế nào không? - ông già “hiệp sỹ” hỏi một chàng trai.
Lúc ấy, chàng trai ôm choàng lấy người con gái đứng cạnh mình và trả lời:
- Đấy, ở vùng cháu người ta nói đến tình yêu như vậy đấy bác ạ!
Từng loài chim nhỏ, từng loại hoa, từng dòng suối núi ở Đaghextan đều có hàng chục tên gọi.
Theo Hiến pháp thì ở Đaghextan có tám dân tộc chính: Avar, Đarghin, Kumức, Lêzghin, Lắc, Tát, Tabaxaran, Nôgai.
Chúng tôi xuất bản 5 tờ tạp chí văn học trên 5 thứ tiếng. Đó là các tạp chí “Đuxtvan”, “Đôxlúc”, “Ganmắcđes”, “Guđunli”, “Đuxsivu”. Tất cả đều có chung một nghĩa là “Hữu nghị”
Sách ở Đaghextan xuất bản bằng chín thứ tiếng. Nhưng còn các bài ca đã được hát bằng bao nhiêu thứ tiếng? Mỗi tấm thảm đều có đường trang trí khác nhau. Mỗi thanh gươm đều có dòng chữ khắc riêng của mình.
Vì đâu mà có tình trạng trên một bàn tay lại có nhiều ngón như vậy? Tại sao ở miền Đaghextan lại có nhiều tiếng nói khác nhau đến thế?
Cứ để tùy cho các nhà học giả giải thích hiện tượng đó theo cách riêng của họ. Còn bố tôi thì kể lại thế này:
“Đức Allah phái sứ giả của mình xuống trần thế, sứ giả cưỡi la, mang theo một cái bao lớn, đựng đủ các thứ tiếng. Đến từng nước, vị sứ giả ấy lại ban phát một thứ tiếng: Tiếng Trung Quốc cho người Trung Quốc, người Ả Rập cho tiếng Ả Rập, người Hy Lạp tiếng Hy Lạp, người Nga - tiếng Nga, người Pháp - tiếng Pháp. Các ngôn ngữ ấy đều khác nhau: thứ thì êm dịu du dương, thứ thì cứng cáp dứt khoát, thứ thì bóng bẩy, đẹp đẽ, thứ thì mềm mại dịu dàng. Nhân dân khắp nơi đều vui mừng nhận điều ban phát ấy và ngay lập tức nói với nhau bằng thứ tiếng mới ấy. Nhờ có tiếng nói mà con người hiểu nhau tốt hơn các dân tộc xích lại gần nhau hơn.
Vị sứ giả nọ cũng cưỡi con la đến tận miền Đaghextan chúng tôi. Trước đó ông ta vừa ban phát cho người Gruzia thứ tiếng mà sau này nhà thơ Sôta Ruxraveli sẽ viết bản trường ca của mình; ông ta cũng vừa cho người Ôxêchin tiếng Ôxêchin mà say này Côxta Khêtagurốp sẽ viết. Đến lượt dân miền Đaghextan nhận tiếng nói của mình.
Nhưng hôm ấy khắp miền Đaghextan nổi cơn bão tuyết. Tuyết cuốn khắp khe núi che kín bầu trời, không còn nhìn thấy đâu là nhà, đâu là đường nữa. Chỉ còn nghe tiếng gió rít trong màn đêm tiếng vách đá chốc chốc lại đổ ầm ầm xuống vực và tiếng bốn dòng sông Kôixu réo lên dữ dội.
- Không, - vị sứ giả phân phát tiếng nói bèn thốt lên, lúc này ria mép của ông ra cũng bắt đầu lạnh cóng, - ta sẽ không bò lên vách đá này nữa, thêm nữa, tiết trời lại dữ dội thế này.
Ông ta lôi bao của mình ra, trong đó dưới đáy còn chừng hai nắm tiếng nói chưa kịp phân phát, rồi ném các tiếng nói ấy lên khắp miền núi chúng tôi.
- Đấy, ai thích lấy tiếng nào thì lấy, -ông ta nói vậy rồi trở về với Đức Allah
Nhưng tiếng nói ấy được gió tuyết đón lấy và cuốn tung đi khắp các khe núi, vách đá. Ngay lúc đó, dân chúng Đaghextan đều chạy ra khỏi nhà mình, Họ hối hả chen chúc nhau chạy ra đón trận mưa vàng bạc mà họ đã chờ đợi từ ngàn năm nay. Người ta bắt đầu hứng lấy, thu lượm những hạt vàng mỗi người được một thứ! Lúc ấy mọi người đã kiếm được tiếng nói của mình. Dân chúng mang thứ vừa nhặt được chạy vào nhà mình chờ cho đến lúc bão tuyết chấm dứt.
Sáng hôm sau, khi mọi người vừa tỉnh dậy, họ bỗng thấy mặt trời sáng tỏ, chẳng thấy đâu dấu vết của bão tuyết hôm qua! Họ nhìn thấy kia là núi! Và bây giờ đó đã là “núi”. Có thể gọi nó bằng tên rồi. Họ nhìn thấy kia là biển! Và bây giờ nó là “biển”. Có thể gọi nó bằng tên rồi. Tất cả những gì hiện ra trước mắt, bây giờ đều có thể gọi bằng tên. Thật là sung sướng quá!. Đây là “bánh mì”, kìa là “mẹ”, đây là “thanh gươm”, kia là “bếp lò”, đây là “con trai”, kia là “hàng xóm” đây là “mọi người”.
Mọi người chạy ra khỏi nhà, cùng kêu lên tiếng “Núi!”. Nhưng họ bỗng nghe thấy tiếng mọi người nói từ đó một cách khác nhau. Họ lại cùng gọi “Biển!” Và cũng lại nghe thấy mỗi người nói một phách! Thế là từ đấy hình thành các thứ tiếng riêng biệt của người Avar. Lêzghin, Đarghin, Kumức, Tát, Lắc…Và cũng từ dạo đấy tất cả các miền này có tên chung là Đaghextan. Con người không còn sống như cừu, sói, ngựa, châu chấu nữa…Người ta còn kể rằng “thiếu chút nữa thôi thì ngựa cũng hóa thành người”
Hỡi vị sứ giả của Đức Allah! Sao lúc ấy ông lại sợ hãi bão tuyết và những triền núi dốc ngược ấy? Sao ông lại chẳng nhìn ngó gì mà phân phát tiếng nói cho chúng tôi?
Ông có biết mình đã gây ra điều gì không? Ông đã lấy tiếng nói mà ngăn cách, phân chia những con người hết sức giống nhau về tinh thần, tấm lòng, phong tục, tập quán và cách sống.
Thôi được, mặc dầu vậy, chúng tôi cũng cảm ơn ông. Chẳng có tiếng nói nào là xấu cả. Nhưng chuyện còn lại, chúng tôi sẽ tự kiếm cách giải quyết lấy vậy. Chúng tôi sẽ tìm ra con đường để đến với nhau, sẽ làm mọi điều sao cho những tiếng nói khác nhau cuối cùng không ngăn cách chúng ta mà liên kết chúng ta lại.
Sau đó nhiều kẻ thù đã tấn công chúng tôi: Timua thọt chân, quân Ả Rập, Hoàng đế Iran; tất cả đều đã cố ép chúng tôi nói tiếng của họ. Nhưng dù chúng có cố, rung mạnh cây của chúng tôi, cành vẫn không gãy xuống; bàn tay có bị lắc mạnh đến đâu, ngón tay cũng không rời ra.
