← Quay lại trang sách

Chương 1 Ngõa Cương danh tướng khóa Hà Tây

Năm Trinh Quán thứ ba, cổ đạo Qua Sa, trạm dịch Ngư Tuyền.

“Ra quan ải Trường Thành tây tiến, ruộng nương xen lẫn giữa cát vàng. Tráng sĩ Hán gia cùng nhau hát, Đôn Hoàng vắng bóng người lại qua. Thưa các vị khách quan, mời đến nghe tại hạ kể một khúc Đôn Hoàng biến.

Trạm dịch Ngư Tuyền là trạm thứ hai từ Qua Châu đến Đôn Hoàng, lưng dựa vào núi Kỳ Liên, phía trước là dịch đạo Qua Sa dài ba trăm dặm. Khu vực sa mạc Lũng Hữu bởi vì điều kiện hạn chế nên không làm được ba mươi dặm một trạm dịch như Trung Nguyên, chỉ còn cách xây dựng trạm dịch ở chỗ có nguồn nước.

Nước từ trong núi chảy ra, hội tụ thành suối ở dưới chân núi. Trong suối có cá, vì vậy mà lấy tên Ngư Tuyền.

Đạo Lũng Hữu là biên giới Đại Đường, trạm dịch và ụ khói lửa thường là một thể, trạm dịch Ngư Tuyền cũng không phải ngoại lệ. Bản thân trạm dịch chính là một thành lũy vuông đầm bằng đất, vách lũy đầm đất cực kì dày; mặt trên là lối đi bằng phẳng, bốn góc xây vọng lâu. Trên núi phía sau trạm dịch là hai ụ khói lửa cao vút, có một đội quân biên phòng ba mươi người đóng giữ. Ụ khói lửa dùng để phòng thủ biên cương, một khi có báo động, ban ngày thì đốt khói, ban đêm thì đốt lửa. Ba trăm dặm đường núi Qua Sa tổng cộng có tám trạm dịch khói lửa, có thể nhanh chóng truyền tin cấp báo tới châu thành.

Mà trạm dịch ở biên cương khác với trạm dịch ở Trung Nguyên, do địa vực rộng lớn, hàng trăm dặm không có người ở nên ngoài chức năng truyền công văn tài liệu công vụ của quan phủ còn kiêm thêm chức năng cho khách buôn qua lại nghỉ chân uống nước. Có điều khách buôn và người đi đường phải trình ra công nghiệm, quá sở để xác nhận, những người thân phận không rõ đều phải truy bắt đưa lên quan phủ.

Ngoài cổng thành trạm dịch Ngư Tuyền chính là suối Ngư Tuyền, bên suối mọc vài cây Hồ dương và Hồng liễu cổ xưa.

Dưới bóng cây Hồ dương trải mười mấy tấm thảm len lông cừu, một đám khách buôn nghỉ chân đang ngồi trên thảm len, vừa ăn uống vừa nghe người kể chuyện kể biến văn.

Người kể chuyện đó tên gọi Lưu Sư Lão, khoảng năm mươi mấy tuổi, tướng mạo gầy gò, ba chòm râu dài, rất có dáng vẻ tiên phong đạo cốt. Ông ta khoanh chân ngồi trên thảm nỉ, trên đầu gối đặt trống Hạt, hai tay vỗ trống, đang gật gù hát. Sau lưng ông ta là một người phụ nữ đang ngồi, cúi đầu buông mắt, trong lòng ôm đàn tỳ bà. Cứ khi Lưu Sư Lão nói đến chỗ quan trọng, ngón tay tinh tế của người phụ nữ lại khẽ lướt trên dây, liền có tiếng đàn như nước chảy hòa theo. Đây chính là xướng đạo sư của ông ta, cũng là đồ đệ của ông ta, Yên Nương.

Đôn Hoàng biến ông ta kể là chuyện về Vũ Chiêu Vương Lý Cảo, trước là Thái thú Đôn Hoàng thời Đông Tấn, sau đóng đô ở Đôn Hoàng, lập ra nước Tây Lương. Giọng nói thê lương của Lưu Sư Lão kể lại chuyện xưa Đôn Hoàng hai trăm năm trước, lúc quyết liệt tiếng trống hạt dồn vang, khi đau thương tiếng tỳ bà nức nở, mọi người nghe mà như mê như say.

Biến văn này rất dài, kể xong một đoạn, Lưu Sư Lão uống rượu nghỉ ngơi, lại hỏi. “Chư vị có biết Đôn Hoàng này là Đôn Hoàng của ai không?”

“Đương nhiên là Đôn Hoàng của triều đình!” Một sĩ tử đáp.

“Nói vậy quả thực không sai.” Lưu Sư Lão cười tủm tỉm. “Có điều triều đình là cái gì? Đối với châu quận mà nói, triều đình cùng lắm cũng chỉ là một tòa nha môn thôi.”

“Chẳng lẽ là Đôn Hoàng của người Hồ?” Một thương nhân hỏi.

Lưu Sư Lão cười lạnh lùng. “Giờ đây không phải thời Vũ Đức, chín họ Chiêu Vũ chỉ là thương nhân; họ Mộ Dung ở Thổ Dục Hồn bị đánh đến mức không dám ngẩng lên nhìn phương bắc; Đông và Tây Đột Quyết bị chặn ở phía bắc sa mạc, người Hồ đâu có gì ghê gớm?”

Ông ta vỗ một cái, một tiếng trống vang lên. “Chủ nhân thật sự của Đôn Hoàng này tất nhiên chính là sĩ tộc trong tám gia tộc môn phiệt lớn!”

Có người vỡ lẽ bật cười, có người lại rất không hiểu. “Tại hạ đến từ Lương Châu, đang định đi Đôn Hoàng thu mua một ít hàng hóa, còn xin lão trượng nói thêm về các nhân vật ở Đôn Hoàng này.”

Lưu Sư Lão cười. “Tám sĩ tộc lớn của Đôn Hoàng chính là Lý thị, Trương thị, Sách thị, Phiếm thị, Lệnh Hồ thị, Tống thị, Âm thị và Địch thị. Từ thời Tây Hán và Đông Hán, tám sĩ tộc lớn này đã nhiều đời giữ các chức trong tam công cửu khanh, tại Đôn Hoàng truyền thừa không dứt. Chư vị đều biết Sơn Đông có năm Thế gia môn phiệt lớn, Lý, Thôi, Lư, Trịnh, Vương, được gọi là sĩ tộc năm họ; nhung sĩ tộc năm họ từ khi theo Hiếu Văn Đế nhà Bắc Ngụy đánh giá sĩ tộc, đặt ra bốn cấp bậc dòng họ giáp, ất, bính, đinh đến nay cũng không tới hai trăm năm. Lại nói Trương thị Đôn Hoàng này chính là hậu duệ của Trương Tương, Hiệu úy Tư Lệ thời Tây Hán, chỉ vì Trương Tương đắc tội quyền thần Hoắc Quang nên mới phải chuyển cả nhà đến Đôn Hoàng, đến nay đã truyền thừa bảy trăm năm! Lại nhìn Sách thị đó, chính là hậu duệ của Thái trung đại phu Sách Phủ thời Hán Vũ Đế, bởi vì can gián mà bị Hán Vũ Đế đày đến biên giới, cho tới bây giờ đã bảy trăm bốn mươi năm! Phiếm thị là hậu duệ của Ngự sử trung thừa Phiếm Hùng thời Thành Đế nhà Tây Hán, cũng thất thể trong triều đình, di chuyển tới Đôn Hoàng, đến nay sáu trăm năm mươi năm. Còn Địch thị kia, tổ tiên là Thừa tướng Tây Hán Địch Phương Tiến, chỉ vì Vương Mãng soán ngôi nhà Hán, Thái thú Đông Quận Địch Nghĩa và tổ tiên của Lệnh Hồ thị là Kiến Uy Tướng quân Lệnh Hồ Mại khởi binh chống Mãng; sau khi hai người binh bại bị giết, con cháu chạy trốn tới Đôn Hoàng, đến nay cũng có sáu trăm hai mươi mốt năm…”

Lúc này, một tăng nhân trẻ tuổi đang cho ngựa ăn uống ở bên suối Ngư Tuyền dắt ngựa đi tới. Ngài buộc ngựa vào chạc cây, khoanh chân ngồi trong đám người nghiêm túc nghe.

