← Quay lại trang sách

Chương 2 Tám sỹ tộc lớn ở Đôn Hoàng

Đôn Hoàng là thành lớn ở Hà Tây, tường thành đầm đất cao năm mươi ba thước, cao dày chắc chắn. Tường thành ở Tây Vực đều không xây gạch bao bên ngoài, lộ ra màu vàng đất nguyên bản, cực kì mộc mạc. Thành trì nằm ở bờ tây sông Cam Tuyên, đông tây rộng bốn trăm bộ, nam bắc dài sáu trăm hai mươi chín bộ, nhưng không phải là hình chữ nhật vuông vức vì góc đông nam có một phần tư tường thu vào phía trong một đoạn. Bốn góc tường thành đều xây ụ góc cao vút, từ trên cao nhìn xuống, ngày đêm canh gác.

Điểm đặc thù của thành Đôn Hoàng là bên ngoài tường thành xây thêm một vòng thành cừu ngựa. Thành cừu ngựa cao năm thước, chỉ đến vai người, nhưng độ dày lại lên đến năm thước. Trong công thành chiến, vòng thành cừu ngựa này cho dù không quá cao nhưng cũng là chướng ngại bên tấn công khó mà vượt qua được. Muốn vượt qua tòa thành cừu ngựa này tất phải đối mặt với sự tấn công mãnh liệt của bên thủ thành, mà cho dù có nhảy vào thành cừu ngựa thành công thì địa thế chật hẹp cũng khiến bọn họ không thể nào triển khai các loại khí giới công thành như thang mây.

Mà lúc này Huyền Trang và Lý Thiền dắt ngựa đi qua, lại phát hiện trong thành cừu ngựa thực sự đang nhốt rất nhiều cừu ngựa, đúng là được dùng để làm chuồng cừu kiêm chuồng ngựa thật.

Ở cổng thành Đôn Hoàng, Huyền Trang và Lý Thiền trình công nghiệm, quá sở, sau đó dắt ngựa vào thành.

“Sư phụ, ngài đến Đôn Hoàng có dự định gì?” Lý Thiền hỏi.

Huyền Trang ngắm nhìn tòa hùng thành biên ải màu đất, trong mắt tràn ngập chờ mong. “Bần tăng có một người hảo hữu tri giao tên gọi Lữ Thịnh, bây giờ hắn đang làm quan ở Đôn Hoàng này!”

Hai người vào thành từ cổng bắc.

Lúc này Đôn Hoàng vẫn giữ nguyên kết cấu thời kỳ Tào Ngụy, góc đông nam trong thành được cắt làm thành con, là chỗ của nha môn quan phủ. Bộ phận khác là la thành, là khu dân cư và khu thương nghiệp, giữa hai khu ngăn cách bởi tường cao, ở giữa có hai cổng lớn để ra vào. Như vậy trong số ba cổng thành của thành Đôn Hoàng, vào cổng tây và cổng nam thì sẽ phải đi qua thành con, chỉ có cổng bắc là tiện lợi nhất.

Vừa vào cổng bắc chính là phố lớn Cam Tuyền, kéo dài về phía nam hơn nửa tòa thành, nối đến tận cổng thành nhỏ. La thành cũng bị con phố lớn này chia thành hai phần đông tây: Phía đông là khu vực hình chữ nhật quy củ, phường thị quy hoạch nghiêm chỉnh, vuông vức như bàn cờ, còn phía tây bởi vì bị tường thanh con cong vẹo chia cắt nên biến thành một hình tam giác.

Kết cấu tòa thành mặc dù quái dị nhưng lại không gây ảnh hưởng gì đến sự thịnh vượng của nơi này. Dân số thường trú của cả Tây Sa Châu chỉ có hơn hai vạn người, tuy nhiên thương nhân các vùng từ Tây Vực và Trung Nguyên thường xuyên qua lại, trong thành người đông như mắc cửi.

Trên phố chính, la ngựa và lạc đà thồ hàng hóa đi qua bên cạnh, còn có người đuổi đàn cừu ra ngoài thành chăn thả, dòng người đông vui tấp nập; ngoài người Hán còn có người Thổ Dục Hồn mặt đỏ rực, người Đột Quyết tết bím tóc, người Túc Đặc mũi cao mắt sâu, áo bào cổ tròn đầu đội mũ cao, thậm chí còn có người Thổ Hỏa La và người Ba Tư đến từ nơi xa xôi hơn phía tây, khiến Huyền Trang tấm tắc than thở, lần này xem như được mở rộng tầm mắt.

Lý Thiền cười nói, “Những người khác không nói, riêng người Túc Đặc ở Đôn Hoàng không ít, thậm chí ở các hương còn có thôn xóm Túc Đặc quần cư. Bọn họ đã đăng ký quan phủ, đưa vào hộ tịch, xem như là người Đường rồi.”

Thành con là nơi sang trọng, nha môn châu huyện và phủ của các sĩ tộc lớn, nhà buôn giàu có đều ở trong thành con, hai người đi trên đường, Lý Thiền giới thiệu phong cảnh Đôn Hoàng với Huyền Trang.

“Sư phụ, vị Lữ Thịnh mà ngài cần tìm làm quan gì trong phủ Thứ sử?” Lý Thiền hỏi.

Huyền Trang suy nghĩ một lát. “Hắn đến Tây Sa Châu nhậm chức năm Vũ Đức thứ tám, nghe nói là Tham quân.”

Lý Thiền cười. “Sư phụ có chuyện không biết, trên quan trường Tham quân lớn nhỏ vô số, trong châu có Lục sự tham quân, còn có người đứng đầu sáu tào ty đều là Tham quân, nhưng lại hoàn toàn khác nhau.”

“Bần tăng và hắn quen biết nhau năm Vũ Đức thứ bảy; năm Vũ Đức thứ tám, trước khi hắn được điều đến Đôn Hoàng thì bần tăng đã ra ngoài rồi, vì vậy cũng không biết hắn làm chức quan gì.” Huyền Trang cười khổ. “Có điều hắn ở kinh thành là chính bát phẩm thượng.”

Lý Thiền không ngừng lắc đầu. “Quan chức kinh thành chính bát phẩm thượng, cho dù điều ngang thì đến Tây Sa Châu ít nhất cũng là Lục sự tham quân! Đây là nhân vật số bốn trong châu, chỉ thấp hơn Thứ sử, Trưởng sử và Tư mã, quyền lực còn cao hơn cả Tư mã, người như vậy lúc ở trạm dịch châu thành ngài trực tiếp hỏi Vương Quân Khả chẳng phải sẽ biết hay sao?”

“Bần tăng muốn nhờ Lữ Thịnh hỗ trợ, lén lút vượt quan ải.” Huyền Trang cười gượng. “Bần tăng thì đi rồi là xong, nhưng nếu sau này để quan trên và đồng liêu của Lữ Thịnh biết, sợ sẽ làm liên lụy đến hắn.”

Lý Thiền gật đầu. “Hiểu rồi. Có điều chuyện này cũng dễ thôi, đường đường Lục sự tham quân, đến nha môn châu hỏi là biết ngay.”

Từ cổng bắc theo phố lớn Cam Tuyền đi thẳng là đến cổng thành con, bây giờ không phải thời chiến nên việc ra vào thành con rất thuận lợi. Hai người vào cổng thành liền nhìn thấy một tòa Phật tháp cao vút, đó chính là tháp Bạch Mã, tòa bảo tháp được danh tăng, nhà dịch kinh Cưu Ma La Thập thời Hậu Tấn xây cho con ngựa trắng đã chết của mình.

Phủ nha Tây Sa Châu nằm ở phía tây tháp Bạch Mã, châu nha Đôn Hoàng cũng không cần sang trọng như ở Trung Nguyên, tường vách đất cực kì dày và chắc chắn, như một tòa thành hình vuông; trên tường thành còn có vọng lâu và mã diện, cổng phủ cũng là cổng vòm giống như cổng thành, cực kì to lớn.