“Phải giữ gìn tiếng nói như giữ gìn đất nước quê hương” - Samin nói
“Lời nói chẳng khác gì đạn, đừng phí phạm nó”- Khátgi-Murát nói thêm.
“Khi chết, người cha để lại cho con cái mình nhà cửa, ruộng vườn, thanh gươm và cây đàn panđur. Nhưng một thế hệ khi mất đi thì để lại cho thế hệ tiếp theo tiếng nói. Ai có tiếng nói người ấy sẽ xây được nhà mình, sẽ cầy được ruộng, đúc được kiếm, lên được dây đàn panđur và gẩy được nó”, - bố tôi đã nói như vậy
Ôi, tiếng nói thân yêu của tôi! Tôi không biết người có hài lòng về tôi không, còn tôi thì sống nhờ người và tự hào về người. Giống như dòng nước nguồn trong vắt từ tầng đất sâu chạy ra đón ánh mặt trời, nơi có những hàng cây xanh ngát, những âm thanh của tiếng nói thân yêu cũng từ đáy lòng tôi mà dâng trào lên cổ họng. Đôi môi mấp máy. Tôi lắng nghe lời thì thào của tôi, tôi lắng nghe tiếng nói của tôi; và tôi có cảm giác rằng đó chẳng khác nào dòng suối núi đang lao mạnh xuống, réo qua những vách đá hẹp tìm đường ra với biển.
Tôi yêu tiếng nước reo. Tôi yêu tiếng thép đanh khi hai con dao găm rút ra khỏi vỏ và đập vào nhau. Những cái đó trong tiếng nói của tôi đều có. Tôi còn yêu tiếng thì thầm của tình yêu.
Hỡi tiếng nói thân yêu của tôi, thật khó cho tôi, khi tôi cố làm cho mọi người cùng hiểu. Tiếng nói ấy thật giàu âm thanh, biết bao nhiêu từ trong đó, không phải là người Avar thì thật khó học được cách nói những từ đó, nhưng nếu đã biết rồi thì nói lên những tiếng đó thật ngọt ngào biết bao! Cho dù chỉ đơn giản là đếm đến mười: txô, liapgô, kiigô, unkigô, sugô, angô, míchgô, íchgô, antxigô. Khi tôi gặp một người biết đếm đúng đến mười bằng tiếng Avar tôi liền so sánh điều đó với sự dũng cảm cần thiết để có thể vượt qua từ bờ bên này sang bờ bên kia cùng dòng sông đầy ắp nước mà vẫn vác được hòn đá lớn trên vai.
Nếu anh biết đếm đúng đến mười, thì anh cũng sẽ biết đếm từ mười trở đi. Và bấy giờ thì anh cũng đã biết bơi. Hãy can đảm tiến về phía trước.
Biết nói gì về những người của các dân tộc khác đây! Ngay đến bọn con cái người dân tộc Avar chúng tôi mà các cụ cũng thường bảo: “Này, thử nói một mạch ba lần liền câu sau đây xem nào: “Kiôđa ghiócki kivécki kiva-kivađana”. Câu này có nghĩa là: “Ếch kêu ồm ộp dưới gầm cầu”. Vẻn vẹn chỉ có bốn từ thôi, vậy mà bọn trẻ làng tôi đã phải tập đi tập lại suốt mấy ngày để phát âm cho đúng và nhanh câu đó.
Abutalíp biết nói tiếng Avar; ông đã gửi cậu con trai của mình tới làng Xađa chúng tôi cho nó học tiếng Avar. Khi cậu con trở về Abutalíp liền hỏi:
- Mày cưỡi lừa về phải không?
- Vâng, con cưỡi lừa
- Biết đếm đến mười chưa?
- Con biết đếm rồi
- Hãy nói một mạch ba lần liền câu: “Kiôđa ghiócki kivécki kiva-kivađana” cho ta nghe xem nào.
Cậu con trai đã đọc câu ấy
- Ồ, có thể coi mày là đã chọc vào đúng khuỷu tay của mày rồi đó!
Thứ ngôn ngữ của các bản làng chúng tôi bị những vách đá ép lại như vậy. Để ghi lại cách phát âm của chúng tôi, các âm của chúng tôi, theo cách nói bác học, là việc phiên âm các âm - âm thanh quản và âm bật hơi - đã không tìm được đủ số chữ cái trong một bảng chữ cái. Do đó, khi sáng tạo ra chữ viết cho chúng tôi người ta đã phải tìm đến những chữ cái trong bảng chữ cái Nga có bổ sung thêm những cái riêng và các tổ hợp chữ cái. Đặc biệt là đối với các phụ âm.
Có lẽ vì các chữ cái thừa dấu mà bất kỳ cuốn sách bằng tiếng Avar nào khi dịch ra tiếng Nga trông có vẻ thanh tú hơn. Có thể so sánh cuốn sách đó với người miền núi từng ba tháng liền giữ tuần chay đạo Hồi
Có người hỏi Samin:
- Sao ở Đaghextan lại có nhiều dân tộc thế?
- Để cho dân tộc này có thể cứu giúp dân tộc khác thi rơi vào tai họa. Để cho dân tộc này có thể hòa nhìn hát cùng dân tộc khác khi niềm vui đến với họ
- Thế có phải mọi dân tộc đã dang tay cứu giúp một dân tộc lâm vào tai nạn không, - bây giờ nhiều người hỏi tôi.
- Đúng như thế. Không một dân tộc nào đã né tránh nghĩa vụ của mình.
- Thế có phải bài ca đã nhịp nhàng vang lên?
- Phải rồi, mọi dân tộc đã cùng hát nhịp nhàng, Bởi cùng ta cùng có chung Tổ quốc.
Nhiều giai điệu, nhưng chỉ hợp thành một bài ca. Có ranh giới giữa các tiếng nói, nhưng không có ranh giới giữa những trái tim. Và chiến công của nhiều người khác nhau cuối cùng cũng đã hòa thành một chiến công.
- Tuy nhiên, vẫn phải có sự khác nhau giữa các dân tộc chứ? Sự khác nhau đó là gì?
- Câu hỏi này rất khó trả lời
Người ta thường nói về các dân tộc miền Đaghextan như sau: có dân tộc sinh ra là để chiến đấu, có dân tộc thì chuyên chăn cừu, có dân tộc lại sinh ra để cầy ruộng, có dân tộc thì lại thích làm vườn…Nhưng đó là những lời nói vô nghĩa. Dân tộc nào cũng đều có chiến sỹ, người chăn cừu, thợ rèn và người làm vườn. Dân tộc nào cũng có những người anh hùng, có ca sỹ và có thợ lành nghề.
Người Avar có: Samin, Khátgi-Murát, Gamzát, Makhơmút, Makhat.
Người Đarghin có: Batưrai, Bagatưrép, Akhơmet, Mughi, Rabađan Nurốp, Kara-Karaép.
Người Lêzghin có: Xulâyman, Êmin, Taghir, Agaxiép, Êmirốp.
Người Kumức có: Irtri Kazắc, Alim-Pasa, Unlubi, Xônxtan-Xaít, Zainulabít Batưrmurzaép, Nukhai.