Lưu Sư Lão nói, “Tám sĩ tộc lớn này nhiều đời làm quan, năm trăm năm thông hôn cưới gả, con cháu trải khắp Đôn Hoàng, Qua Châu và thậm chí là cả Lũng Hữu. Từ Thứ sử châu quận đến tiểu lại nha môn, không ai không phải người của tám họ làm; không chỉ vậy mà còn nắm giữ các ngành chăn nuôi, trồng trọt, buôn bán và phường hội trăm nghề; lại có hai họ dựng nước, xuất hiện hai vị để vương!”

Tăng nhân trẻ tuổi xen vào, “Thí chủ nói là ngoài Vũ Chiêu Vương Lý Cảo của Tây Lương còn có Tiền Lương Thái tổ Trương Quỹ?”

Lưu Sư Lão kinh ngạc nhìn ngài một cái. “Pháp sư học vấn thật rộng!”

Tăng nhân trẻ tuổi trầm ngâm. “Hoàng thất Đại Đường truy phong Lý Hổ trong Bát trụ quốc thời Tây Ngụy là Cảnh Hoàng để, miếu hiệu Thái tổ. Mà Lý Hổ Lại tự xưng là cháu sáu đời của Vũ Chiêu Vương Lý Cảo của Tây Lương, như vậy chẳng phải ý nói Lý thị ở Đôn Hoàng cũng là dòng họ hoàng thất Đại Đường?”

Lưu Sư Lão vỗ trống Hạt, hưng phấn nói, “Chính thế! Lão hủ ở Đôn Hoàng đã lâu, bình thường kể chuyện tại các vùng Qua Châu và Tây Sa Châu. Lần này trở lại Đôn Hoàng là vì Lý thị muốn lập miếu cho Vũ Chiêu Vương Tây Lương, lão hủ được mời đến mấy ngày để kể chuyện!”

Khách buôn xung quanh vang lên tiếng trầm trồ và hâm mộ.

“Trong số các tăng nhân ở đây, người nào là Huyền Trang?”

Lúc mọi người đang nói chuyện, đột nhiên dịch trưởng trạm dịch Ngư Tuyền dẫn mấy tên dịch đinh đi tới, trong tay cầm một cuộn công văn.

Tăng nhân trẻ tuổi đó yên lặng một lát, đột nhiên cười khổ. “Chính là bần tăng.”

“Quả nhiên chính là ngươi!” Dịch trưởng mừng rỡ. “Người đâu, bắt lại!”

Đám dịch đinh đồng loạt xông lên, dùng dây thừng trói chặt Huyền Trang. Mọi người xung quanh cũng ồn ào, dịch trưởng uy nghiêm nhìn một lượt mọi người rồi mở công văn trong tay ra đọc. “Có tăng nhân Huyền Trang muốn làm trái lệnh cấm biên, lén vượt quốc cảnh, trốn đến tây phiên. Các châu huyện phải tăng cường tra soát, truy bắt báo quan. Đô đốc Lương Châu Lý Đại Lượng.”

Thì ra sau khi từ Hoắc Ấp ở Sơn Tây trở lại Trường An, Huyền Trang liền quyết chí tây du, nhiều lần dâng sớ lên Lý Thế Dân thỉnh cầu được xuất quan; nhưng Lý Thế Dân không chịu gặp ngài, trực tiếp hạ lệnh bác bỏ.

Huyền Trang không còn cách nào khác, liền lẳng lặng rời khỏi Trường An tiến về phía Tây Vực. Không ngờ sau khi đến Lương Châu, một số người đã nghe danh tiếng Huyền Trang từ lâu mời ngài giảng Bát Nhã kinh, Huyền Trang đành phải lập đàn giảng kinh một tháng, chấn động cả Lương Châu. Lúc này lại có người biết được ý đồ tây du của Huyền Trang bèn mật báo cho Đô đốc Lương Châu Lý Đại Lượng. Khi ấy triều đình Đại Đường đã quyết định khai chiến với Đông Đột Quyết, vì để phòng ngừa tiết lộ tình báo nên ban lệnh cấm biên, nghiêm cấm tất cả mọi người tự ý xuất quan. Lý Đại Lượng vừa nghe tin đã thấy sốt ruột, một danh tăng như Huyền Trang một khi rơi vào tay của người Đột Quyết, hậu quả sẽ không thể nào tưởng tượng được, lập tức nghiêm lệnh Huyền Trang trở lại Trường An.

Huyền Trang không muốn bỏ cuộc, dưới sự bao che của Phật môn Lương Châu, ngay trong đêm rời khỏi Lương Châu. Lý Đại Lượng lập tức nổi giận, chẳng những phái người đuổi theo truy bắt mà còn gửi công văn tới các huyện ven đường. Hơn một nghìn năm trăm dặm từ Lương Châu đến Qua Châu, Huyền Trang ngày nghỉ đêm đi, giống như chơi trốn tìm với Lý Đại Lượng vậy, vượt qua quan ải Lương Châu rồi bí mật tới Qua Châu.

Huyền Trang được Thứ sử Qua Châu Độc Cô Đạt tiếp đãi nhiệt tình, phụng dưỡng chu đáo, nhưng tiếng tăm của Huyền Trang quá lớn, Độc Cô Đạt cũng không dám chống lại lệnh cấm để ngài xuất quan. Mới giữ ngài ở vài ngày thì không ngờ Lý Đại Lượng không bắt được Huyền Trang lại gửi công văn đến Qua Châu. Lúc này Độc Cô Đạt rất khó xử, ra hiệu cho tâm phúc là châu lại Lý Xương đi tìm Huyền Trang, để ngài xem công văn sau đó xé bỏ công văn ngay trước mặt Huyền Trang. Huyền Trang biết quan phủ Qua Châu không thể ngang nhiên bao che cho mình được nữa, thỉnh giáo Lý Xương làm thế nào để có thể xuất quan.

Lý Xương nói với ngài, xuất quan từ Qua Châu cực kì khó khăn và nguy hiểm, chẳng những phải vượt qua sông Sơ Lặc, sông sâu nước xiết mà còn phải xông qua năm ụ khói lửa, sau đó vượt qua tám trăm dặm Mạc Hạ Diên Thích, cửu tử nhất sinh.

Lý Xương đề nghị ngài đến Đôn Hoàng thủ phủ của Tây Sa Châu, từ Đôn Hoàng có một con đường cổ gọi là đường Sáo Can có thể đi thẳng đến nước Y Ngô ở Tây Vực. Áng chừng Lý Đại Lượng sẽ không gửi công văn đến Tây Sa Châu, như vậy Huyền Trang liền có thể tránh được quan phủ truy bắt.

Hắn nói như thế làm Huyền Trang lại nhớ đến một việc, ngài có một người bạn tốt hiện giờ đang làm quan ở Đôn Hoàng, có lẽ có thể nhận được sự trợ giúp của người bạn ấy. Huyền Trang lập tức rời khỏi Qua Châu, dọc theo đường núi Qua Sa tiến về phía Đôn Hoàng, không ngờ đã đến trạm dịch cuối cùng trực thuộc Qua Châu là trạm dịch Ngư Tuyền rồi mà vẫn bị công văn của Lý Đại Lượng đuổi kịp.