Ngoài cổng có giáp sĩ đeo đao cầm mâu canh gác, hai người đi tới, một Hiệu úy mặc áo giáp bước ra nghênh đón. “Người tới là ai? Không được tự ý xông vào trong châu nha!”

Huyền Trang chắp tay. “Bần tăng đến để tìm người. Bần tăng muốn tìm Lục sự tham quân trong châu, tên gọi Lữ Thịnh.”

Hiệu úy đó kinh ngạc. “Lục sự tham quân? Lục sự tham quân của bản châu không phải họ Lữ, trong châu nha cũng không có người nào tên Lữ Thịnh.”

Huyền Trang và Lý Thiền đều sửng sốt, ngơ ngác nhìn nhau.

“Lữ Thịnh đến Đôn Hoàng năm Vũ Đức thứ tám.” Huyền Trang hỏi. “Chẳng lẽ lại điều đi nơi khác rồi?”

Hiệu úy kia thấy ngài là tăng nhân, Lý Thiền bên cạnh quần áo sang trọng, lập tức kiên nhẫn nói, “Chuyện này ta không biết được. Lục sự tham quân bây giờ họ Tào, tên Thành, đến Tây Sa Châu từ năm kia.”

Lý Thiền thấp giọng. “Sư phụ, Tào Thành này ta biết, bây giờ đang nghênh đón a gia ta trong trạm dịch châu thành. Chắc chắn là ngài nhầm ở đâu đó rồi.”

Huyền Trang suy nghĩ một lát, cũng không khỏi cười khổ. Lữ Thịnh được điều nhiệm đến Đôn Hoàng tới nay đã được bốn năm, chức quan thay đổi cũng là chuyện thường, có điều việc gấp trước mắt vẫn là hỏi thăm tung tích của Lữ Thịnh.

Đối diện phủ Thứ sử là phường Vĩnh Khang, tường phường cao dày chắc chắn, trên cổng phường còn có lầu thành, cũng mang hình dạng của một thành trì quy mô nhỏ. Huyền Trang và Lý Thiền đi vào trong phường, phường này nằm sát bên cạnh châu nha, người trong phường cũng đa số là quan chức sĩ tộc. Huyền Trang đi trên đường, thấy ở góc ngã tư có một quán rượu, mặt tiền cũ kĩ, chủ quán cũng khoảng từ năm đến sáu mươi tuổi, nói chuyện là khẩu âm bản địa, liền đi vào trong quán rượu. Lúc này đang là giờ Tỵ, trong quán rượu không có khách, chủ quán nhiệt tình đi tới chào hỏi.

Huyền Trang chắp tay hỏi, “Lão trượng có phải là người địa phương Đôn Hoàng không? Mở quán rượu ở đây đã bao nhiêu năm rồi?”

Chủ quán vội vàng tránh ra. “Không dám, không dám. Hồi bẩm pháp sư, nhà lão hủ nhiều đời đều là người Đôn Hoàng. Quán rượu này là tổ tiên truyền lại, đến nay đã có hơn một trăm năm mươi năm.”

“Vậy bần tăng xin thỉnh giáo lão trượng.” Huyền Trang hỏi, “Năm Vũ Đức thứ tám, có một vị Lục sự tham quân họ Lữ đến Tây Sa Châu, lão trượng có biết hắn không?”

“Ngài nói là Lữ Tham quân? Hắn…” Người bán rượu buột miệng đáp, sau đó sắc mặt lập tức biến đổi, bất an nhìn Huyền Trang và Lý Thiền, không dám nói thêm lời nào nữa.

Lý Thiền biết có chuyện khác thường, Huyền Trang lại mỉm cười nhìn người bán rượu. “Chính là Lữ Tham quân, lão trượng có biết giờ hắn đi nơi nào rồi không?”

“Hai vị không phải là người Đôn Hoàng?” Người bán rượu cắn răng, thấp giọng hỏi.

Hai người đều lắc đầu, Huyền Trang nói, “Bần tăng là người Lạc Dương, đi qua nơi đây, năm đó có duyên gặp mặt Lữ Tham quân một lần, vì thế muốn tới thăm hắn một chút.”

“Đã chỉ đi qua thôi thì tốt nhất là pháp sư đừng nên hỏi thăm nữa.” Người bán rượu cẩn thận nhìn khắp nơi. “Nhà lão hủ đời đời tín Phật, tuyệt đối không dám để một vị cao tăng gặp phải chuyện phiền phức. Trong thành Đôn Hoàng này, hai chữ ‘Lữ Thịnh’ chính là một điều cấm kỵ, bất kể với ai ngài cũng đều tuyệt đối không thể nhắc tới. Ngài làm xong việc rồi mau mau rời khỏi Đôn Hoàng mới là thượng sách.”

Huyền Trang và Lý Thiền trở nên nghiêm nghị.

Lý Thiền kinh ngạc hỏi, “Vì sao lại thế? Rốt cuộc hắn đã xảy ra chuyện gì?”

Người bán rượu điềm nhiên như không lau bàn, thấp giọng trả lời. “Nhà của Lữ Tham quân ở khúc hai, phố đông phường Thành Hóa, pháp sư đến xem liền biết, nhưng xin pháp sư chớ để người khác biết là lão hủ nói với ngài.”

Huyền Trang kinh hãi trong lòng, cũng không còn lòng dạ nào tiếp tục hỏi, lập tức dẫn Lý Thiền rời khỏi phường Vĩnh Khang.

Phường Thành Hóa cũng không xa, theo phố lớn Cam Tuyền đi về phía bắc qua ba phường là đến. Có điều phường này rất hẻo lánh, nằm trên một con phố nhỏ. Nhìn quy cách nhà cửa trong phường thì cũng không giống nơi ở của quan chức cấp cao hay thương nhân giàu có. Huyền Trang và Lý Thiền đi qua ngã tư tới phố đông, trước mặt có người chăn nuôi lùa mấy trăm con cừu tới, cả con phố toàn cừu là cừu.

Hai người tránh đàn cừu, đi tới khúc thứ hai, thấy men phố có một tòa nhà cao lớn, tường ngoài hình vuông đầm đất dày, xung quanh tường có hành lang bao quanh. Toàn bộ khu nhà rộng chừng hai mẫu, ở trong thành này xem như đại trạch. Lầu cổng hai tầng, trụ gỗ du to lớn và rường cột được chạm trổ rất tinh tế. Có điều cả tòa đại trạch này đã bị bỏ hoang, ngói trên hành lang rơi vỡ rất nhiều, mạng nhện chăng đầy giữa không trung, đung đưa trong gió, trên bậc thềm toàn là cỏ dại mọc cao đến đầu gối.

Trên cổng chính đen kịt dường như còn từng dán giấy niêm phong, chỉ có điều vì lâu ngày nên giấy niêm phong bong ra, sớm đã không thấy rõ chữ viết bên trên.

Huyền Trang im lặng đứng một lúc rồi bước lên trên bậc thềm, đưa tay đẩy hai cánh cổng dày sơn đen đó, cả lầu cổng cũng lắc lư nhưng cổng lại không mở ra. Huyền Trang hơi chán nản, đưa mắt nhìn quanh tìm cách mở cổng.

“Sư phụ, ngài thật sự muốn truy tra sao?” Lý Thiền hỏi.

“Truy tra đến cùng.” Huyền Trang nói từng chữ.

“Đã vậy thì cần gì phải cẩn thận từng li từng tí như thế?” Lý Thiền xoay người nhấc chân, lấy đà tung một cước đạp thẳng vào cổng, sau đó nhanh chóng kéo Huyền Trang nhảy xuống bậc thềm.