Người Lắc có: Garun Xaiđốp, Xaít Gabiép Épfenđi Kapiép, Xurkhai và cả ông bạn già Abutalíp của tôi nữa
Trong số rất nhiều dân tộc, tôi chỉ kể ra những dân tộc nào hiện ra đầu tiên trong trí nhớ của tôi. Ở mỗi dân tộc, tôi chỉ kể tên những người hiện ra đầu tiên hiện ta trong trí nhớ của tôi. Ở miền Đaghextan chúng tôi còn nhiều dân tộc nữa, còn biết bao tên tuổi đáng nhớ nữa.
Đôi khi có người nói rằng dân tộc này thì nhẹ dạ, dân tộc kia thì đần độn, dân tộc nọ hay ăn cắp vặt và có dân tộc lại hay đi lừa đảo. Theo tôi, đó là một sự bịa đặt.
Dân tộc nào cũng có kẻ xấu người tốt, có người cao thượng và kẻ hèn hạ, có người đẹp đẽ và có những kẻ dị dạng quái thai. Có thể tìm thấy cả thằng ăn trộm và kẻ hay đặt điều vu cáo. Nhưng đó sẽ chỉ là loài cỏ dại, đâu phải là dân tộc!
Có một người bạn tôi nói thế này:
- Tôi có thể phân biệt trước được rằng người này thuộc dân tộc nào
- Sao anh có thể làm được thế?
- Rất đơn giản thôi. Này nhé, người thuộc dân tộc miền Đaghextan (Chúng ta sẽ không nói tên cụ thể), khi vừa đến Makhátkala, thì việc đầu tiên anh ta muốn làm là đi tìm quán ăn và tìm nơi có thể làm quen với các cô gái đẹp. Chỉ cần ba người như anh ta là có thể thay thế một đám đông ồn ào, một tốp ăn nhậu đông đúc.
Người thuộc một dân tộc khác (Chúng ta cũng sẽ không nói rõ tên) thì vội đi xem phim, xem kịch, nghe hòa nhạc. Ba người như thế là có thể hợp thành dàn nhạc nhỏ, năm người như vậy là thành một đoàn múa hát. Người thuộc dân tộc khác nữa thì vội tìm đến thư viện, cố thi vào Trường đại học, bảo vệ luận án. Ở đâu có ba người như vậy là thành Hội đồng khoa học, có năm người như vậy là thành Phân viện Hàn lâm. Người thuộc dân tộc nọ (chúng ta vẫn sẽ dấu tên cụ thể) thì chỉ lo nghĩ xem làm sao mua được xe hơi, hay ít ra thì cũng trở thành người lái xe tắcxi hay xoàng ra thì cũng tìm được việc làm ở Đội cảnh sát giao thông. Có ba người như thế ở đâu là thành chỗ để xe hơi có năm người - là thành bến ô tô. Người thuộc dân tộc kia thì lại quý nhất các cửa hàng, nhà kho, nhà ăn hay ít ra thì cũng một quầy hàng nhỏ dưới tán ô che. Có ba người như vậy là thành cửa hàng bách hóa. Có năm người là có xí nghiệp sản xuất công nghiệp
Nhưng mọi chuyện đó chỉ là chuyện đùa vui. Chẳng lẽ có dân tộc nào mà đàn ông lại không thích các cô gái đẹp và không thích ngồi ở các quán ăn?
Mọi dân tộc đều có rạp hát, điệu múa, bài ca riêng của mình. Miền chúng tôi còn có đoàn múa hát chung cho các dân tộc là đoàn “Lêzghinca”. Dân tộc nào cũng có người muốn mua xe “Vônga” hay thích làm việc trong các cửa hàng. Nhưng chẳng lẽ đó lại là tính cách dân tộc sao? Có lần Abutalíp đã nêu tên một thứ bệnh là trước kia chưa từng nghe thấy ở Đaghextan, đó là bệnh say rượu
Abutalíp nói rằng: “Trước đây ở làng tôi có một anh chuyên say rượu, anh ta chịu tai tiếng đến mức mà cả huyện đều biết đến anh ta. Bây giờ trong làng tôi có một người không bao giờ uống rượu. Người ta lại từ xa tới nhìn anh ra như nhìn một kỳ quan.”
Abutalíp còn kể nhiều chuyện khác nhau quanh đề tài đó, nhưng nếu chúng ra chạy theo các chuyện kể của ông thì tôi sợ rằng chúng ta sẽ hoàn toàn quên chúng ta đang đàm luận điều gì. Chúng ta đang bàn xem căn cứ vào những biểu hiện nào để có thể phân biệt được người thuộc các dân tộc khác nhau ở Đaghextan. Hay có thể vẫn là căn cứ vào quần áo? Hình dáng mũ, cách đội mũ chăng? Nhưng bây giờ mọi người đều mặc áo như nhau, quần như nhau, giày một kiểu, mũ lưỡi trai hay mũ phớt như nhau. Không, nếu còn một cái gì đó đặc trưng rõ ràng cho dân tộc và phân biệt các dân tộc với nhau thì đó là tiếng nói.
Đáng chú ý là ở điểm này, ngay cả khi người Lêzghin hay Tát, người Avar hay Đarghin cũng nói tiếng Nga thì chỉ căn cứ vào giọng nói, vào cách phát âm sai tiếng Nga là cũng có thể đoán nhận ngay ra ai là người Kumức, ai là người Lắc, người Lêzghin..
Chẳng hạn, người Avar khi đọc các từ bắt đầu bằng chữ “x” thì lại thêm “I” vào.
Chúng tôi đọc “Xtambun” thành “Ixtanbun”, “Xtakan” thành “Itakan”, “Xtanxki” thành “Itanxki”.
Nếu âm “i” ở giữa thì ngược lại âm đó lại bị bỏ đi. Đáng lẽ là “Xibir” thì người Avar lại nói “Xbir”, đáng lẽ là “Bêliberđa” thì lại nói “Bêlberđa”.
Sau âm “t” chúng tôi bật hơi thì cứ y như là đọc bị vấp: “Tavaris” thành “Tiôvaris”.
Người Đarghin thì đáng lẽ đọc là “ô” hoặc “i-u” lại đọc thàn u “pusta” (posta) “kuska” (koska) “lubốp” (liubốp)
Người Lắc thì phát âm âm “kh” mềm đi, “Khuđôjních” thành “Khiuđôjních”…
Tóm lại, một số người đọc kéo dài các nguyên âm, một số khác đọc lướt thậm chí bỏ hẳn, một số người đọc cứng hơn, một số người khác đọc mềm hơn. Nhiều người đã phát âm “pờ” thay cho “phờ”.
Có lần chúng tôi nói chuyện với nhau về các tiếng nói miền Đaghextan bên cạnh có Abutalíp ngồi. Anh bạn tôi chỉ ra sự khác biệt trong cách phát âm và nhại giọng làm thí dụ. Abutalíp mới đầu chỉ nghe, sau đó ông cắt lời và nói:
- Thôi anh ngồi yên đi, đừng nói nữa. Từ nãy đến giờ anh ba hoa mãi rồi, bây giờ để tôi nói. Sai sót của một người không nên gán cho cả dân tộc. Chẳng có rừng nào chỉ có một cây. Ba cây cũng chưa thành rừng. Thậm chí đến một trăm cây cũng chưa phải là rừng. Vấn đề về các tiếng nói của chúng ta là một vấn đề phức tạp. Đó là một nút thắt kể từ ba nút thắt thường xảy ra khi xe sợi ướt.