Dịch trưởng kia trói Huyền Trang lại, đang định dẫn đi thì khách buôn và người đi đường xung quanh đã vây quanh, đều hướng về phía Huyền Trang vái chào. Người kể chuyện Lưu Sư Lão thậm chí còn nhảy dựng lên, vừa ngạc nhiên vừa vui mừng nói. “Thì ra ngài chính là pháp sư Huyền Trang? Lúc ở Lương Châu lão hủ đã được nghe đại danh của ngài, không ngờ lại gặp ngài ở đây!”

Những khách buôn đó cũng ồn ào. “Đúng vậy, Lỗ dịch quan, trên công văn cũng nói pháp sư Huyền Trang có ý định lén vượt quốc cảnh, nhưng chẳng phải bây giờ ngài ấy vẫn còn ở đây hay sao? Biết đâu ngài ấy chỉ đến hang Mạc Cao để bái Phật thôi?”

Dịch trưởng giận dữ. “Ồn ào cái gì? Đây là mệnh lệnh của Đô đốc Lương Châu Lý Đại Lượng, kẻ nào dám không nghe?”

Mọi người lập tức yên lặng.

Đúng lúc này, đột nhiên ngoài cửa trạm dịch Ngư Tuyền vang lên một tiếng cười lạnh lùng. “Lý Đại Lượng lại quản đến cả ba châu Qua, Sa, Túc của ta, đúng là oai phong thật!”

Mọi người ai nấy đều giật mình kinh hãi, quay đầu nhìn lại, chỉ thấy trước cửa trạm dịch Ngư Tuyền không biết từ khi nào đã có một đội nhân mã đi đến. Đội nhân mã do một Hiệu úy chỉ huy, khoảng chừng hơn trăm người, tất cả toàn thân mặc giáp, đeo hoành đao, trên lưng ngựa thì đeo cung tên, là một cánh quân tinh nhuệ.

Trong số mấy người đàn ông mặc trang phục thường ngày cưỡi tuấn mã đi phía trước cánh quân, người đàn ông ngồi đầu tiên tuổi chừng bốn mươi, mặc bào phục cổ tròn, vạt áo rộng, tay áo dài, chỉ có điều lại được may bằng lụa đại khoa màu tím, bên hông đeo đai ngọc. Đây rõ ràng là phục sức của quan lớn tam phẩm trở lên của triều đình. Người thanh niên chỉ khoảng hai mươi tuổi bên cạnh ông ta cũng vậy, màu sắc và trang phục là đại khoa màu tím, hông đeo đai ngọc.

Mọi người ngơ ngác nhìn một hồi lâu sau đó mới chú ý tới lá cờ giơ lên trong đội ngũ, bên trên thêu: Tả lĩnh quân vệ đại tướng quân, đốc quân sự ba châu Qua, Sa, Túc, Lâm Giang Quận vương.

Dịch trưởng lập tức hiểu ra, sợ đến mức vội quỳ xuống đất. “Tiểu lại bái kiến Đại vương!”

Mọi người trong trạm dịch cũng sợ hãi vội vàng quỳ lạy.

Thì ra người đó chính là Đô đốc Qua Châu, Lâm Giang Quận vương Lý Diễm! Lý Diễm là cháu họ của Thái thượng hoàng Lý Uyên, anh họ của Hoàng đế Lý Thế Dân, Trinh Quán nguyên niên nhậm chức Đô đốc Qua Châu, phụ trách toàn quyền việc quân sự của ba châu Qua Châu, Tây Sa Châu và Túc Châu, phụ trách phòng thủ biên cương miền tây của Đại Đường. Phủ Đô đốc ở Qua Châu, vì vậy hàng năm hai mùa xuân thu ông ta đều phải đến hai châu trực thuộc là Tây Sa Châu và Túc Châu, kiểm tra đốc thúc việc quân sự của quân biên phòng và phủ binh các châu, các trấn, lại cùng Huyền Trang một trước một sau đến trạm dịch Ngư Tuyền này.

Thế tử Lý Thiền bên cạnh nhảy xuống ngựa, đỡ phụ thân xuống ngựa.

Lý Diễm sầm mặt đi tới trước mặt dịch trưởng, tóm lấy công văn, nhìn qua một cái rồi soạt soạt soạt xé cho tan nát. Dịch trưởng kia toàn thân run rẩy, lại không dám nói lời nào.

“Ngài chính là pháp sư Huyền Trang?” Lý Diễm cười, chắp tay với Huyền Trang. “Tháng trước ta đến Túc Châu đôn đốc, liền nghe nói Lý Đại Lượng đang truy bắt pháp sư, sau đó biết được pháp sư đã đến Qua Châu, liền vội vàng rời khỏi Túc Châu, định bái kiến pháp sư ở Qua Châu. Hỏi Độc Cô Đạt mới biết pháp sư đã đến Đôn Hoàng, vì vậy lại lên đường đuổi gấp, may mà không lỡ mất dịp may lần nữa!”

Huyền Trang cười gượng. “Bần tăng cũng vì bị ép nên mới bất đắc dĩ, xin Đại vương thứ tội.”

“Ngài có tội gì đâu?” Lý Diễm lớn tiếng nói. “Sợ ngài xuất cảnh, vậy liền nhẹ nhàng khuyên nhủ và phụng dưỡng chu đáo là được. Gã Lý Đại Lượng này hết phái kỵ binh lùng bắt lại gửi công văn truy bắt, quả thực là hết sức phi lý!”

Thế tử Lý Thiền bên cạnh rút hoành đao trên người ra, cắt đứt dây trói rồi nói xen vào. “Pháp sư, ngài là bạn thân của Bệ hạ, vừa cứu Bệ hạ tại Hoắc Ấp, chính là ân nhân của Lý gia chúng ta, sao có thể đối đãi như vậy? A gia, ngài phải vạch tội gã Lý Đại Lượng đó một trận!”

“Đương nhiên là phải vạch tội hắn,” Lý Diễm cười nói. “Có điều phải đợi pháp sư rời khỏi quốc cảnh đã, bằng không Bệ hạ biết pháp sư đang ở chỗ ta, há không ép ta đưa pháp sư trở về Trường An?”

Huyền Trang vui mừng. “Đại vương sẵn sàng giúp đỡ bần tăng đi đến nước Y Ngô?”

Lý Diễm lập tức khó xử. “Cái này… Pháp sư, ta cũng không giấu ngài. Lý Đại Lượng dám làm như thế, sợ rằng cũng là phỏng đoán ý tứ của Bệ hạ, Bệ hạ lo lắng cho an nguy của ngài, tất nhiên sẽ không chịu cho ngài tây du. Nếu biết ta đưa ngài đi, chuyện này… sợ rằng không dễ giải thích.”

“Bần tăng hiểu rồi, nhất định sẽ không làm liên lụy đến Đại vương.” Huyền Trang cười gượng.

Lý Diễm phất tay cho mọi người đang quỳ đều đứng lên. Dịch trưởng kia vội vã dặn dò thủ hạ dọn dẹp trạm dịch, quét dọn phòng ốc, bố trí sĩ tốt cho ngựa ăn uống. Nhà bếp bên kia cũng bắt đầu bận rộn chuẩn bị đồ ăn và thức uống.