Lầu cổng lắc lư mấy cái, cuối cùng ầm ầm sụp xuống một nửa, một cánh cửa cũng đổ xuống, bụi bay mù mịt khắp trời. Huyền Trang không khỏi cười khổ.

Người đi đường đi qua trên phố cũng há hốc mồm, ngơ ngác nhìn bọn họ. Trong những ngôi nhà xung quanh cũng có người chạy ra xem, trên mặt đều biến sắc, chỉ chỉ trỏ trỏ. Huyền Trang cười với bọn họ, những người này lại lập tức rụt vào.

Đợi bụi bặm lắng xuống, Huyền Trang và Lý Thiền đi vào trong khuôn viên.

Vừa vào cổng liền đến sân trước rộng bề ngang, hai bên có nhà cửa, dường như là chỗ ở của nô bộc, đầu bên này là nhà bếp, đầu bên kia là cửa ngách, dường như đi đến chuồng ngựa bên ngoài tường bao. Chính giữa đi qua sân là đến cổng giữa, cũng có lau cổng cao cao, có điều hai cánh cửa gỗ sớm đã đổ xuống một nửa.

Mặt sân trước bị đào bới lung tung, gạch xanh bị chạy lên, đào mười mấy hố đất rất sâu. Huyền Trang ngồi xuống bên hố xem xét tỉ mỉ. Lý Thiền đi thẳng vào trong nhà chính, mặt lập tức biến sắc. “Sư phụ, mau tới đây!”

Huyền Trang vội vàng đứng dậy, đi qua cổng giữa, vừa thấy cảnh tượng trước mắt cũng sững sờ đứng yên.

Sân chính vô cùng rộng rãi, trồng một số cây du, cây liễu, xung quanh là nhà cửa, chính giữa sân có nền cao, bên trên là chính đường, cũng là kết cấu nhà cửa phổ biến ở Hà Tây. Vấn đề nằm ở chỗ trong sân chính cũng bị đào nham nhở, khắp nơi đều là hố sâu, thậm chí một cây liễu to bằng một người ôm cũng bị đào bật gốc thành một hố to. Đến cả tường đất dày của chính đường cũng bị khoét ra, có chỗ chỉ khoét sâu một thước, có những nơi lại bị đào thủng luôn. Bậc thềm gạch xanh lên chính đường cũng bị đào ra, nhà cửa xung quanh cũng vậy, thậm chí một số cột trụ cũng bị dỡ xuống.

Điều thật sự kỳ lạ là dưới đất và trên tường dùng phẩm màu với hai màu đen đỏ vẽ thành hàng trăm tấm phù chú và hàng nghìn đường nét. Những tấm phù này hình thành một kết cấu ba chiều, giữa những tấm phù có đường nét nối với nhau.

Nhiều năm bị cát bụi che phủ và dãi dầm mưa nắng khiến một số hình vẽ nay đã mờ nhạt đi, lại càng lộ ra nét cũ kĩ bể dâu.

“Sư phụ, những hình vẽ này rốt cuộc là gì?” Lý Thiền hỏi.

“Đây là…” Huyền Trang nghiêm nghị nói. “Pháp trận! Một pháp trận đạo thuật cỡ lớn!”

“Pháp trận?” Lý Thiền khiếp sợ.

“Còn không phải pháp trận bình thường, là pháp trận kết hợp vu thuật và đạo thuật.” Huyền Trang chỉ tường xung quanh sân. “Phía đông vẽ ba hình quỷ sát sinh, tạo thành bộ cương phù, sau đó theo thứ tự là hỗn nguyên phù, lục đinh lục giáp phù, đồ hộ phù, triệu Hồn phù, ba mươi sáu Thiên Cương phù và mười hai thiên thần phù.”

Huyền Trang cẩn thận đi vòng qua hố xem xét. “Ngươi xem dưới đất, từ cổng giữa đến tòa chính đường này được làm thành lục giáp đàn, hai bên cổng giữa có hai đống đá là Thần Đồ và Úc Lũy. Còn bản thân tòa chính đường này được tạo thành thần vị tam sơn cửu hầu, bên trái là tiên vị, bên phải là quỷ vị. Hai bên sân đều có sáu hố khá rộng, bên trái là thần vị lục đinh, bên phải là thần vị lục giáp.”

Huyền Trang dường như gặp phải vấn đề gì đó rất khó khăn, trầm ngâm không nói một hồi lâu. Lý Thiền kinh sợ trong lòng, đi về phía một bức tường, định xem xét kỹ càng một phen.

“Đừng động!” Huyền Trang đột nhiên hô to.

Dưới chân Lý Thiền bỗng rắc một tiếng, mặt đất chợt nứt toác ra. Hắn kêu một tiếng sợ hãi, người rơi thẳng xuống dưới. Trong lúc luống cuống, hai tay hắn tóm chặt được một cây xà nhà rơi bên cạnh. Xà nhà nằm ngang trên mặt hố bẫy, Lý Thiền may mắn không bị rơi xuống dưới đáy hố. Lý Thiên vừa hét lên vừa nhìn xuống hố, chỉ thấy dưới đáy hố là những mũi chông sắt nhọn hoắt dài khoảng hơn một thước, giữa những mũi chông sắt còn có mấy con rắn hoa văn sặc sỡ đang vặn vẹo.

Lý Thiền kêu to bò lên trên, lại nghe thấy ầm một tiếng, một bóng đen to lớn bất chợt lao xuống từ trên mái cổng giữa, không ngờ lại là một tấm sắt vuông to nặng quét ngang qua mặt đất mà đến. Trên tấm thép ấy hàn chông nhọn và móc câu, chỉ cần bị quét trúng người là trên người sẽ lập tức có thêm tầm bảy, tám cái lỗ.

Lý Thiền sợ đến mức hồn phi phách tán. “Sư phụ cứu ta!”

Huyền Trang đứng trên tấm phù dưới đất im lặng bấm đốt ngón tay tính toán, người hết xoay bên trái lại xoay bên phải, đột nhiên bước lên một tấm phù rồi nhanh chóng lùi về phía sau. Ầm một tiếng, một cây gỗ tròn to lớn từ trong dãy nhà bên cạnh phá cửa sổ mà ra rồi lao thẳng tới, vừa kịp chặn lại tấm thép giữa không trung. Tiếng va chạm vang lên, hai cạm bẫy hung hiểm đồng thời rơi xuống đất.

Huyền Trang thở phào một hơi, Lý Thiền cũng sợ đến mức không dám nhúc nhích. Huyền Trang tiếp tục bấm đốt ngón tay tính toán, chân bước trên phù, đi theo những đường nét phức tạp, chuyển hướng mấy lần mới đi đến bên hố bẫy, nắm cánh tay Lý Thiền kéo hắn lên.

Lý Thường đặt mông ngồi xuống đất, cả người đều mềm nhũn. “Ôi sợ đến chết mất!”

Huyền Trang vẻ mặt áy náy. “Xin lỗi Thế tử, bần tăng cũng vừa mới nhìn ra, đây là một pháp trận ba tầng, ngoài đạo thuật và vu cô thuật còn có cơ quan thuật, dựa theo tám cửa để đặt bẫy; tên nỏ, bẫy thú và lưới thừng, ba tầng pháp trận này đều liên quan mật thiết đến nhau, không có cửa sinh, gần như tất cả đều là cửa tử.”

Lý Thiền trố mắt nhìn Huyền Trang một lúc lâu. “Sư phụ, chỉ có một lát vừa rồi thôi mà ngài đã nhìn ra có ba tầng pháp trận, không những thể còn phá giải được nó luôn?”