Có một thời người ta đã cho rằng cách giải quyết vấn đề đơn giản nhất là giả làm như không tồn tại vấn đề đó. Không nói đến nó, không động đến nó - đâu phải là cách giải quyết. Mà vấn đề đó thì vẫn tồn tại. Ngày xưa chẳng có gì xua đẩy con người lao vào các cuộc đâm chém nhau nhiều bằng sự thù hằn dân tộc.
Tôi nhớ lại một cuộc họp báo diễn ra ở Makhátkala. Bao mươi tám nhà báo thường trú ở Matxcơva đại diện cho hai mươi chín quốc gia khác nhau đã về Đaghextan. Mới đầu họ đi thăm các làng bản, nói chuyện với đàn ông, đàn bà vùng cao, sau đó họ tụ tập nhau lại trong cuộc họp báo. Tiếng máy ảnh bấm tí tách, tiếng máy quay phim quay sè sè. Các nhà báo gọt nhọn cây bút chì của mình, mở sẵn những tờ giấy trắng.
Chúng tôi ngồi xuống quanh một chiếc bàn lớn, và người cao tuổi nhất trong chúng tôi là Abutalíp. Ông được mời đứng lên khai mạc cuộc họp báo. Abutalíp bắt đầu nói:
- Thưa các ông, các bà, thưa các đồng chí!...(Đấy là chúng tôi bày cho ông phải nói câu gì khi khai mạc cuộc họp báo. Còn sau đó thì ông tự nói theo ý mình). Chúng ta hãy làm quen với nhau nhé. Đây là nhà chúng tôi, Đây là chính chúng tôi. Còn đây là những nhà thơ nổi tiếng của chúng tôi-Abutalíp đưa tay chỉ lên những tấm ảnh treo tường, đó là Batưrai, Kazắc, Makhơmút, Xulâyman, Garzát, Épfenđi…
Abutalíp lần lượt nói vắt tắt về từng nhà thơ kể trên: ai thuộc dân tộc nào, ai viết bằng thứ tiếng gì, sống bằng nghề gì, đạt đến mức vinh quang nào. Khi đến lượt phải giới thiệu tấm ảnh chính mình, ông chẳng hề bối rối một chút nào và giải thích:
- Còn đây là tôi. Chỉ có điều các bạn đừng nghĩ rằng tôi đã đến bên chiếc bàn này từ trên tường kia. Đấy là tôi đã trèo lên tường từ đây, từ dưới cái bàn này.
Sau đó Abutalíp giới thiệu với khách các nhà thơ ngồi quanh bàn và nói thêm:
- Có thể đối với một số người sau này sẽ kiếm được chỗ trên tường kia. Mời các bạn làm quen: Ácmếtkhan Abu-Bakar, thợ kim hoàn vùng Kubatri, nhà văn nhân dân của Đaghextan.
Phazu và Muxa. Hai vợ chồng. Trong một gia đình có hai nhà văn, hai nhà tiểu thuyết, hai nhà thơ, hai nhà viết kịch. Có khi cùng viết chung, có khi viết riêng.
Mutalíp Mitarốp-con rể của dân Avar, nhà thơ người Tabaxaran.
Sắc-Êmir Murađốp - “Bồ câu hòa bình”. Nhà thơ Lêzghin. Chuyên viết về bồ câu.
Giamiđin - nhà văn châm biếm của chúng tôi Mắc Tuên của chúng tôi. Đồng thời là phụ trách Quỹ văn học của chúng tôi.
Anvar - nhà thơ nhân dân của Đaghextan, tổng biên tập năm tờ tạp chí văn học
Tơrunốp - nhà văn Nga sống ở Đaghextan
Khizghin Ápsalumốp - nhà văn Tát viết bằng tiếng mẹ đẻ và tiếng Nga
Giới thiệu tiếp với khách các nhà văn Đaghextan, Abutalíp lần lượt bắt đứng dậy thêm nhiều người nữa: Bađavi, Xulâyman, Xasa Grát, Ibraghim, Alirzu, Mếtgit, Asúc Rutunxki. Ông giới thiệu với khách biên tập viên các tòa soạn, và sau đó nói tiếp:
- Theo quy tắc của lòng hiếu khách thì chúng tôi không được phép hỏi tên khách…
Ngay lúc ấy các vị khách đều lần lượt đứng dậy và tự giới thiệu mình là ai, người nước nào, làm việc cho báo nào.
Sau đó thì bắt đầu đến tiết mục hỏi và trả lời như vẫn thấy ở các cuộc họp báo.
Câu hỏi: Ở nước các ông nhiều dân tộc thế, nhiều tiếng nói thế, làm sao các ông hiểu được nhau?
Abutalíp trả lời: Những thứ tiếng mà chúng tôi nói thì khác nhau, nhưng còn thứ ngôn ngữ này, (Abutalíp đặt tay lên ngực, chỗ trái tim) thì giống nhau. Trái tim hiểu được cả. Còn cái này (ông dơ tay bấu vào tai mình) thì mới kém hiểu.
Câu hỏi: Tôi là phóng viên của một báo Bungari. Xin đồng chí cho biết giữa các thứ tiếng Đaghextan có sự giống nhau ở mức độ chẳng hạn như giữa tiếng Nga và tiếng Bungari không?
Abutalíp trả lời: Tiếng Bungari và tiếng Nga là hai anh em ruột. Còn các thứ tiếng của chúng tôi thì thậm chí không phải là anh em họ, cho dù là anh em họ theo kiểu “bắn đại bác không tới”. Hoàn toàn không có từ giống nhau. Trong giới nhà văn chúng tôi còn có hiện tượng bè nhóm này nọ, chứ các thứ tiếng của Đaghextan thì chẳng có bè nhóm nào hết. Mỗi thứ tiếng một phách.
Câu hỏi: Tiếng nói của các ông gần với thứ tiếng nào hơn cả, thuộc ngữ hệ nào?
Abutalíp trả lời: Người Tát nói rằng họ hiểu được tiếng Tátgich và có thể đọc được tác phẩm của Haphizơ. Nhưng tôi xin hỏi họ: nếu các anh hiểu được tiếng nói của Xađi và Khaiam thì vì lẽ gì mà các anh không viết bằng thứ tiếng đó?
Trước đây, khi làm mối lái cho nhà gái, người ta thường khen chú rể: “Anh ta biết tiếng Kumức đấy”, điều nà có nghĩa chú rể là người hiểu biết nhiều, ở với người đó thì chẳng còn gì đáng lo nữa.
Trong thực tế nếu biết tiếng Kumức thì sẽ hiểu được tiếng Thổ Nhĩ Kỳ, Adécbaigiăng, Tácta, Bankar, Kazắcxtan, Uzbếch, Kirghiz, Baskir và nhiều thứ tiếng khác có họ hàng với nhau. Có thể đọc trực tiếp nguyên bản các tác phẩm của Hichmet, Kaixưn, Kuliép, Muxtai Karim…Nhưng còn tiếng Lắc của tôi thì sao? Trừ người Lắc chúng tôi ra thì hiểu được mấy tiếng này họa là chỉ còn các nhà học giả dành cả nửa đời mình cho việc làm luận án tiến sỹ.
Một người Lắc nổi tiếng từng đi khắp thế giới đã dừng lại ở Êtiôpi và trở thành bộ trưởng ở đấy. Ông ta khẳng định rằng suốt đời mình chưa từng gặp ở đâu một thứ tiếng giống như tiếng Lắc của chúng tôi.
Ômar-Gátgi: Tiếng Avar của chúng tôi cũng chẳng giống thứ tiếng nào cả.