Dịch xá của trạm dịch cực kì đơn sơ, có điều Lý Diễm đã qua lại nhiều lần, cũng không để ý, mời Huyền Trang đến phòng mình ngồi, Lý Thiền đích thân hầu hạ bên cạnh. Chính đường trong nhà đặt một chiếc ghế vuông vức cao khoảng một thước, xung quanh cũng không có thành và trụ góc, chỉ có một chiếc chiếu trúc được trải bên trên, rất đơn sơ. Dịch trưởng đích thân mang trái cây và rượu nho đến. Lý Thiền thận trọng, biết tăng nhân Trung Nguyên không uống rượu, cố ý sai người đưa đến một ấm nước nho.

“Tháng Bảy ăn dưa, tháng Tám ăn bầu.” Lý Diễm cười. “Qua Châu nơi này không có gì tốt, chỉ có dưa mật vô cùng ngon ngọt, cũng vì thế nên mới gọi là Qua Châu.”

Lý Diễm mặc dù ngôn từ văn nhã nhưng tính tình lại hào sảng, cũng không quá chú trọng hình tượng, cầm dưa lên liền gặm, gặm đến mức nước chảy dầm dề, gặm liền hai miếng mới hả lòng hả dạ.

“A gia!” Lý Thiền hơi lúng túng. “Pháp sư đang ở đây!”

Lý Diễm chợt hiểu. “A, Thiền Nhi nhắc nhở rất đúng, lại quên mời pháp sư, nào, ăn đi ăn đi!”

Lý Thiền dở khóc dở cười, chán nản nhìn Huyền Trang một cái. Huyền Trang cũng cười, cầm lên một miếng dưa mật. “Bần tăng cũng thích ăn dưa mật, mấy ngày nay ở Qua Châu thấy rất nhiều người ăn dưa, cũng tổng kết ra những điều cần chú ý khi ăn dưa.”

“A? Nói thế nào?” Lý Diễm thấy hứng thú.

Huyền Trang nghiêm túc đáp. “Ăn miếng to, miệng chọp chẹp, nhai cả cùi, không lau miệng.”

Lý Diễm và Lý Thiền ngơ ngác nhìn nhau, rồi lập tức ôm bụng cười to. “Pháp sư, đây thật là… Đại Đạo chí giản, người điếc cũng phải nghe thủng.”

Sau khi cười xong, Lý Diễm cảm khái. “Kì thực ta làm sao không biết ý của Thiền Nhi chứ, chẳng qua nó chê ta thân là Quận vương, tướng ăn lại không được văn nhã cho lắm thôi.”

“Nhi tử đâu dám.” Lý Thiền cười cầu tài.

Lý Diễm hừ một tiếng. “Pháp sư biết Đại Đường ta giành được thiên hạ so với các triều đại trước có gì khác nhau không?”

“Hết sức gian khổ,” Huyền Trang nói.

“Đây là pháp sư nói khách khí,” Lý Diễm cười nói. “So với Cao Hoàng đế và Quang Vũ Hoàng đế của Lưỡng Hán, Đại Đường ta đã giành thiên hạ dễ dàng hơn rất nhiều rồi, nhưng có một điểm khác nhau. Tây Hán vong là quyền thần soán quyền, Đông Hán sập là chư hầu cát cứ, Tây Tấn diệt là vì loạn bát vương, Bắc Ngụy tan là quyền thần phân liệt, Bắc Chu mất là quyền thần soán quyền, chỉ có triều Tùy này là chết vì lê dân tạo phản, bách tính khởi sự!”

“Đích xác là như thế.” Huyền Trang suy nghĩ một lát, im lặng gật đầu.

“Ta đã theo Thái thượng hoàng khởi sự từ lúc còn ở Thái Nguyên, năm Vũ Đức thứ tư cùng Hà Gian Vương tấn công Tiêu Tiến, lại cùng với Thái tử… ẩn Thái tử bình định Lưu Hắc Thát ở Hà Bắc.” Lý Diễm nhớ lại chuyện cũ. “Hà Bắc đó đúng là bình rồi lại phản, phản rồi lại bình, sau đó lại phản, từng đám loạn dân đến dưới đại kì của Lun Hắc Thát, hát ‘tóc như hẹ, cắt lại mọc, đầu như gà, cắt vẫn kêu, quan không cần phải sợ, tiểu dân xưa nay không thể khinh’. Tất cả đều hung hãn không sợ chết, lớp trước ngã xuống, lớp sau tiến lên. Chính là đám loạn dân này đã đánh bại Hoài An Vương Lý Thần Thông, tổng quản U Châu La Nghệ, giết Lý Huyền Thông, đánh bại Lý Tích, bắt sống Tiết Vạn Quân, Tiết Vạn Triệt, chém La Sĩ Tín, Lý Đạo Huyền. Lý Nguyên Cát sợ đến mức nghe tin đã mất mật, đến tận khi Bệ hạ và ẩn Thái tử hai lần thân chinh mới coi như bình định được. Không giấu pháp sư, khi đó ta cũng bị Lưu Hắc Thát đánh cho đại bại, phải bỏ thành mà chạy. Ta rút kinh nghiệm xương máu, từ ấy hiểu ra rằng sau nhà Tùy, thiên hạ này đã không còn là thiên hạ của sĩ tộc môn phiệt, công khanh quý trụ nữa rồi.”

Huyền Trang đột nhiên nhớ đến người bạn thân Lữ Thịnh năm Vũ Đức thứ bảy chiếm chùa Đại Hưng Thiện, khiêu chiến luận sư trong thiên hạ. Hắn cũng là kẻ xuất thân hàn vi, coi rẻ hoàng quyền quý trụ, ngay cả khoa cử cũng không chịu tin tưởng, định đứng đầu cả sáu khoa để kiểm nghiệm thành ý cải cách của Đại Đường.

Huyền Trang nói nhỏ. “Hồng thủy cuồn cuộn, nhấn chìm lăng tẩm, cô lập núi non, mênh mông ngập trời. Nghiêu Thuấn thời thượng cổ đã biết sức mạnh của dân chúng, mới không dám ngược đãi người dân, dung hợp vạn bang.”

“Đúng vậy!” Lý Diễm nói. “Cho nên từ đó về sau, ta ở trong quân cùng ăn cùng ở với quân tốt, ăn thịt miếng lớn, uống rượu bát to, ngôn ngữ thô thiển, không bao giờ để ý đến cái gọi là thân phận quận vương. Đã được Bệ hạ phái đến đất Lũng Hữu cát vàng này, vậy ta chính là người Lũng Hữu, người Qua Châu, ăn dưa mật, uống sữa cừu, ở nhà gạch mộc, như vậy mới cảm thấy an ổn trong lòng.”

Lý Thiền đột nhiên vái phụ thân. “A gia, là nhi tử kiến thức nông cạn, đa tạ a gia dạy bảo.”

Lý Diễm lắc đầu. “Ta không có gì để dạy bảo con, con không trải qua, không biết nỗi sợ hãi khi Tùy mạt sụp đổ. Ta chỉ

hi vọng thể hệ con cháu của mình có thể có lòng kính sợ đối với lê dân bách tính, không được đè sụp ngọn núi lửa này. Bằng không triều đại thay đổi, ngay cả mộ của a gia con cũng có thể bị người ta đào lên.”

Huyền Trang cười nói, “Đại vương nói lời này hơi nặng. Giờ đây Đại Đường ta vừa mới hưng, Bệ hạ là một đời anh chủ, lại là người từng trải qua loạn thế Tùy mạt, tuyệt đối sẽ không coi thường sức dân.”

“Vậy cũng đúng. Bệ hạ này…” Lý Diễm thở dài một hơi. “Pháp sư, ta muốn hỏi ngài một chút, tháng Sáu năm nay, rốt cuộc ngài cùng Bệ hạ đã trải qua những chuyện gì ở huyện Hoắc Ấp?”