Huyền Trang cau mày. “Chưa nói tới phá giải, chủ yếu là pháp trận này được bày đã lâu, dầm mưa dãi nắng, rất nhiều cơ quan bên trong đều đã mất hiệu lực. Mời Thế tử xem…” Huyền Trang chỉ về phía trên chính đường và cổng giữa, ở đấy đặt mấy thứ tròn tròn, loang lổ nhìn không rõ. “Đó là gương đồng, ban ngày thu ánh nắng, ban đêm thu ánh trăng sao, rất dễ đưa người ta vào trong ảo cảnh, chỉ có điều sớm đã han gỉ rồi nên mới không phát huy uy lực. Còn những phù lục vu đạo và nét vòng này có lẽ đều trộn các loại thuốc và chu sa bí chế, nhưng vì đã nhiều năm nên sớm mất đi hiệu dụng. Người xem, trên cây liễu bên cạnh có phải có một tổ trùng hay không?”

Lý Thiền nhìn kỹ, quả nhiên thấy trong khối u trên thân cây liễu có những lỗ thủng chi chít, chỉ có điều bây giờ đã phủ đầy mạng nhện.

“Đó là cổ trùng, những năm nay nắng thiêu chim mổ, cộng thêm nhện săn mồi nên đều đã chết,” Huyền Trang nói tiếp. “Người bày ra pháp trận này quả thực lợi hại. Nếu là lúc ba tầng pháp trận này vừa mới được bố trí, chỉ sợ ta và ngươi vừa bước vào trong liền đã bị cổ trùng chui vào tai mắt mũi miệng, cuối cùng đều chết ở trong trận rồi.”

“Sư phụ là cao tăng, không ngờ lại tinh thông đạo pháp và vu thuật như thế!” Lý Thiền hết sức khâm phục.

Huyền Trang lại lắc đầu. “Mấy thứ này bần tăng không hề biết, chỉ là đại đạo Thích Ca truyền tới bây giờ, bị một số kẻ thuộc bàng môn tả đạo trà trộn vào làm dân chúng kinh sợ để thu tiền tài, bần tăng muốn theo đuổi đại đạo nên không thể không truy cứu ngọn nguồn của nó để loại bỏ những thứ pha tạp.”

“Sư phụ!” Lý Thiền nghĩ lại vẫn còn thấy sợ. “Ai đào bao nhiêu hố rồi bố trí pháp trận trong nhà Lữ Thịnh? Đây rốt cuộc là muốn đối phó ai?”

Trong lòng nặng nề, Huyền Trang im lặng lắc đầu. “Đào hầm và bố trí pháp trận không phải cùng một đám người.”

Lý Thiền kinh ngạc. “Những cái hố này rõ ràng là một bộ phận của pháp trận mà.”

“Hố được đào trước, sau đó mới bố trí pháp trận.” Huyền Trang chỉ vào đường nét dưới đất. “Ngươi xem, những đường nét này có những đường đến bên hố sâu liền vòng qua, có chỗ thật sự không vòng tránh được thì lắp đặt tấm lật liên hoàn trên hố. Điều này nói rõ có người đến đào hố trước, sau đó mới có người khác đến bố trí pháp trận. Còn những cạm bẫy đó chỉ là tiện tay lợi dụng những hố này cho phù hợp mà thôi.”

Lý Thiền quan sát cẩn thận, quả nhiên là thể. “Sư phụ tuệ nhãn như đuốc.”

“Thế tử, chúng ta đi vào trong nhà xem xem,” Huyền Trang nói.

“Vào trong nhà?” Lý Thiền giật mình. “Vậy chẳng phải là càng nguy hiểm hơn sao?”

“Tất nhiên là nguy hiểm hơn.” Huyền Trang dặn dò. “Chỉ cần ngươi không đi lung tung, theo sát bước chân của bần tăng thì sẽ không sao. Nếu sợ nguy hiểm ngươi cũng có thể ở lại ngoài sân, nhớ kỹ không được đi lung tung là được.”

Huyền Trang nói xong kéo tăng bào lên, một tay bắt quyết tính toán, hai mắt nhìn những đường nét và phù chú dưới đất, vừa hết sức thận trọng thay đổi bước chân vừa đi ngoắt ngoéo về phía trước. Lý Thiền cắn răng, cũng bắt chước đi theo Huyền Trang, một tay kéo vạt áo bào lên một tay bắt quyết, chỉ có điều hắn cũng không biết chính mình đang bắt quyết làm gì.

Hai người tiến dần từng bước, đi vào trong chính đường.

Trong chính đường còn bừa bộn hơn, gần như tất cả đồ đạc bày biện đều bị đập phá, dưới nền cũng đào hố khắp nơi, pháp trận vu đạo cũng hung hiểm hơn. Lúc này đang là buổi chiều, ánh nắng chiếu vào qua song cửa tàn tạ, ngay cả Lý Thiền cũng nhìn thấy mấy sợi tơ nhỏ bằng dây thép đang treo lơ lửng. Hình vẽ phù chú trên tường, dưới đất và trên nóc nhà cũng khoa trương hơn, các loại phù chú mặt quỷ và ma quái làm cho người ta khiếp vía, màu sắc là màu đỏ nâu, cũng không biết được vẽ bằng loại phẩm màu nào.

“Đây là máu.” Huyền Trang cẩn thận ngồi xuống, cạo một chút nhìn kĩ, vẻ mặt nghiêm nghị.

“Máu…” Toàn thân Lỹ Thiền run lên, đột nhiên chỉ vào một bức tường. “Sư phụ, trên kia có chữ.”

Huyền Trang đứng dậy, quả nhiên nhìn thấy trên một bức tường nguyên vẹn của chính đường có viết vài hàng chữ. Đứng ở cửa không thấy rõ, Huyền Trang cẩn thận bước qua mấy phù chú, lách qua mấy sợi tơ, tránh các loại cạm bẫy để đi tới giữa chính đường, thấy trên tường viết mấy dòng chữ bằng lối viết Thảo.

“Chạm không thấy, sờ không được, miệng không thể nói, bút không thể viết. Đó chính là Đạo.”

Huyền Trang ngơ ngác nhìn. Ngài vươn tay ra chạm vào vết mực, dường như người bạn thân năm ấy đã sớm biết trước là ngài sẽ tới, nói với ngài rằng hắn chưa hề quên lời thề ước năm xưa. Thời gian như quay trở lại sáu năm về trước, người tăng nhân trẻ tuổi bước qua nơi thiền lâm cổ tự, đẩy ra cánh cửa điện, nhìn thấy người đàn ông áo trắng phong hoa tuyệt đại ấy đang mỉm cười với ngài. “Đến rồi à?”

Đột nhiên Huyền Trang rơi nước mắt, ngài nghẹn ngào nức nở. Lý Thiền không rõ nguyên do nhưng lại có thể cảm nhận được sự thương cảm và đau khổ trong lòng Huyền Trang, thế nên hắn yên lặng.

Huyền Trang lau nước mắt, im lặng đi qua chính đường tới khu nhà ở hậu viện. Nơi này cũng bị đập phá rách nát tả tơi, gần như tất cả đồ dùng trong nhà đều đã bị dỡ xuống. Sương phòng bên trái dường như là thư phòng của Lữ Thịnh, dưới đất chất đống các loại sách bừa bộn, phần lớn là sách sử, giờ đã không còn hoàn chỉnh, thậm chí một số quyển đã mục nát, trên giấy toàn là vết chân giẫm qua.

Huyền Trang nhặt lên lật xem, chủ yếu là sách sử như “Tả truyện,”

“Trúc thư kỷ niên,”

“Hán thư,”

“Đông Hán thư”; ngoài ra còn có các sách văn học như “Thể thuyết tấn ngữ,”

“Dữu Lượng văn tập”; sách dòng họ như “Thiên gia tính thiên,”

“Tính soạn,”

“Tính thị thư biện chứng”…

Huyền Trang lật xem mấy quyển, cau mày suy tư, lại thấy trên tường thư phòng cũng viết vài chữ, rất lộn xộn, xem kĩ thi là sáu chữ riêng biệt không rõ ý nghĩa. “Long, Tiến, Hưng, Hoàng, Nghĩa, Thang”.