Abutalíp: Cũng chẳng có thứ tiếng nào giống tiếng Đarghin, tiếng Lêzghin, tiếng Tabaxran.
Câu hỏi: Ông đã nắm được các thứ tiếng khác nhau đó như thế nào?
Abutalíp: Trước đây tôi đã lang thang khắp miền Đaghextan, Người đời thì cần có bài ca, còn tôi thì cần có bánh mỳ. Khi đi vào một làng lạ và không biết tiếng làng ấy thì đến chó cũng sẽ nhảy vào anh một cách dữ tợn hơn.
Và vì sao lại có hiện tượng ở một miền đất hẹp như vậy lại có nhiều thứ tiếng nói khác nhau đến thế?
Abutalíp: Đã có rất nhiều sách viết về sự giống nhau và khác nhau giữa các tiếng nói của chúng tôi. Tôi không phải là nhà học giả, nhưng tôi sẽ nói cho các bạn nghe tôi hình dung điều này như thế nào. Đây, chúng ta đang ngồi cả ở đây. Người thì sinh ra và lớn lên trên núi cao, kẻ thì ở dưới đồng bằng. Người ở xứ lạnh, kẻ ở xứ nóng. Người sống trên bờ sông, kẻ lại ở trên bờ biển. Người ở nơi có ruộng nhưng không có bò, người lại ở nơi có bò mà không có ruộng. Người sinh ra ở nơi có lửa nhưng không có nước, kẻ lại lớn lên ở chốn có nước mà không có lửa. Chỗ kia có thịt, chỗ nọ có bánh mỳ, chỗ kia có thêm hoa quả. Nơi có nhiều pho mát thì sinh ra lắm chuột, nơi chăn cừu thì lại có thêm sói. Ngoài ra, còn có bao nhiêu điều khác nhau về lịch sử, chiến tranh, địa lý, nước láng giềng, thiên nhiên.
Từ “thiên nhiên” trong ngôn ngữ chúng tôi có hai nghĩa. Nghĩa thứ nhất là đất nước, cỏ cây, sông núi. Nghĩa thứ hai là tính cách, thiên bẩm của con người. Thiên nhiên khác nhau ở các miền khác nhau đã góp phần làm xuất hiện những cái tên, luật lệ, phong tục khác nhau
Ở các miền khác nhau, người ta đội mũ khác nhau, ăn vận khác nhau, nhà xây kiểu khác nhau. Những bài hát ru bên nôi cũng khác nhau. Makhơmút ca những bài ca của mình, tự đệm theo bằng cây đàn panđur hai dây. Cây đàn panđur của Irtri Kazắc lại có ba dây. Xulâyman Xtanxki người Lêzghin thì đánh đàn tarơ. Có nơi làm dây đàn bằng ruột dê, có nơi làm bằng kim loại.
Có rất nhiều dân tộc và mỗi dân tộc đều có riêng phong tục của mình. Ở đâu cũng vậy. Một đứa trẻ ra đời.Ở dân tộc này thì làm lễ rửa tội cho đứa bé, dân tộc khác lại làm lễ cắt bao quy đầu, nhiều nơi lại chỉ cần cấp giấy khai sinh. Khi con người đến tuổi trưởng thành lại có những phong tục khác. Bố mẹ sẽ tìm người mối lái, dựng vợ gả chồng cho con…À mà mối lái cũng là một thứ phong tục. Tôi muốn nói thêm: khi người ta lấy vợ, lại gặp những phong tục khác nữa. Kể về các nghi thức cưới xin ở miền Đaghextan thì một ngàn ngày cũng không đủ. Ai cần, chúng tôi xin tặng cuốn “Phong tục các dân tộc miền Đaghextan”. Khi về nhà, các bạn sẽ đọc nó.
Câu hỏi: Phong tục tập quán cũng khác nhau, vậy thì trong trường hợp đó cái gì đã làm các ông gần gũi nhau?
Abutalíp: Đaghextan…
Câu hỏi: Đaghextan …Chúng tôi được nghe nói rằng dịch từ này ra có nghĩa là “xứ sở của núi”. Vậy Đaghextan chỉ đơn giản là một địa danh thôi có phải không?
Abutalip: Không phải địa danh mà là Tổ quốc, là nước Cộng hòa. Từ đó chung cho tất cả những ai sống trên núi cao cũng như những ai sống dưới thung lũng. Không, Đaghextan không chỉ đơn giản là khái niệm địa lý. Đaghextan có gương mặt riêng, có nguyện vọng và ước mơ riêng. Có lịch sử chung, số phận chung, có nỗi khổ và niềm vui chung. Lẽ nào nỗi đau trên một ngón tay lại không có liên quan đến ngón tay khác? Chúng tôi còn có những từ chung khác nữa, đó là Tháng Mười, Lênin, nước Nga. Những từ này thậm chí không cần dịch sang từng thứ tiếng. Mọi người đểu hiểu không cần dịch. Trong giới nhà văn chúng tôi thường xảy ra đủ mọi thứ tranh cãi. Nhưng về ba từ đó thì chúng tôi hoàn toàn không có ý kiến bất đồng. Các bạn có hiểu không?
Câu hỏi: Vâng, chúng tôi hiểu điều đó. Nhưng tôi muốn hỏi thêm điều này. Hôm nay tôi có đọc thấy trên báo một bài thơ của Ađanlô Aliép, Anatôli Zaiat dịch bài thơ đó sang tiếng Nga. Bên dưới có đề là dịch từ tiếng Đaghextan. Tiếng đó là tiếng gì vậy?
Abutalíp: Tiếng đó chính tôi cũng không biết. Hôm qua tôi có gặp Ađanlô Aliép và nói chuyện với ông. Hôm qua ông ấy nói tiếng Avar. Tôi không biết sao lại có chuyện như vậy xảy ra. Xin bạn đừng lo, đó chỉ là chuyện sơ xuất thôi.
Câu hỏi: Ở nước Mỹ chúng tôi cũng cần có rất nhiều dân tộc và ngôn ngữ. Nhưng tiếng nói chủ yếu tiếng nói chính thức của quốc gia là tiếng Anh. Tiếng Anh được dùng trong mọi công việc giao dịch, giấy tờ. Còn ở nước các ông thì sao? Thứ tiếng nào là chính?
Abutalíp: Đối với mỗi người thì tiếng nói chính là tiếng mẹ đẻ của người đó. Ai không biết yêu những ngọn núi của mình, kẻ đó không thể yêu những đồng bằng xa lạ. Nếu trong nhà mình không thấy hạnh phúc, làm sao có thể tìm được hạnh phúc ở ngoài đường. Kẻ nào khinh rẻ mẹ mình thì sẽ khinh rẻ mọi phụ nữ khác. Năm ngón tay trên một bàn tay ngón nào cũng là chính cả khi cần phải nắm đốc kiếm hay đưa tay ra bắt tay bè bạn.
Câu hỏi: Tôi có đọc một trường ca của Mutalip Mitarốp. Trong đó ông khẳng định rằng ông không phải là người Avar, người Tát, người Tabaxaran mà là người Đaghextan. Ông có ý kiến gì về ý đó?