Huyền Trang kế lại sơ lược những chuyện ở huyện Hoắc Ấp, còn chuyện ngục Nê Lê thật giả thế nào thì chỉ hàm Hồ cho qua chuyện, những chuyện dính dáng đến đại quan triều đình như Bùi Tịch lại càng tuyệt đối không nhắc tới, chỉ nói Thôi Giác và Pháp Nhã âm mưu làm loạn.

Lý Diễm nghiêm túc nhìn ngài. “Pháp sư, khi ấy Bệ hạ quả thật không có ý định giết Bùi tướng công hay sao?”

Huyền Trang nhìn vẻ mặt lo âu của Lý Diễm, trong lòng lập tức kinh hãi, vội vàng nói, “Bệ hạ không hề nói với bần tăng về Bùi tướng.”

“Hiểu rồi.” Lý Diễm đột nhiên mất hết hứng thú, nhưng cũng biết Huyền Trang tuyệt đối không chịu suy đoán tâm tư của Hoàng đế nên không tiếp tục nói về chủ đề này nữa.

Hai người lại chuyện trò một phen, sau đó Huyền Trang cáo từ ra ngoài. Lý Diễm lệnh Lý Thiền đích thân đi cùng Huyền Trang, bố trí toàn bộ việc ăn ngủ của ngài.

Đêm hôm đó Huyền Trang nghỉ ngơi ở trạm dịch Ngư Tuyền.

Đại mạc, trăng sáng, cát vàng, thành cổ, ụ khói lửa cao cao trên núi Kỳ Liên, dòng suối phản chiếu ánh trăng lấp loáng.

Huyền Trang ngồi bên suối Ngư Tuyền, nhìn nước suối trong sa mạc; trời sao in bóng xuống mặt nước, nháp nháy nhấp nháy, dường như đang làm giới hạn giữa vũ trụ và mặt đất dần mờ nhạt đi.

“Pháp sư.” Lý Thiền đi ra từ trong nhà khách, ngồi xuống bên cạnh Huyền Trang. “Pháp sư, ta có thể theo ngài học Phật hay không?”

Huyền Trang ngẩn ra. “Ngươi định xuất gia?”

Lý Thiền lúng túng. “Xuất gia… Tất nhiên là a gia không cho. Nghe nói ngài muốn xuất quan tây du, ta nghĩ nếu có thể cùng ngài lên đường tây du, đi một chuyến tới Thiên Trúc, có lẽ a gia sẽ đồng ý.”

“Nếu là so với tây du, chỉ sợ a gia của ngươi lại muốn ngươi xuất gia hơn.” Huyền Trang cười.

“Vì sao?” Lý Thiền kinh ngạc.

“Bởi vì đường tây du cửu tử nhất sinh, còn xuất gia thì sẽ không chết,” Huyền Trang nói.

Lý Thiền kinh ngạc, gãi gãi đầu. “Vậy… vậy mà lại gian nguy như thế?”

“Đúng vậy!” Huyền Trang nhìn trăng sáng lên cao. “Từ xưa đến nay tăng lữ tây du nhiều vô số kể, nhung kết cục là chúng ta chỉ biết đến mỗi Pháp Hiển, bởi vì những người khác đều đã chết ở trên đường rồi,”

Lý Thiền cũng kinh hãi, một hồi lâu không nói.

“Vì sao Thế tử muốn học Phật?” Huyền Trang hỏi.

Lý Thiền đắng chát nói, “Pháp sư có biết vì sao a gia của ta phải đến Qua Châu làm Đô đốc không?”

Huyền Trang suy nghĩ một lát. “Quận vương của hoàng thất nhà Đường mang hàm Đô đốc châu phủ địa phương cũng là thông lệ mà? Qua Châu là nơi trọng địa trấn giữ vùng biên giới phía tây, nằm ở khu vực giao giới giữa Đại Đường và Đông, Tây Đột Quyết, Bệ hạ chắc hẳn cũng muốn để các vương tôn hoàng thất đến trấn thủ.”

“Nói vậy cũng không sai, chỉ tiếc làm Đô đốc Qua Châu không phải Bệ hạ coi trọng a gia ta, mà là đi đày,” Lý Thiền cười khổ nói.

Huyền Trang hơi kinh ngạc.

Lý Thiền nói, “A gia ta lớn hơn Bệ hạ mười mấy tuổi, từ nhỏ đã giao hảo với ẩn Thái tử Kiến Thành, bao gồm Đô đốc Lương Châu tiền nhiệm Trường Lạc Vương Lý Ấu Lương và Đô đốc U Châu Lư Giang Vương Lý Viện, đều bị Bệ hạ coi là phe cánh của ẩn Thái tử. Sau binh biến Huyền Vũ Môn, Lý Viện mưu phản bị giết, Lý Ấu Lương bị ban cho chết, a gia ta mặc dù bị biếm đến nơi hẻo lánh này, lại ít nhất còn giữ được mạng. Nhưng a gia ngày đêm bất an, mỗi lần Trường An có thư đến, trước khi bóc thư ngón tay luôn run rẩy, giống như ở thành Trường An có một thanh kiếm đang treo ở trên đầu của a gia vậy. Ta là con trai, khó chịu thay cho a gia, đồng thời cũng thấy thể sự hoang đường. Nếu là nhà bình thường, đồng tông đồng tộc, anh em họ thân mật cỡ nào; nhưng tại gia tộc hoàng thất đế vương, huynh đệ lại là người khiến cho chúng ta sợ hãi nhất. Pháp sư, không biết Phật gia có thể giúp ta được giải thoát hay không?”

Huyền Trang không thể nào trả lời được.

Sáng sớm hôm sau, Lý Diễm mời Huyền Trang cùng mình xuất phát đến Đôn Hoàng. Lưu Sư Lão và một số khách buôn cũng lặng lẽ xuất phát đi theo. Vùng Qua Sa chẳng những thường xuyên có giặc cướp xâm phạm mà còn có Thổ Dục Hồn ở phía đông nam vượt qua núi Kỳ Liên cướp bóc, những khách buôn này đi theo quân đội là an toàn nhất. Cả trăm tên nô bộc áp tải mấy chục chiếc xe ngựa tạo thành một đội ngũ cuồn cuộn đi về hướng tây nam.

Đường núi Qua Sa chạy theo dãy núi lớn nhỏ ở mé tây của núi Kỳ Liên; đường qua sa mạc hiểm trở, có điều may mà nguồn nước dồi dào, mọi người lại đi thêm hai ngày, liền từ sa mạc thuần một màu vàng vọt đi vào ốc đảo nơi cây cối tốt tươi. Ngoài thành Đôn Hoàng có dòng sông Cam Tuyền từ núi Kỳ Liên ở phía đông chảy ra, nước sông cuồn cuộn chảy về hướng đông bắc. Hàng trăm hàng nghìn năm nay, người Đôn Hoàng đã đào vô số kênh trong ốc đảo để dẫn nước sông Cam Tuyền đến tưới tắm cho ốc đảo này.

Hai bên đường, cây du, cây dương và cây liễu liên miên nhấp nhô, thảm cỏ xanh trải khắp, nước dưới kênh trong vắt ngọt ngào. Đối với lữ khách mắc kẹt trong sa mạc nhiều ngày mà nói, sự vui mừng, cảm kích và kính sợ ấy quả thực làm cho người ta muốn quỳ xuống hôn lên mặt đất đang tỏa ngát hương thơm này.

Trên đường đi qua những cánh đồng, vườn hoa và vườn nho, không ít nông dân đang lao động dưới ruộng, thỉnh thoảng có tiếng hát của những người chăn cừu vang lên, len qua tán lá. Bên đường thường thường xuất hiện những tòa ổ bảo, vách đất đầm chặt, cao dày chắc chắn giống như một tòa thành nhỏ, đó chính là thôn xóm nơi bách tính sinh sống tập trung.