“Sư phụ, mấy chữ này có ý nghĩa gì? Vì sao lại viết trên tường?” Lý Thiền hỏi.

Huyền Trang lắc lắc đầu. “Nhất thời ta cũng không rõ. Có điều nhìn vị trí của mấy chữ ấy thì đều ở trên tường bên phải án thư, dường như là tiện tay viết lên. Thế tử, ngươi xem những thư tịch này xong có phát hiện ra vấn đề gì không?”

Lý Thiền không hiểu. “Chỉ là sách bình thường thôi mà!”

“Ngươi không cảm thấy thể loại quá đơn nhất sao?” Huyền Trang nói. “Lữ Thịnh học thông Đạo Nho, tinh thông y thuật, nhạc lý và thi phú, vì sao trong thư phòng hắn lại không có kinh điển Nho gia, cũng không có Đạo tạng Đạo gia và y nhạc thi tập, mà tất cả đều là sách sử và sách dòng họ?”

“Sư phụ nghĩ thế nào?” Lý Thiền hỏi.

“Bần tăng cho rằng hắn muốn đọc loại sách này,” Huyền Trang đáp.

Lý Thiền cứng họng. “Sư phụ, ngài nói quá đúng rồi!”

“Thế tử, có thể làm phiền ngươi đi nha môn báo tin, gọi một số người đến chuyển số sách này đi được không? Bần tăng muốn đọc cho kĩ,” Huyền Trang nói.

“Không vấn đề gì.” Lý Thiền rất sảng khoái đáp ứng.

Đúng lúc này, ngoài cổng đột nhiên vang lên một tiếng Phật hiệu. “A Di Đà Phật! Ngài không thấy sinh ra chết đi, như kiến tuần hoàn, vì ăn vì mặc, như tằm dệt kén. Dù là kẻ sĩ vô song áo ngọc đai vàng đó cũng không thể tránh được kết cục trở thành một nắm tro tàn.”

Huyền Trang và Lý Thiền vội vàng rời khỏi khu nhà, sau khi đi vào chính đường, nhìn qua cổng giữa mở rộng liền thấy một lão tăng đứng bên ngoài lầu cổng đã sụp đổ. Lão tăng đó đã rất già nua, mày râu bạc trắng, mặc áo cà sa rất trang trọng, tơ vàng trên áo tỏa sáng rực rỡ dưới ánh mặt trời, giống như một pho tượng La hán bằng vàng đang đứng trên đống đổ nát.

Hai tăng nhân một già một trẻ đứng xa xa đối mặt với nhau. Huyền Trang chắp tay cúi chào. “Xin hỏi húy danh của pháp sư.”

“Lão tăng là tự chủ chùa Đại Thừa, tục gia họ Địch, pháp danh Pháp Nhượng.” Lão tăng đó cười. “Lúc thiếu niên từng du ngoạn kinh thành, trở thành đồng môn với Đạo Nhạc rồi cùng nhau cầu đạo; nay nghe nói đệ tử của ông ấy đến Đôn Hoàng, cố ý thay áo mới, tới đây để nghênh đón pháp sư.”

Thứ sử Tây Sa Châu Vương Quân Khả đón Lý Diễm vào Đôn Hoàng, bố trí nơi nghỉ ngơi tại chùa Trường Lạc ở phía nam thành. Ngôi chùa này là chùa lớn ở Đôn Hoàng, cùng với chùa Đại Thừa ở phía bắc thành và chùa Thánh Giáo ở hang Mạc Cao được gọi là “tam đại tự Đôn Hoàng”.

Viện Bồ Đề ở chùa Trường Lạc là nơi Lý Diễm đã từng ở khi đi tuần tra, cảnh trí thanh tịnh, cây bách cổ thụ một người ôm che mát một nửa khuôn viên, cực kì mát mẻ; trong khuôn viên còn có một con kênh, cỏ nước lục bình, nước chảy róc rách. Lý Diễm đứng ở dưới bóng cây bên kênh, đầy bụng lo âu, nhẹ nhàng dạo bước.

Binh tào tham quân Vương Lợi Thiệp của phủ Đô đốc bước nhanh đi vào. “Đại vương!”

“Tìm được tung tích của Thiền Nhi chưa?” Lý Diễm hỏi.

“Thế tử và pháp sư Huyền Trang nhận lời mời của Địch Pháp Nhượng đến chùa Đại Thừa,” Vương Lợi Thiệp nói. “Hạ thần ở bên đường tận mắt nhìn thấy, nhưng không chuyển lời cho Thế tử để Thế tử về.”

“Vì sao?” Lý Diễm kinh ngạc hỏi.

Vương Lợi Thiệp thấp giọng. “Thế tử qua lại với pháp sư Huyền Trang nhiều hơn cũng tốt, một khi triều đình có biến cũng có thể cùng Huyền Trang trốn đến Tây Vực!”

“To gan!” Lý Diễm vừa kinh hãi vừa giận dữ, nghiêm nghị trách cứ.

Vương Lợi Thiệp lại không sợ, hạ thấp giọng nói, “Hạ thần vốn là tiện nô, từ ông nội đến cha ba đời đều là bộ khúc của Lý gia. Đại vương không chê hạ thần hèn mọn, cho hạ thần lập được một chút công lao trong quân, chẳng những được phóng miễn làm lương nhân mà còn trở thành quan lại triều đình, ơn này dù có tan xương nát thịt cũng khó lòng báo đáp được. Hạ thần bày mưu tính kế cho Đại vương chỉ vì an nguy tồn vong của Đại vương, không dám tiếc thân mình.”

“Ngươi…” Lý Diễm tính tình hiền lành, cai quản không hề nghiêm khắc, nghe thấy lời nói bạo dạn như vậy cũng chỉ thở ra một hơi rất dài.

Từ Tây Ngụy đến Tùy Đường, gia tộc của Vương Lợi Thiệp chính là bộ khúc của Lý thị Lũng Tây. Ông nội Lý Diễm là Lý úy và ông nội của Lý Thế Dân là Lý Bính đều là con của Lý Hổ, Đại trụ quốc Tây Ngụy. Sau khi lớn lên, Lý úy và Lý Bính ở riêng, gia tộc của Vương Lợi Thiệp liền bắt đầu hầu hạ nhánh Lý úy. Cái gọi là bộ khúc chính là gia nô đã được phóng thích nhưng vẫn phụ thuộc vào gia chủ, đều là tài sản của gia chủ, địa vị chỉ cao hơn nô tì một chút thôi.

Vương Lợi Thiệp từ nhỏ đã đi theo bên cạnh Lý Diễm, là người lanh lợi, hết sức thông minh. Lý Diễm liền tạo cơ hội cho hắn giành một số công lao trên chiến trường, phóng miễn làm lương nhân, cũng mở đường cho hắn làm quan, lên tới Binh tào tham quân phủ Đô đốc, chính bát phẩm hạ.

Lý Diễm thở dài một hơi. “Lợi Thiệp, cục diện không hề hiểm ác đến mức độ ấy! Vương Quân Khả chỉ dọa người mà thôi, ý đồ nhằm vào ta của Bệ hạ không hề rõ ràng.”

“Lời này của Đại vương sai rồi,” Vương Lợi Thiệp nói. “Cái gì là triều đình? Triều đình chính là quan chức, tất cả hướng đi của triều đình đều có thể nghiền ngẫm ra từ sự phân công quan chức. Bệ hạ cho ngài chức Đô đốc Qua Châu để ngài đôn đốc quân sự ba châu nhưng lại không cho ngài kiêm chức Thứ sử Qua Châu, mặc dù ngài có binh quyền, điều động quân tốt lại phải thông qua Thứ sử ba châu mới có thể chấp hành. Bệ hạ sớm đã có lòng phòng bị ngài rồi!”