Abutalíp: (đưa mắt tìm Mitarốp). Anh Mitarốp, từ lâu tôi đã biết rằng anh không phải là người Avar, không phải người Kumức, người Tát, người Nôgai, người Lêzghin. Nhưng riêng điều rằng anh không phải là người Tabaxaran thì đến hôm nay tôi mới biết. Vậy thì anh là ai mới được chứ? Có thể ngày mai anh sẽ viết rằng anh chẳng phải là Mutalip, cũng không phải la Mitarốp. Đây, như tôi chẳng hạn, tôi là Abutalíp Gaphurốp. Tôi thứ nhất là con người Lắc, thứ hai là người Đaghextan, và cuối cùng dân tộc tôi là dân tộc Lắc. Những cái đó không thể tách bạch được trong tôi. Đó là gia sản quý báu nhất của tôi. Tôi không muốn từ bỏ bất cứ danh hiệu nào trong số đó. Tôi sẵn sàng chiến đấu để bảo vệ những cái đó.
Câu hỏi: (phóng viên từ Cộng hòa dân chủ Đức) Đây, tôi có trong tay quyển sách của đồng chí Alikisưép, phó tiến sỹ y khoa. Cuốn sách có nhan đề là: “Hiện tượng sống lâu ở Đaghextan”. Trong cuốn sách đó, ông viết về các cụ già sống trên trăm tuổi và chứng minh rằng Đaghextan đứng đầu Liên Xô về tỷ lệ người sống lâu. Nhưng sau đó ông khẳng định tiếp rằng ở Đaghextan đang diễn ra quá trình các dân tộc xích lại gần nhau và đã có những triển vọng để xây dựng một dân tộc duy nhất ở Đaghextan. Ít năm nữa có thể là cả người Avar, người Đarghin, người Nôgai sẽ coi mình là người Đaghextan và sẽ viết như thế trong tấm chứng minh thư của mình.
Tôi còn đọc các bài báo của một nhà học giả nước các bạn khẳng định rằng nền văn học ở đây đang phá vỡ ranh giới dân tộc để trở thành nền văn học chung của cả Đaghextan.
Bởi vì các phó tiến sỹ và các tiến sỹ khoa học đã nêu lên những vấn đề như vậy trong các bài báo, cuốn sách của mình, thế có nghiax là những vấn đề ấy là quan trọng và sâu sắc có phải không?
Abutalíp trả lời: Tôi cũng có biết đồng chí Alikisưép. Ông là người vùng tôi. Nhà học giả này đã gặp nhiều cụ già để nghe các cụ kể lại cuộc đời mình. Nhưng ý tưởng xây dựng một dân tộc duy nhất chắc không phải là do ai đó trong số các cụ già đáng kính kia mách bảo ông. Đó là sản phẩm của chính đầu óc ông ấy thôi. Tôi cũng đã từng thấy nhiều ông “Mitsurin” như vậy những người trong “phòng thí nghiệm” của mình có đủ thứ giống lai tạo bằng cách ghép các thứ tiếng khác nhau, thực hiện những thí nghiệm đủ kiểu như người ta vẫn làm với thỏ, chuột bạch. Người ta đã định gộp bẩy nhà hát các dân tộc Đaghextan khác nhau thành một nhà hát. Người ta cũng đã định thống nhất nhiều Phân hội nhà văn của chúng tôi thành một, nhưng việc làm đó khác nào việc định biến cây nhièu cành thành cây chỉ có thân thẳng đứng.
Câu hỏi: Tôi là phóng viên một tờ báo Ấn Độ. Bên Ấn Độ cũng có nhiều thứ tiếng: tiếng Hinđi, tiếng Urđu, tiếng Bengali…Một số người có đầu óc dân tộc hẹp hòi muốn chính thứ tiếng của mình được làm thứ tiếng nói quốc gia chính thức trên khắp nước Ấn Độ. Người ta đã tranh cãi nhau về chuyện đó và thậm chí còn xung đột bắn giết nhau nữa. Ở nước các bạn có chuyện tương tự như thế không?
Abutalíp: Chuyện tranh cãi như vậy có lần đã xảy ra giữa hai cậu bé. Có hai cậu bé - một Avar, một Kumức - cùng ngồi trên mình một chú lừa. Cậu bé người Avar kêu lên: “Khơla! Khơla! Khơlama!”. Còn cậu bé người Kumức thì lại hét: “Êsơ! Êsơ! Êsếc!” Cả hai tiếng đó đều chỉ ‘con lừa”. Nhưng hai đứa bé tranh cãi nhau hăng đến mức cuối cùng cả hai đều ngã lộn từ trên mình lừa xuống, chẳng đứa nào còn “Khơlam” hay “Êsêc” gì nữa cả.
Theo tôi, đó là một thứ cãi cọ của trẻ con. Chúng tôi không biến các tiếng nói của chúng tôi thành sói dữ. Các tiếng nói ấy không cắn xé lẫn nhau. Miền chúng tôi người ta còn hay nói: “Thằng ngu trong nhà thì làm hại hàng xóm, thằng ngu ở làng thì làm hại làng bên, thằng ngu của một dân tộc thì làm hại các dân tộc khác”. Ai nói xấu ngôn ngữ khác thì chúng tôi không coi là người.
Câu hỏi: Vậy là ông muốn nói rằng, về vấn đề này ở nước các ông không có chuyện tranh cãi, không có ý kiến mơ hồ nào hết phải không?
Abutalíp: Có chuyện tranh cãi xảy ra. Nhưng chưa từng bao giờ có ai động chạm, nói xấu ngôn ngữ của chúng tôi cả. Với tên gọi của chúng tôi cũng vậy. Hãy để cho mỗi người viết, đọc, hát, nói bằng thứ tiếng mình muốn dùng. Có thể tranh luận với nhau, chứng minh cho nhau thấy rằng, điều này hay, điều kia dở, điều này đúng, điều kia không đúng; cái này đẹp, cái kia dị dạng…Nhưng chẳng lẽ cả một ngôn ngữ hay cả một dân tộc lại có thể xấu, sai, hay dị dạng sao? Nếu có cuộc tranh cãi về chuyện đó thì ở đây chẳng bao giờ có kẻ thắng cũng như kẻ bại.
Câu hỏi: Tuy vậy, chẳng phải sẽ là tốt hơn sao nếu ở Đaghextan chỉ có một dân tộc, một tiếng nói?
Abutalíp: Nhiều người đã nói thế: “Chà, nếu chúng ta cùng chung tiếng nói thì hay quá!”. Rátgiabin thọt chân trong lần đầu tấn công vào Gruzia đã nói với vua Irắcli: “Mọi tai họa đã xảy ra là do chúng ta không hiểu tiếng nói của nhau”. Khátgi-Murát đã từ Khaiđắc-Tabaxaran viết về cho thủ lĩnh của mình: “Chúng tôi đã không hiểu nhau”
Tất nhiên là sẽ tốt hơn khi mọi người dễ dàng hiểu nhau ngay từ lời đầu tiên. Mọi chuyện sẽ đơn giản hơn, nhiều việc chúng ta sẽ đỡ tốn công sức hơn. Nhưng theo tôi không có gì đáng ngại nếu trong một gia đình có nhiều con cái. Bố mẹ cần đều quan tâm tới từng đứa con. Chỉ hãn hữu lắm mới có kẻ than thở rằng mình có quá nhiều con.
Một số người nói: “Ở ngoài vùng Đécbent này thì còn ai cần đến thứ tiếng của chúng ta nữa? Đằng nào thì cũng chẳng ai hiểu chúng ta”
Một số người khác lại nói: “Quả khỏi đèn Arakan thì tiếng nói của chúng ta cũng có thể như là vô dụng!”