Lý Diễm và Lý Thiền cùng Huyền Trang ngồi trên lưng ngựa, đi ở đầu đội ngũ. Lý Thiền giới thiệu với Huyền Trang. “Từ khi Hán Vũ khai biên tới nay, Đôn Hoàng chính là chốt chặn biên thùy, phúc địa trời cho của các đời vương triều Trung Nguyên. Nơi ốc đảo khổng lồ phương viên mấy trăm dặm này, mặt đông là núi Kỳ Liên hiểm trở, ba mặt còn lại tất cả đều là sa mạc Gobi nghìn dặm không có người ở, mà trong đại mạc này lại có mấy con đường có thể đi tới các nước Tây Vực.

Hướng về phía đông nối liền với Qua Châu và Lũng Hữu tự nhiên không cần phải nói. Đi về phía tây, qua Hán Ngọc Môn Quan hoặc Dương Quan có thể đến Thiện Thiện, Vu Điền. Đi đường Đại Thích qua Hán Ngọc Môn Quan, thành cổ Lâu Lan có thể tới Yên Kỳ. Đi về phía bắc qua đường Sáo Can có thể đến Y Ngô, Cao Xương. Đi về phía nam qua đường Nam Sơn có thể đến Thổ Dục Hồn.

Bây giờ Đại Đường ta thế nước đang lên, con đường tơ lụa cũng dần dần phồn hoa. Đôn Hoàng là đầu mối giao thông, khách buôn Hồ, Hán qua lại không ngớt, bảo vật hiếm quý của phương đông và phương tây đều tập trung ở trong một thành, pháp sư vào trong thành sẽ thấy.”

Huyền Trang ngạc nhiên. “Thế tử kiến thức thật rộng rãi!”

Lý Diễm cười nói, “Thiền Nhi đi theo ta đến Qua Châu ở mấy năm, không thích ở trong phủ Đô đốc mà thích du lịch khắp nơi, pháp sư có thể hỏi Thiền Nhi về đường tây du.”

Huyền Trang chắp tay cảm ơn.

Mọi người vừa đi vừa nói chuyện, đi qua những con kênh và cầu gỗ liền đến trạm dịch cuối cùng trên dịch đạo Qua Sa, trạm dịch châu thành. Trạm dịch châu thành cách thành Đôn Hoàng năm dặm, giữa trạm dịch và thành trì cách một dòng sông Cam Tuyền, người Đôn Hoàng thường nghênh tiễn quan chức và ly biệt thân nhân ở chỗ này.

Xa giá của Lý Diễm còn chưa đến trạm dịch châu thành, Thứ sử Tây Sa Châu Vương Quân Khả đã dẫn Trưởng sử, Tư mã, Lục sự tham quân, Huyện lệnh nha môn châu huyện và các bô lão sĩ tộc trong thành đi tới bên đường nghênh đón. Thậm chí Vương Quân Khả còn điều động cả binh mã, một đội trấn binh khoảng năm trăm người được mấy Hiệu úy dẫn theo giới nghiêm xung quanh, bầu không khí uy nghiêm đến mức làm người ta bất an.

Lý Diễm phát hiện tình hình khác thường, sắc mặt lại không đổi, mỉm cười làm đủ lễ nghi với quan chức và các bô lão chờ đón, được mọi người đón vào trạm dịch, thực hiện một số hư lễ quan trường.

Lý Thiền không thích mấy chuyện này, sớm đã cùng Huyền Trang vào trạm dịch. Hai người tắm rửa thay quần áo, tẩy sạch cát bụi và mồ hôi trên đường, vừa quay về nội đường ngồi xuống đã nghe thấy tiếng bước chân vang lên bên ngoài, Lý Diễm dẫn Vương Quân Khả đi vào. Huyền Trang vội vàng đứng dậy chắp tay.

“Vị pháp sư này là…” Vương Quân Khả hơi kinh ngạc.

Lý Diễm giới thiệu. “Vị này chính là pháp sư Huyền Trang ở Trường An, bản vương may mắn gặp được pháp sư ở trạm dịch Ngư Tuyền, liền cùng nhau đến Đôn Hoàng.”

“Pháp sư Huyền Trang?” Vương Quân Khả giật mình, chần chừ nói. “Đó là người tháng Sáu cùng Bệ hạ…”

Lý Diễm cười ngắt lời hắn. “Chính là vị pháp sư đó!”

Vương Quân Khả vội vàng vái rất sâu. “Hạ quan nghe đại danh của pháp sư đã lâu, vô cùng kính trọng, không ngờ lại được gặp ở Đôn Hoàng, thật đúng là may mắn ba đời!”

Huyền Trang cũng quan sát kĩ Vương Quân Khả.

Vương Quân Khả bây giờ khoảng chừng bốn mươi tuổi, dáng người hùng tráng nhưng khuôn mặt lại rất gầy gò, đôi mắt hắn lấp lánh ánh sáng, hiện lên vẻ cực kì sắc sảo.

Huyền Trang chắp tay. “Bần tăng cũng nghe danh anh hùng Đại Đao Vương Quân Khả ở trại Ngõa Cương năm đó đã lâu, dùng mười ba người phá một vạn tặc binh, đúng là một trận điển hình của chiến thuật lấy ít địch nhiều, Vương Thứ sử có thể nói là “tiền vô cổ nhân‘.”

Lời này khiến Vương Quân Khả mát gan mát ruột, hắn cười rụt rè.

Vương Quân Khả chính là hãn tướng của trại Ngõa Cương thời Tùy mạt, dùng một thanh mạch đao nặng hàng chục cân xưng hùng Ngõa Cương, cùng đám người Tần Quỳnh, Đơn Hùng Tín, Trình Giảo Kim và Lý Tích có giao tình sống chết. Sau khi Lý Mật chiến bại, Vương Quân Khả liền cùng với đám người Tân Quỳnh và Trình Giảo Kim đến nhờ cậy Vương Thế Sung.

Nhưng Vương Thế Sung dùng người chỉ dùng thân tín, không hề tín nhiệm bọn họ. Thừa dịp Lý Thế Dân và Vương Thế Sung dàn quân đối mặt nhau, Tân Quỳnh có một hành động khiến ai cũng phải kinh hãi: Hắn cùng Trình Giảo Kim, Vương Quân Khả và Ngưu Tiến Đạt, hơn mười người rời khỏi quân trận của Vương Thế Sung đi tới giữa hai quân; khi đến nơi, mọi người cùng xuống ngựa quay về phía Vương Thế Sung quỳ lạy.

Tần Quỳnh nói, “Dù được ngài thu nhận nhưng chúng ta lại không thể đem sức lực ra để phục vụ ngài, xin hãy cho phép chúng ta cáo từ!”

Nói rồi mọi người xem vạn quân như không, ung dung lên ngựa, đi tới đội ngũ của Lý Thế Dân. Vương Thế Sung hận đến mức nghiến răng nghiến lợi nhưng lại không dám ra tay cản trở.

Sau khi về Đại Đường, Vương Quân Khả liền đi theo Lý Thế Dân bình diệt Vương Thế Sung. Trong trận chiến Yển Sư, Vương Quân Khả trước giả vờ thua sau mai phục, đích thân dẫn mười ba người đột nhập vào trung quân của tướng địch trảm tướng đoạt cờ, đánh tan hơn một vạn người của quân Trịnh. Sau đó Lý Uyên đã hạ chiếu khen ngợi Vương Quân Khả. “Khanh dùng mười ba người phá tặc một vạn, lấy ít đánh nhiều, từ xưa tới nay chưa từng nghe thấy”.