Lý Diễm sửng sốt, giật mình chỉ hắn. “Ngươi… Năm đó lúc ta mới tới Qua Châu, ngươi lấy cớ không có người hầu hạ, khuyên ta triệu Thiền Nhi tới đây, chẳng lẽ lại là…”

Lý Diễm tay chân đều run, không dám tiếp tục nghĩ nữa.

“Không sai,” Vương Lợi Thiệp thản nhiên nói. “Vạn nhất Bệ hạ phái một tên tiểu lại cầm thánh chỉ đến đây bắt ngài vào kinh, Thế tử còn có thể chạy ra Tây Vực, giữ lại hương khói tế tự cho dòng của Thái Liệt Vương.”

Lý Diễm ngây ra như phỗng.

“Đây chính là ba hang hạ thần bắt chước Phùng Huyên đào cho ngài. Ba năm nay ngài cố gắng lung lạc Độc Cô Đạt, sau khi thu được hắn làm tâm phúc, tình thế đã tốt hơn rất nhiều rồi, ít nhất thì chỉ là một chiếu thư của Bệ hạ thôi cũng không động được đến ngài nữa,” Vương Lợi Thiệp nói.

“Thì đã làm sao?” Lý Diễm không nén được giận. “Nếu Bệ hạ thật sự muốn bắt ta, chẳng lẽ ta thân là con cháu của Cảnh Hoàng đế Thái tổ Lý thị còn có thể kháng mệnh tạo phản hay sao?”

“Đương nhiên không thể tạo phản.” Vương Lợi Thiệp mỉm cười. “Nhưng khi trong tay ngài thật sự có binh quyền, khống chế được ba châu Qua, Sa, Túc liền có vốn liếng để cò kè mặc cả với Bệ hạ. Sau này Bệ hạ có muốn động tới ngài, coi như ngài tự tước binh quyền, vào kinh thành thỉnh tội, Bệ hạ cùng lắm cũng chỉ thu lại vương tước của ngài mà không ban cho một dải lụa trắng chết ở trong ngục giống như Trường Lạc Vương Lý Ấu Lương.”

“Vì sao lại thế?” Lý Diễm không hiểu.

Vương Lợi Thiệp nói, “Bởi vì ngài dùng việc tự bỏ quyền hành làm cho văn võ cả triều nhìn thấy ngài không hề có lòng khác! Bệ hạ háo danh, rất muốn trở thành hoàng thánh quân trong sử sách thiên thu, tuyệt đối sẽ không để cho chính mình có chút tì vết nào.”

Lý Diễm thở dài một tiếng, vẻ mặt mệt mỏi, lại không thể không thừa nhận kế sách của Vương Lợi Thiệp chu toàn. “Lợi Thiệp, vậy cục diện bây giờ nên phá giải thế nào?”

“Thông hôn!” Vương Lợi Thiệp nói từng chữ một.

“Thông hôn?” Lý Diễm kinh ngạc hỏi. “Thông hôn với ai?”

Vương Lợi Thiệp nói ngắn gọn. “Nghe nói Vương Quân Khả có một nữ nhi, xếp thứ mười hai, khuê danh Ngư Tảo. Dám mời Đại vương cầu hôn cho Thế tử, nghênh làm Thế tử phi.”

Lúc này Huyền Trang và Lý Thiền đã được Địch Pháp Nhượng đón vào chùa Đại Thừa.

Chùa Đại Thừa quy mô rộng lớn, còn gánh vác chức trách hương khói cho các đời đế hậu được triều đình truy phong, xem như quan tự của triều đình ở Tây Sa Châu. Trên thực tế, bản thân Địch Pháp Nhượng chính là danh tăng Hà Tây, thời Tiền Tùy từng làm tăng thông của quận Đôn Hoàng, quản lý toàn bộ tăng đoàn trong quận.

Địch Pháp Nhượng vướng bận nhiều tục sự, chỉ trên đường cùng đi với Huyền Trang và Lý Thiền đến thiền phòng thôi mà đã có vô số tăng nhân đến xin chỉ thị về các sự vụ trong chùa: Việc phê duyệt tiền tài vật tư hao phí để sao chép kinh thư, việc một số gia tộc lớn phải tổ chức pháp sự, việc thu hoạch cất giữ đồng ruộng và vườn trái cây thuộc sở hữu của chùa, việc tu sửa kho thóc, phê duyệt sổ sách thu chi trong tháng của nhà xay bột, phường rượu, xưởng ép dầu, việc quản lý hàng vạn súc vật bò dê, việc phê duyệt sổ sách nhà chùa cho bách tính vay tiền, việc hôn tang cưới gả của các hộ phụ thuộc của chùa, cung cấp lao dịch cho chùa.

Địch Pháp Nhượng và Huyền Trang không dừng bước chân, những tăng nhân đó qua lại như con thoi bên cạnh ông ta, lần lượt bẩm báo; Địch Pháp Nhượng thuận miệng đưa ra chỉ thị, các tăng nhân lại chạy đi như bay.

Huyền Trang xuất gia từ nhỏ nhưng chưa từng tiếp xúc với các sự vụ kinh tế và sản nghiệp trong chùa, lập tức như lạc vào trong mây mù, nghe mà đầu óc cứ quay cuồng.

“Sư huynh!” Một tăng nhân trung niên vội vã đi tới, trong tay còn cầm một quyển sổ sách.

“Pháp Định.” Địch Pháp Nhượng vội vàng kéo hắn qua một bên, nói nhỏ. “Trù bị thế nào rồi?”

Thì ra tăng nhân này chính là trực tuế tăng của chùa Đại Thừa, Pháp Định.

Chùa ở Đôn Hoàng có rất nhiều tăng chúng và tài sản, vì vậy phân công rõ ràng, ba người quản lý sự vụ cao nhất của chùa gọi là tam cương, gồm tự chủ, thượng tọa và đô duy na. Tự chủ quản lý công việc vặt trong chùa, thượng tọa chủ yếu thống lĩnh chúng tăng tu hành, kiêm quản sự vụ của chùa, đô duy na thì quản lý việc vụn vặt của tăng chúng. Dưới tam cương còn có điển tọa quản lý sự vụ ăn uống, tự khanh quản lý sự vụ tục gia, còn vị Pháp Định này chính là trực tuế tăng quản lý tài sản của chùa.

“Sư huynh, đều đã ghi vào trong sổ sách.” Pháp Định đưa sổ sách cho ông ta, lại bị Địch Pháp Nhượng đẩy về.

“Có khách quý ở đây, không có thời gian xem, nói thẳng cho ta nghe là được,” Địch Pháp Nhượng nói.

“Vâng.” Pháp Định vội vàng mở sổ sách ra. “Mấy ngày nay giá hàng do bên Thị ty định ra thấp hơn tháng trước một chút. Cừu được định giá mức thượng mỗi con năm trăm sáu mươi văn tiền, mức trung năm trăm bốn mươi văn tiền, mức hạ năm trăm hai mươi văn tiền. Vừa thu hoạch vụ thu xong, giá lương thực cũng giảm, mỗi thăng lúa mì định giá mức trung ba mươi hai văn. Đậu uyển mỗi thăng định giá mức trung hai mươi sáu văn. Lụa trắng vẫn ổn định như thường, mỗi cuộn định giá mức trung bốn trăm sáu mươi lăm văn.”

Những việc này Huyền Trang lại có thể nghe hiểu được, chợ phía đông hoặc chợ phía tây của các thành đều do châu huyện phái Thị ty quản lý, mỗi ngày Thị ty đều sẽ đưa ra mức định giá cho các loại hàng hóa trong chợ, dựa theo phẩm chất hàng hóa khác nhau mà chia thành ba mức giá thượng, trung và hạ. Hai bên mua bán có thể căn cứ vào chất lượng hàng hóa để mặc cả giao dịch, nhưng mức giá không được cao hơn mức định giá thượng, không được thấp hơn mức định giá hạ.