Một số khác nữa thì than vãn rằng: “Các bài ca của chúng ta thậm chí chẳng bay tới được biển”.
Nhưng thật ra thì những người đó đã hơi vội đưa tiếng nói của mình vào kho lưu trữ.
Câu hỏi: Ông có thể nói gì về sự đoàn kết?
Abutalíp: Sự đoàn kết chỉ có nghĩa giữa những người khác nhau hoặc xa lạ với nhau thôi. Giữa những người anh em ruột thịt thì từ đó không cần thiết.
Câu hỏi: Vậy thì để anh em ruột nói chuyện với nhau cần phải có một tiếng nói chung chứ?
Abutalíp: Chúng tôi có thứ tiếng đó
Câu hỏi: Tiếng nào vậy?
Abutalíp: Thứ tiếng mà vây giờ chúng ta đang nói với nhau đây. Đó là tiếng Nga. Thứ tiếng đó người Avar, người Đarghin, người Lêzghin, Kumức, Lắc, Tát..đều hiểu cả. (Ông chỉ lên chân dung Lécmôntốp, Puskin, Lênin). Có những con người ấy, chúng tôi hiểu nhau dễ dàng.
Câu hỏi: Tôi có đọc tác phẩm gồm 2 tập của Raxun Gamzatốp. Ở tập thứ nhất trong bài thơ “Tiếng mẹ”, ông đã ca ngợi tiếng Avar của mình. Rồi ở tập thứ hai, trong một bài thơ cũng với đầu đề như vậy, ông lại ca ngợi tiếng Nga. Chẳng lẽ trong một lúc có thể ngồi được trên hai mình ngựa sao? Chúng tôi sẽ phải tin vào Gamzatốp nào đây: Gamzatốp trong tập I hay Gamzatốp trong tập II?
Abutalíp: Câu hỏi này thì xin đẻ Gamzatốp tự trả lời
Raxun: Tôi nghĩ rằng không thể ngồi một lúc trên hai mình ngựa. Nhưng có thể buộc hai ngựa vào cùng một cỗ xe. Để cho chúng cùng kéo chung xe ấy. Hai tiếng nói như hai con ngựa đã kéo Đaghextan đi. Một là tiếng Nga, tiếng còn lại là tiếng của của vùng chúng ta; đối với người Avar là tiếng Avar, đối với người Lắc là tiếng Lắc. Tôi rất yêu quý tiếng mẹ của tôi. Nhưng tôi cũng quý tiếng nói thân yêu, tiếng mẹ thứ hai, thứ tiếng ấy đã đưa tôi từ dãy núi này, những con đường mòn nhỏ này đi vào đất nước bao la, đi vào thế giới lớn, phong phú. Tiếng mẹ tôi phải gọi là tiếng mẹ. Tôi không thể nào gọi khác.
Câu hỏi: Nhân chuyện này tôi xin hỏi Raxun Gamzatốp một điều nữa. Trong bài thơ của mình ông có viết “nếu tiếng Avar ngày mai bị xóa, hãy để cho tôi được chết vì vỡ tim hôm nay”. Nhưng các bạn vẫn thường nói của các bạn là thế này: không thể đội một lúc hai mũ trên đầu. Hoặc: việc gì phải ngậm hai điếu thuốc lá trong mồm một lúc.
Raxun: Tiếng nói không phải là mũ mà không phải là thuốc lá. Tiếng nói không thù hằn nhau. Bài ca không giết chết bài ca.
Puskin đến với Đaghextan, điều đó không có nghĩa là Makhơmút phải rời bỏ quê hương mình. Chẳng việc gì phải lấy Lécmôntôp mà thay cho Batưrai. Nếu có người bạn tốt nắm lấy tay anh thì bàn tay anh đâu có biến mất đi trong bàn tay bạn! Bàn tay anh sẽ chỉ cảm thấy ấm áp và rắn chắc hơn mà thôi.
Tiếng nói không phải là điếu thuốc lá mà là ngọn đèn trong cuộc sống. Tôi có hai ngọn đèn như vậy. Một ngọn đèn soi sáng đường tôi đi từ nơi cửa sổ ngôi nhà của bố. Mẹ tôi đã thắp ngọn đèn đó để tôi khỏi lạc đường. Nếu ngọn đèn đó tắt thì quả thật là đời tôi cũng sẽ lụi tàn theo.
Ngay khi thể xác tôi vẫn còn cử động thì cả đời tôi cũng sẽ chìm sâu trong bóng tối, nếu ngọn đèn đó không còn. Ngọn đèn thứ hai là ngọn đèn đất nước vĩ đại. Tổ quốc vĩ đại của tôi,của nước Nga. Nó tránh cho tôi khỏi lầm lạc trên con đường vào thế giới lớn. Không có thế giới đó, cuộc đời tôi sẽ nhỏ mọn, tối tăm!
Abutalíp: Nâng cục đá theo cách nào thì dễ hơn: một tay nâng từ vai hay hai tay nâng từ ngực?
Câu hỏi: Tuy nhiên người miền cao vẫn rời bỏ ngôi nhà nơi mẹ đẻ đã thắp những ngọn đèn lên, để chuyển xuống sống dưới đồng bằng, có phải thế không?
Abutalíp: Nhưng khi chuyển chỗ ở, họ đã mang theo cả tiếng nói, cả tên gọi của mình. Và ánh sáng tỏa ra trên cửa sổ nhà họ vẫn là ánh sáng ấy.
Câu hỏi: Nhưng ở nơi sinh sống mới, các chàng trai thường lấy vợ thuộc dân tộc khác. Họ sẽ nói bằng thứ tiếng nào? Con cái họ sau này sẽ nói tiếng gì?
Abutalíp: Chúng tôi có một truyện lưu truyền từ lâu đời như thế này. Một chàng trai đem lòng yêu cô gái một dân tộc khác và quyết định lấy cô đó. Cô gái nói: “Em sẽ lấy anh nhưng anh phải làm một trăm điều.
Chàng trai bắt đầu làm theo những ý định oái oăm của cô gái. Trước tiên nàng bắt anh phải trèo lên vách đá trơn tuột. Sau đó nhảy từ vách đá đó xuống. Chàng trai nhảy xuống và bị trẹo chân. Đến lúc đó, điều thứ ba cô gái bắt anh làm là phải đi chân không được cà nhắc. Được thôi, chàng trai đã đi lại như thường. Tiếp đó là đủ thức việc phải làm nữa như: bơi qua sông mà không được làm ướt túi đem theo, chặn đứng ngựa đang phi, đặt người lên đầu gối mình, rồi thậm chí còn phải bổ đứt đôi quả táo mà cô gái đặt lên ngực mình…Chàng trai đã làm xong được 99 điều cô gái muốn. Chỉ còn một điều. Tới lúc đó cô gái mới nói: “Bây giờ thì anh hãy quên mẹ, quên cha quên tiếng nói của mình”. Ngay lúc ấy, chàng trai nhảy phắt lên ngựa và phóng đi mất hút, không bao giờ quay lại.
Câu hỏi: Môt câu chuyện rất đẹp. Nhưng còn trên thực tế thì sao?
Abutalíp: Trên thực tế khi chàng trai và cô gái bắt đầu cuộc sống vợ chồng, họ sẽ phải nhận rất nhiều nghĩa vụ. Nhưng không một ai ép người kia quên tiếng mẹ đẻ của mình. Ngược lại, mỗi người đều cố hiểu tiếng nói của người kia.