Vương Quân Khả lộ vẻ cảm khái. “Giờ đây ở sa mạc Lũng Hữu này ba năm, hồi tưởng lại kim qua thiết mã năm ấy, đúng là như một giấc mơ.”

Mọi người cùng cười rồi ngồi xuống ghế, Vương Quân Khả sai người dâng trái cây rượu nước, sau đó đuổi người ngoài ra.

Thấy hai người dường như có việc cần bàn bạc, Huyền Trang nghĩ cáo từ, Lý Diễm lại giữ lại. “Không sao, không sao, không phải việc công gì.”

Huyền Trang đành phải ngồi xuống.

Lý Diễm uống một chén rượu nho, cau mày nói, “Quân Khả, bản vương chỉ đi tuần mùa thu theo thường lệ, vì sao ngươi lại điều động trấn binh trong châu? Làm vậy thật sự là hơi lỗ mãng! Vừa rồi ta nhìn thấy Hiệu úy dẫn quân là Lệnh Hồ Chiêm, Trấn tướng Tây Quan, sợ là cả trấn Tây Quan đều đã dốc toàn lực lên đường rồi hả?”

Vương Quân Khả cười. “Không chỉ có thể. Hạ quan cũng điều hai trăm người từ thủ tróc Tử Đình tới, Thủ tróc sứ Địch Thuật dân binh mã cảnh giới ở vòng ngoài.”

Lý Diễm ngẩn ra, không nói một lời nhìn Vương Quân Khả chằm chằm.

Vương Quân Khả cười gượng. “Hạ quan cũng biết là lỗ mãng, nhưng thật sự không thể làm khác được. Bởi vì thời gian gần đây trong thành Đôn Hoàng không yên ổn.”

“Không yên ổn?” Lý Thiền kinh ngạc. “Có ngươi trấn thủ trong thành, còn có kẻ xấu nào dám làm xằng, làm bậy? Chẳng lẽ là người Đột Quyết hoặc người Thổ Dục Hồn có động tình? Trên đường đi không thấy có khói lửa mà!”

“Đương nhiên không phải Thổ Dục Hồn và Đột Quyết xâm lấn, nếu vậy hạ quan lại không lo lắng.” Vương Quân Khả thở dài một hơi. “Trong thành Đôn Hoàng có Thiên Lang giết người!”

Mọi người đều sửng sốt.

Huyền Trang thắc mắc. “Cái gì là Thiên Lang giết người?”

“Pháp sư có chuyện không biết.” Vương Quân Khả kiên nhẫn giải thích. “Năm Vũ Đức thứ chín, lúc hạ quan còn chưa đến nhậm chức, Đôn Hoàng này xuất hiện một yêu vật, hình thù như sói, ăn mất hơn mười người, tắm máu phố lớn Cam Tuyền. Khi ấy Thứ sử và huyện nha phái người vây bắt lại bị nó ăn mất mấy người, sau đó điều động quân đội đến, yêu sói này liền trốn vào trong sa mạc.”

“Ai da, việc này ta biết!” Lý Thiền hưng phấn nói xen vào. “Năm Trinh Quán nguyên niên, lúc ta theo a gia vừa tới Qua Châu từng nghe nói, yêu sói kia chiếm cứ Ngọc Môn Quan đời Hán đã bị vứt bỏ vài chục năm trong sa mạc, tự xưng Khuê Mộc Lang, nói mình chính là Khuê Tú trên trời hạ phàm!”

“Khuê Mộc Lang?” Huyền Trang kinh ngạc. “Cái tên này rất kỳ quái. Khuê Tú chính là chòm sao đầu tiên thuộc bảy chòm sao Bạch Hổ phương tây trong Nhị thập bát tú, tại sao lại có liên quan đến gỗ và sói?”

“Cái này thì ta không biết,” Lý Thiền nói. “Yêu vật đó có nhiều pháp thuật thần thông rất kỳ dị, dần dần có một số người Hán và người Hồ ngu muội bị nó dụ dỗ, đến nhờ cậy nó. Trong vòng vài ba năm đã có mấy trăm người đi theo nó rồi, đám người này thường xuyên gây rối con đường tơ lụa, cướp bóc thương nhân. Ta nhớ phủ Đô đốc còn từng gửi công văn cho Đôn Hoàng, hạ nghiêm lệnh tiêu diệt.”

“Vâng, vâng.” Vương Quân Khả hơi lúng túng. “Hạ quan nhận được công văn của Đô đốc, đã xuất binh tiêu diệt nhiều lần; nhưng sa mạc kia địa hình phức tạp, binh ít không làm được việc, binh nhiều thì nó liền trốn vào trong thành ma quỷ ở phía tây xa hơn nữa, mỗi lần đều vất vả mà không có kết quả gì.”

“Nói như vậy…” Lý Diễm trầm ngâm. “Con yêu sói đó giờ đã tới thành Đôn Hoàng gây rối rồi?”

“Đúng thế!” Vương Quân Khả mặt mày rầu rĩ. “Nửa tháng trước đã xuất hiện trong thành, ăn thịt và giết chết mấy người. Hạ quan từng phái người vây bắt nhưng Khuê Mộc Lang này thần thông kỳ lạ, căn bản không bắt được nó. Sai dịch của nha môn huyện không thể làm được, hạ quan liền để trấn Tây Quan của Lệnh Hồ Chiêm tiếp quản việc tuần tra canh gác trong thành. Lần này ngài đến, hạ quan lo lắng Khuê Mộc Lang gây bất lợi cho ngài, liền điều cả thủ tróc Tử Đình của Địch Thuật tới?’

Lúc này Lý Diễm mới hiểu. Ông ta biết rõ nghi kỵ của triều đình đối với mình, đến Qua Châu vẫn luôn luôn thấp giọng, không bao giờ lỗ mãng, hôm nay thấy Vương Quân Khả gióng trống khua chiêng như thế liền cảm thấy vô cùng bất an, vì vậy mới gọi hắn vào dò hỏi. Có điều gặp phải việc này cũng không thể nói Vương Quân Khả làm không đúng, chắc hẳn tai mắt của Hoàng đế ở trong châu sẽ không vạch tội mình vì chuyện này, nên cũng yên tâm.

Mọi người lại trò chuyện một lát, Huyền Trang liền cáo từ hai người. Ngài phải thăm dò chuyện lén vượt biên giới, đương nhiên không tiện đi theo Lý Diễm mãi, không bằng nhân cơ hội này rời đi, hành động cũng thuận tiện.

Lý Diễm biết tâm tư của ngài, cũng không ngăn cản, đích thân đưa Huyền Trang ra ngoài trạm dịch.

Lý Thiền thấy Huyền Trang dắt một con ngựa gầy, một thân một mình, tự do tự tại, không khỏi hết sức hâm mộ. “A gia, nhi tử muốn đi theo pháp sư một thời gian, được không ạ?”

“Thiền Nhi…” Lý Diễm nhìn con trai bằng vẻ mặt phức tạp. “Cùng a gia ở Qua Châu ba năm, đúng là khổ cho con. Pháp sư là người tâm tính khoáng đạt, kiến thức uyên thâm, con có thể đi theo pháp sư cũng tốt. Có điều pháp sư phải tây du Thiên Trúc, lúc ấy con tuyệt đối không thể đi!”

Lý Thiền mừng rỡ. “Nhi tử biết!” Nói xong liền vội vàng dắt một con ngựa đuổi theo Huyền Trang, như một con chim vừa mới được thả ra khỏi lồng.

“Hạ quan sớm đã nghe đại danh của vị hòa thượng này, hôm nay được gặp, đúng là còn hơn cả nghe danh.” Vương Quân Khả cảm khái.