“Số lúa mì đó bán được bao nhiêu văn?” Sắc mặt Địch Pháp Nhượng trông hơi khó coi.

Pháp Định mở sổ sách ra, lần lượt bẩm báo.

“Gom hết số lúa mì lại được chín trăm hai mươi tư thạch bảy đấu bảy, tổng cộng bán được hai nghìn chín trăm năm mươi chín quan sáu mươi tư văn.

“Ba nghìn năm trăm bốn mươi hai con cừu, chúng ta cần tiền gấp, số lượng lại lớn, đành phải bán với mức giá thấp hơn mười văn so với mức định giá trung, được một nghìn tám trăm bảy mươi bảy quan hai trăm sáu mươi văn.

“Rượu là mỗi đấu bốn mươi văn, toàn bộ rượu dự trữ trong hai phường rượu của chùa đều đã bán ra, được ba nghìn bốn trăm ba mươi lăm quan một trăm hai mươi văn.

“Năm nay các thí chủ bố thí ba trăm lẻ ba cuộn lụa tím, bán với giá sáu mươi văn một thước cho hiệu vải Thạch Ký, được một nghìn tám trăm mười tám quan.

“Những loại hàng hóa khác bán ra đều mấy quan, mười mấy quan. Tất cả cộng lại tổng số có một vạn một nghìn bảy trăm chín mươi hai quan. Cộng thêm tiền đã có trong chùa, số tiền chúng ta có thể bỏ ra là một vạn sáu nghìn tám trăm quan.”

Huyền Trang hít một hơi kinh hãi, thì ra Pháp Định đã bán một phần hàng hóa trong chùa, chỉ trong mấy ngày không ngờ lại được hơn một vạn quan.

“Sư phụ.” Lý Thiền thấp giọng. “Chùa Đại Thừa này rất có tiền, thu nhập tài chính của triều đình có thể chia thành ba bộ phận gồm tiền, lương thực và vải vóc. Theo a gia nói, năm ngoái tiền mặt của triều đình trong sổ sách chỉ có hơn một triệu hai mươi vạn quan, mà chùa Đại Thừa trong mấy ngày đã gom góp được hơn một vạn sáu nghìn quan! Thật có thể nói là giàu nứt đố đổ vách!”

Huyền Trang nói lạnh nhạt. “Chuyện riêng trong chùa nhà người ta, chúng ta không cần lắm lời.”

Lý Thiền gật đầu tỏ ý đã biết. Thực ra Huyền Trang không nói thì hắn cũng hiểu, chùa Đại Thừa gom góp tiền tài chắc chắn là phải làm chuyện đại sự, người ngoài đương nhiên không tiện hỏi thăm.

Lúc này Địch Pháp Nhượng còn rất phiền muộn. “Quá ít, một vạn sáu nghìn quan sợ là còn xa mới đủ! Pháp Định, đều đổi thành Khai Nguyên thông bảo rồi chứ?”

Pháp Định cười khổ. “Lũng Hữu chúng ta đâu có nhiều Khai Nguyên thông bảo như vậy, một bộ phận được quy thành lụa trắng, một bộ phận đổi thành đồng bạc Ba Tư và đồng vàng Bái Chiêm Đình; chở đầy sáu chiếc xe ngựa, bây giờ đang cất trong kho của chùa, đã bố trí cho tăng chúng trông coi chặt chẽ.”

“Thôi, chúng ta làm hết khả năng là được,” Địch Pháp Nhượng nói. “Ta phải tiếp đãi khách quý, những sự vụ khác để thượng tọa giải quyết đi.”

Pháp Định gật đầu, chắp tay với Huyền Trang rồi vội vã rời đi.

Địch Pháp Nhượng cười gượng. “Để pháp sư chê cười. Thân là tự chủ, mỗi ngày đều phải lo liệu những tục sự này, đại đạo tu hành đằng đẵng, không biết năm nào tháng nào mới có thể viên mãn.”

Huyền Trang không hề hỏi nhiều, lắc đầu cười nói, “Bần tăng hôm nay mới biết, ta có thể yên tâm tu hành là nhờ phía sau có biết bao nhiêu pháp sư đồng môn phải gác lại việc tu hành để giải quyết những tục sự hỗn loạn này, bần tăng cảm thấy biết ơn sâu sắc.”

Địch Pháp Nhượng rất đồng cảm, ba người vừa trò chuyện vừa đi tới thiền đường của ông ta. Một ông lão mặc y phục trắng mộc mạc đang đứng ở dưới bậc thềm trước thiền đường của Địch Pháp Nhượng, dường như nhìn hơi quen mặt, Huyền Trang cũng không xác định được là đã gặp ở đâu.

Nhìn thấy ba người đang đi tới, ông lão vội vàng bước ra nghênh đón, thi lễ với Huyền Trang. “Cuối cùng cũng đợi được pháp sư rồi!”

Huyền Trang kinh ngạc. “Xin hỏi…”

Địch Pháp Nhượng cười nói, “Để lão tăng giới thiệu một chút, vị này chính là gia chủ hiện nay của Địch thị ở Đôn Hoàng, Địch Xương, tự Hoằng Nghiệp. Địch thị ta luôn luôn tôn thờ tam bảo, nghe nói pháp sư đến Đôn Hoàng, sáng sớm Hoằng Nghiệp đã đến chỗ lão tăng rồi chờ ở đây, muốn phụng dưỡng pháp sư.”

Huyền Trang giật mình, trong mắt Phật môn Lũng Hữu, thanh danh của Địch thị ở Đôn Hoàng còn vang dội hơn cả Lý thị và Trương thị từng sinh ra đế vương, bởi vì Địch thị ở Đôn Hoàng là gia tộc sùng Phật nhất trong số các sĩ tộc vùng Lũng Hữu. Từ thời Tây Tấn khi Phật giáo mới được truyền đến Đôn Hoàng, Địch thị đã bố thí tam bảo, xây dựng chùa chiền Phật quật, viết kinh tạc tượng, dựng tháp phụng trai. Mỗi một đời Địch thị đều có rất nhiều tộc nhân bỏ tục xuất gia, trong mấy trăm năm, tăng nhân Địch thị đã trải rộng khắp mười tám chùa ở Đôn Hoàng, thậm chí là trong các chùa thuộc vùng Lũng Hữu, đảm nhiệm các vị trí tăng quan như tăng chính, duyệt chúng, tăng lục, sa môn thống, trợ giúp triều đình quản lý chùa chiền và tăng đoàn.

Trong tám sĩ tộc lớn ở Đôn Hoàng, Địch thị công huân cao quý thua kém Lý thị, tổ tiên hiển hách thua kém Trương thị, văn hóa hưng thịnh không bằng được Tống thị và Sách thị, con em làm quan lại không bằng được Lệnh Hồ thị, nhưng trong giới tôn giáo thì tuyệt đối là một gia tộc khiến cả Lũng Hữu, thậm chí là triều đình đều không thể xem nhẹ. Lúc Pháp Nhượng tự giới thiệu với Huyền Trang đã cố ý nhắc đến dòng họ tục gia của mình, không phải là không có nguyên nhân.

Huyền Trang chào hỏi Địch Xương, đang định giới thiệu Lý Thiền thì Lý Thiền đã vội vàng lên tiếng. “Tại hạ Lý Sâm, là sĩ tử đi theo pháp sư đến Đôn Hoàng bái Phật.”

Địch Pháp Nhượng và Địch Xương nhìn nhau một cái, chỉ cười cho qua.

Mọi người ngồi xuống trong thiền đường của Địch Pháp Nhượng, Huyền Trang liền lập tức hỏi. “Thiền sư Pháp Nhượng, xin hỏi ngài làm sao biết bần tăng đến nhà cũ của Lữ thị ở phường Thành Hóa?”