Trên thực tế chúng ta thường buồn rầu và bực bội khi nhìn thấy những đứa trẻ không biết tiếng nói của bố mẹ. Rồi khi lớn lên, chính những đứa trẻ đó cũng sẽ trách bố mẹ đã không dạy chúng tiếng nói của mình. Thật là những người đáng buồn.
Trên thực tế là đấy, chúng tôi đang ngồi trước mặt các bạn. Đây là thơ, truyện ngắn, truyện dài của chúng tôi; đây là sách, là báo, là tạp chí của chúng tôi. Chúng được xuất bản bằng các thứ tiếng khác nhau. Mỗi năm số lượng xuất bản lại càng nhiều thêm. Đất nước rộng lớn đã không loại bỏ các tiếng nói của chúng tôi. Tổ quốc đã hợp pháp hóa, đã khẳng định vị trí của các tiếng nói ấy và những tiếng nói ấy đã lấp lành sáng như các vì sao…
“Và vì sao khi nói chuyện với vì sao”. Chúng tôi nhìn thấy những người khác, những người ấy cũng đã nhìn thấy chúng tôi. Nếu không có điều gì xảy ra thì các bạn đã không nghe thấy bất cứ một điều gì về chúng tôi và đã không quan tâm tới chúng tôi.
Cuộc gặp gỡ hôm nay cũng đã không diễn ra. Đó là những gì đã xảy ra trên thực tế…
Hỏi - trả lời, rồi lại hỏi - trả lời. Nếu có thời gian thì có lẽ buổi họp báo này chẳng bao giờ kết thúc. Ở mọi dân tộc, mọi thời đại, lúc nào người ta cũng đã và đang đàm luận về tiếng nói, và câu chuyện ấy chẳng bao giờ có kết thúc.
- Cuộc họp báo này giống như trò vui hát đối đáp của chúng tôi: bên hỏi, bên trả lời - Abutalíp nói, cuối cùng ông đã cảm thấy quá mệt mỏi bởi một cuộc họp quá ư khác lạ đối với ông.
Câu hỏi là mũi tên bật bừa đi, không cần biết nhằm đâu. Câu trả lời là mũi tên phải cắm vào đích. Câu hỏi đến câu trả lời. Dấu chấm hỏi đến dấu chấm than. Quá khứ là câu hỏi, hiện tại là câu trả lời.
Đaghextan cổ xưa giống như một bà lão ngồi trên phiến đá. Đó là một dấu chấm hỏi. Đaghextan hôm nay là một dấu chấm than. Đó là thanh kiếm rút ra khỏi vỏ và chĩa thẳng lên trời.
Khi cách mạng đến miền Đaghextan, những kẻ hoảng sợ cách mạng nói rằng chẳng bao lâu nữa dân tộc, tiếng nói, tên gọi, màu sắc sẽ biến đi hết. Mêxêđa sẽ biến thành Maruxia, còn Muxa thì biến thành Vaxia. Chúng còn nói rằng người ta sẽ chẳng còn lúc nào mà nghĩ xem mình là người dân tộc nào, mình vốn từ đâu tới. Tất cả sẽ đắp chung một tấm chăn lớn. Rồi sau đó kẻ mạnh hơn sẽ kéo hết chăn về phía mình, những người yếu sẽ bị chết rét.
Đaghextan đã không nghe lời bọn đó. Thành viên chính phủ cũ của miền cao là Gaiđa Bamatốp khi trèo lên boong tàu đưa y ra nước ngoài đã nói: “Các người không chịu nghe lời ta. Để rồi xem, chuyện gì sẽ đến1”.
Những gì xảy ra sau đó, mọi người đều thấy rõ. Sách đã kể về chuyện này, bài ca đã hát về điều đó. Ai có tai thì nghe, ai có mắt thì sẽ thấy.
Một người vùng cao, sợ hãi tấm chăn đắp chung, đã bỏ Đaghextan mà đi sang Thổ Nhĩ Kỳ. Năm mươi năm sau ông ta trở lại vùng cao để xem thực cảnh ở đất nước chúng tôi. Tôi mời ông ta đi dạo thành phố Makhátkala.. Xưa kia là Cảng Pêtơrốpxcơ. Thành phố vốn mang tên vua Nga nay đã mang tên Makhat, nhà cách mạng Đaghextan Tôi chỉ cho vị khách thấy những đường phố mang tên Batưrai, Unlubi Kapiép, những đường phố tưởng nhớ tên tuổi những người con ưu tú của Đaghextan. Vị khách ngắm nhìn rất lâu tượng kỷ niệm Xulâyman Xtanxki dựng bên vương hoa nhỏ sát bờ biển. Trên phố Lênin, ông ta nhìn thấy tượng kỷ niệm bố tôi là Gamzát Xađax. Trước khi lánh ra nước ngoài hóa ra là ông ta có quen biết bố tôi.
Ông gặp các học giả tại Phân viện Hàn lâm khoa học. Ông ta đã nói chuyện với các cộng tác viên của Viên nghiên cứu lịch sử, ngôn ngữ và văn học. Ông đã đi xem các phòng của Viện bảo tàng lịch sử và nghệ thuật Đaghextan. Ông đã đến trường Đại học tổng hợp, nơi các chàng trai và cô gái vùng cao đang theo học ở 15 khoa khác nhau. Buổi tối, chúng tôi cùng đi với các nhà hát quốc gia Avar, Trong nhà hát mang tên một người Avar, các khán giả Avar đã xem vở kịch do một tác giả Avar viết về một phụ nữ Avar. Đó là vở kịch “Ankhin Marin” của Gatgi Zalốp. Khi nữ nghệ sỹ nhân dân nước Liên bang cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô viết Nga là Patimat Khizrôeva cất tiếng hát trên sân khấu bài hát Avar cổ bài ca của nàng Maria, thì vị khách của tôi đã không nén nổi xúc động, đôi mắt ông ươn ướt.
Ra ngoài quảng trường, ông đứng lại rất lâu trước tượng đài kỷ niệm Lênin. Sau đó ông chợt nói:
- Có phải tôi đang sống trong mơ không?
- Ông hãy kể lại giấc mơ đó cho những người Avar ở Thổ Nhĩ Kỳ.
- Họ sẽ không tin đâu. Chính tôi cũng không tin nếu không tự thấy tất cả bằng chính mắt mình.
Abutalíp đã nói thế này: “Lần đầu tiên, tôi lấy một cây sậy, làm nên ống sáo và đưa lên miệng thổi. Tiếng sáo của tôi khắp làng đã nghe. Sau đó tôi lấy một cành cây, khoét thành chiếc tiêu và thổi một bài hát khác. Nhiều người bên kia núi đã nghe thấy điệu nhạc của tôi. Rồi tôi lại lấy thân cây làm nên cây kèn zurna, thì cả Đaghextan đã nghe thấy tiếng kèn ấy. Sau đó tôi lấy cây bút chì nhỏ và viết bài thơ lên trang giấy trắng. Bài thơ đã bay xa ra ngoài xứ Đaghextan”.
Vậy là một lần nữa, cảm ơn ông nhé, hỡi vị sứ giả phân phát tiếng nói, cảm ơn ông đã không bỏ qua miền núi, làng mạc và những tấm lòng của chúng tôi.
Cũng xin cảm ơn tất cả các bạn, những cai đã hát và suy nghĩ bằng tiếng mẹ đẻ của mình.
Đánh máy: Thích Là Bụp - otofun.net; Ongrungf; lurang