“Cũng chỉ có tăng nhân như vậy mới có thể được Bệ hạ coi trọng!” Lý Diễm cười nói.

“Trong kinh thành có tin tức truyền đến, Bùi tướng công bị tịch biên tài sản, lưu đày Tĩnh Châu rồi,” Vương Quân Khả nhìn theo bóng lưng Huyền Trang không chớp mắt, lạnh nhạt nói.

Lý Diễm bỗng nhiên quay đầu nhìn hắn chằm chằm. “Chuyện khi nào?”

“Hôm qua vừa nhận được tin gấp từ kinh thành đến, là chuyện từ tháng Bảy.” Vương Quân Khả thở dài một hơi. “Bùi tướng đỡ bên trái lại hở bên phải, cuối cùng không tránh được kết cục này. Danh thần thời Vũ Đức hiện nay chỉ còn lại Tiêu Vũ vẫn trụ được trong trung tâm quyền lực triều đình, có điều bây giờ cũng đã bị bãi tướng đến lần thứ ba.”

Sắc mặt Lý Diễm xanh mét, nhưng lại không nói gì.

Lý Diễm là phe cánh của Thái tử Kiến Thành. Thời Vũ Đức, Bùi Tịch quyền nghiêng triều đình, được Lý Uyên cực kì tin tưởng. Lý Diễm có quan hệ không tồi với Bùi Tịch, năm ấy chính là Lý Diễm giúp Thái tử lôi kéo Bùi Tịch, Bùi Tịch mới ủng hộ Kiến Thành. Sau binh biến Huyền Vũ Môn, Lư Giang Vương Lý Viện và Trường Lạc Vương Lý Ấu Lương liên tiếp bị giết, cũng nhờ có Bùi Tịch giúp đỡ nên Lý Diễm mới bị biếm đến Qua Châu, xem như rời khỏi chốn thị phi triều đình.

Nhưng bây giờ Bùi Tịch cũng đổ rồi.

Vương Quân Khả dường như đang tự nói một mình. “Từ năm Trinh Quán thứ ba đến nay, Lũng Hữu đúng là thay đổi hoàn toàn, Bệ hạ lệnh Lý Đại Lượng làm Đô đốc Lương Châu thay cho Vũ Văn Sĩ Cập, lại để Trương Bật đến Cam Châu làm Thứ sử, sau đó phái Ngưu Tiến Đạt đến Túc Châu làm Thứ sử. Cả quan trường Lũng Hữu xem như tẩy sạch một lần từ trên xuống dưới.”

“Đây chỉ là phối hợp với triều đình công phạt Đông Đột Quyết mà thôi,” Lý Diễm trầm lặng một hồi lâu rồi bình tình nói. “Tháng Tư, Đô đốc Đại Châu Trương Công Cẩn dâng sớ, cho rằng có thể tấn công tiêu diệt Đông Đột Quyết, Bệ hạ đã có ý định xuất binh. Lý Đại Lượng, Trương Bật và Ngưu Tiến Đạt đều là hãn tướng, để bọn họ đến Lũng Hữu, hoặc là để phòng bị Đột Quyết xâm lấn biên cương, hoặc là có ý định tung ra một đội kỵ binh từ Lũng Hữu.”

“Đô đốc nói đúng.” Vương Quân Khả cười. “Nói đến Trương Bật và Ngưu Tiến Đạt, cả hai còn đều là chiến hữu của hạ quan ở trại Ngõa Cương ngày xưa. Năm đó hạ quan theo Tần Thúc Bảo và Trình Tri Tiết bỏ Vương Thế Sung đến nhờ cậy Bệ hạ, trong số những người cùng đi có hai người họ.”

Lý Diễm tò mò. “Ngươi và ta quen biết nhiều năm, chưa hề nghe ngươi nói về chuyên năm ấy.”

“Năm ấy quần hùng sáng chói, đúng là không biết nói từ đâu!” Vương Quân Khả dõi mắt nhìn đại mạc, cảm khái vô hạn. “Kể ra Trương Bật này và Lý Đại Lượng còn có một chuyện rất thú vị.”

“Trương Bật và Lý Đại Lượng?” Lý Diễm kinh ngạc. “Hai người bọn họ biết nhau từ trước?”

“Đâu chỉ là biết nhau?” Trên mặt Vương Quân Khả lộ ra vẻ mặt đầy ẩn ý. “Năm ấy Trương Bật là tâm phúc của Lý Mật, năm Đại Nghiệp thứ mười ba, Lý Đại Lượng theo tướng Tùy Bàng Ngọc tấn công trại Ngõa Cương, kết quả là Bàng Ngọc binh bại, Lý Đại Lượng cũng bị bắt làm tù binh. Không biết thế nào mà Trương Bật vừa nhìn thấy Lý Đại Lượng đã cực kì sửng sốt, hạ lệnh chém hơn một trăm quân Tùy khác bị bắt, nhưng lại chỉ giữ một mình Lý Đại Lượng.”

Lý Diễm lộ vẻ khó tin. “Vì sao lại thế?”

“Năm ấy hạ quan còn hỏi Trương Bật,” Vương Quân Khả nói. “Trương Bật chỉ nói, hắn vừa nhìn thấy người này đã sinh ra thiện cảm trong lòng, không đành lòng hạ thủ. Sau đó Trương Bật bảo vệ Lý Đại Lượng đang bị giam trong trại Ngõa Cương suốt nửa năm, cùng hắn tương giao tâm đầu ý hợp. Sau đó nữa thì trại Ngõa Cương bị đánh bại mấy lần, tình thế càng ngày càng cùng quẫn, Trương Bật lại tự ý phóng thích Lý Đại Lượng để hắn đến nhờ cậy Thái thượng hoàng.”

Lý Diễm kinh hãi hít một hơi. “Việc này hôm nay ta mới nghe nói lần đầu tiên.”

“Sau đó Trương Bật đi theo chúng ta đến nhờ cậy đương kim Bệ hạ, dòng Ngõa Cương chúng ta không muốn qua lại riêng tư quá mật thiết, quan hệ giữa hạ quan và Trương Bật vì thế cũng dần dần nhạt đi.” Vương Quân Khả không ngừng lắc đầu. “Nghe nói hai người Lý Đại Lượng và Trương Bật bề ngoài ít qua lại, nhưng lại lén lút có giao tình thâm hậu.”

“Đây là chuyện tự nhiên.” Lý Diễm không cho là đúng. “Nói cho cùng thì Trương Bật là ân nhân cứu mạng của Lý Đại Lượng mà.”

“Đúng vậy!” Vương Quân Khả nói với vẻ điềm nhiên như không. “Lúc này xem như Bệ hạ đã sắp xếp ba người có quan hệ sâu sắc với Ngõa Cương đến Lũng Hữu, cộng thêm hạ quan chính là bốn người, có thể thấy Bệ hạ coi trọng Lũng Hữu tới mức nào.”

Trong nháy mắt, Lý Diễm cảm thấy như có sét đánh ngay giữa trời quang, nước lạnh dội thẳng xuống đầu, toàn thân cũng phát run.

Ông ta liếc Vương Quân Khả một cái, lại thấy vị anh hùng Ngõa Cương năm xưa này vẫn rất thờ ơ, dường như chỉ đang nói chuyện phiếm thôi.

Lý Diễm nhắm mắt lại, trước mắt loáng qua một cái, lập tức xuất hiện địa đồ Lũng Hữu. Từ trọng trấn Lương Châu về phía tây đến Cam Châu, Túc Châu, Qua Châu và Tây Sa Châu, chính mình là Đô đốc Qua Châu không ngờ đã bị ba gã cựu tướng Ngõa Cương bao vây ở giữa!