“Là Hoằng Nghiệp nói với bần tăng.” Địch Pháp Nhượng không hề che giấu.

Địch Xương nói thản nhiên. “Kì thực tại hạ cùng với pháp sư đã gặp mặt ở trạm dịch châu thành, vốn lúc ấy đã định mời pháp sư, có điều phải nghênh đón Lâm Giang Quận vương trước, không ngờ sau đó pháp sư lại vội vã rời đi.”

Huyền Trang hiểu ra, thảo nào nhìn Địch Xương này hơi quen quen.

“Căn nhà cũ kia của Lữ thị có chút không sạch sẽ,” Địch Xương cười nói. “Tại hạ nghe nói pháp sư hỏi thăm Lữ Thịnh, đến phường Thành Hóa, thấy hơi lo lắng nên liền vội vàng đến mời thúc phụ đứng ra.”

Huyền Trang nhìn ông ta một cái đầy thâm ý, không hề hỏi ông ta vì sao biết mình hỏi thăm Lữ Thịnh, có một số việc cứ lập lờ một chút sẽ tốt hơn.

“Kì thực ngươi lo lắng cũng thừa.” Địch Pháp Nhượng mỉm cười. “Lúc lão tăng đến Lữ trạch, pháp sư đã đăng đường nhập thất, xông qua hai sân vào đến chính đường rồi. Những thứ không sạch sẽ đó đối với pháp sư mà nói thì không khác gì là múa rìu qua mắt thợ.”

Địch Xương hết sức kinh ngạc. “Không ngờ pháp sư lại có bản lĩnh bậc này!”

“Đây đều là tiểu thuật mà thôi.” Huyền Trang lắc đầu. “Địch gia chủ, bần tăng muốn thỉnh giáo một chút, rốt cuộc Lữ Thịnh đã xảy ra chuyện gì? Tại sao trong nhà hắn lại bố trí loại pháp trận cơ quan đáng sợ ấy?”

Địch Xương nhẹ nhàng thở ra một hơi. “Đã mời pháp sư đến, tự nhiên sẽ nói rõ nguyên do. Chỉ có điều… không biết pháp sư và Lữ Thịnh kia là quan hệ gì?”

“Lữ Thịnh được xưng Trường An vô song sĩ, Vũ Đức đệ nhất nhân. Bần tăng tu đạo ở Trường An, tự nhiên là biết, có điều cũng chỉ từng gặp vài lần ít ỏi mà thôi.” Huyền Trang nói sơ qua. “Nghe nói hắn đã đến Đôn Hoàng làm quan, bần tăng đến Tây Sa Châu liền tới thăm hỏi.”

“Vũ Đức đệ nhất nhân?” Lý Thiền hơi ngạc nhiên. “Sư phụ, lời này hơi phạm vào điều kiêng kị.”

Huyền Trang xua tay. “Không ngại, lời này là Thái thượng hoàng chính miệng nói ra năm Vũ Đức thứ sáu. Năm đó Đại Đường lần đầu mở khoa cử, Lữ Thịnh một lần đoạt được song Trạng nguyên khoa Tú tài và khoa Tiến sĩ. Khi ấy là thời Vũ Đức, Thái thượng hoàng liền nói những lời này.”

Lý Thiền lập tức sửng sốt. Năm đó lúc Lữ Thịnh danh chấn Trường An, Lý Thiền còn đang ở quê nhà Thành Kỷ tại Lũng Tây; khi Đại Đường đã bình định thiên hạ, hắn chuyển đến Trường An thì Lữ Thịnh đã như sao băng bùng cháy, lóe lên rồi biến mất nơi thành Trường An. Vì vậy Lý Thiền mới chưa từng nghe về danh tiếng của hắn.

“Trường An vô song sĩ, Vũ Đức đệ nhất nhân.” Địch Xương lẩm bẩm nhắc lại, vẻ mặt lại có chút thương cảm. “Thì ra pháp sư vẫn chưa biết, Lữ Thịnh đó đã chết ngay từ năm Vũ Đức thứ chín rồi.”

“Chết rồi?” Cho dù Huyền Trang đã có chuẩn bị tâm lý cũng không nhịn được chấn động trong lòng, mặt biến sắc hỏi. “Sao lại có thể như vậy được? Năm Vũ Đức thứ tám hắn vừa mới được điều đến Đôn Hoàng, làm sao lại chết?”

Địch Xương và Địch Pháp Nhượng nhìn nhau một cái, đều thở dài một hơi.

Địch Xương trầm giọng nói, “Mưu phản!”

“Cái gì?” Huyền Trang kinh ngạc.

Lý Thiền bên cạnh cũng cứng họng. “Mưu… mưu phản? Khôi nguyên hai khoa của Đại Đường đi mưu phản? Mưu phản ở một châu nơi biên giới như Đôn Hoàng?”

Câu hỏi của Lý Thiền cũng chính là nghi vấn của Huyền Trang, ngài không nói gì, ánh mắt nhìn Địch Xương chằm chằm.

Sắc mặt Địch Xương trông hơi khó coi, thở dài một tiếng. “Tháng Ba năm Vũ Đức thứ tám, Lữ Thịnh được điều đến Tây Sa Châu làm Lục sự tham quân. Tháng Sáu năm Vũ Đức thứ chín, Dục Cốc Thiết của Đông Đột Quyết xuất binh từ Y Ngô, dọc theo đường Sáo Can xâm nhập phía nam, phá phòng tuyến Hàm Tuyền Thú, cách Đôn Hoàng ba trăm dặm. Sau khi nhận được khói lửa cấp báo, Thứ sử Tây Sa Châu khi ấy là Đỗ Dữ xuất binh, dùng Trấn tướng Tử Kim Hoàng Tục Chương làm tiên phong, Lữ Thịnh làm giám quân, dẫn năm trăm binh sĩ hành quân suốt đêm đến khe núi Thanh Đôn cách hai trăm dặm, đóng quân tại Thanh Đôn Thú.”

Địch Xương chậm rãi kể lại phong vân Đôn Hoàng cùng khói lửa đại mạc của ba năm trước, dường như trong thiền phòng này vẫn có thể ngửi thấy mùi khói lửa và mùi máu tanh, mọi người không ai nói lời nào.

“Đêm hôm đó rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì, không có ai tận mắt nhìn thấy, nhưng theo tàn binh trốn về nói thì Hoàng Trấn tướng lập phòng ngự ở Thanh Đôn Thú, muốn chặn đứng người Đột Quyết tại khe Thanh Đôn. Nhưng tối hôm ấy Lữ Thịnh lại một mình rời khỏi trạm dịch, sau đó đưa một đội buôn vào. Kết quả đội buôn kia lại là người Đột Quyết giả trang, nửa đêm đột nhiên nổi loạn cướp Thanh Đôn Thú. Sau đó đại quân Đột Quyết trong ngoài giáp công, quân Đường đại loạn, Hoàng Trấn tướng chết trận tại chỗ. Quân Đường còn sót lại giận dữ chém chết Lữ Thịnh trước trận rồi trốn vào trong đại mạc.”

Huyền Trang im lặng nghe, một hồi lâu mới hỏi. “Vì sao Lữ Thịnh phải tư thông Đột Quyết?”

“Không ai biết về nội tình cụ thể,” Địch Xương nói. “Lữ Thịnh chết trước trận, cũng không có cách nào để hỏi nữa. Lữ Thịnh xưa nay có tư thù với Thứ sử Đỗ Dữ, liền có người suy đoán hắn dự định mượn việc này đánh ngã Đỗ Dữ, nhưng cũng không có cách chứng thực. Sau khi Đỗ Dữ tới, mặc dù đã đánh lui Đột Quyết nhưng vẫn không thể che giấu được một trận binh bại. Khi đó Bệ hạ mặc dù còn chưa đổi niên hiệu nhưng đã lên ngôi, nghe nói Trạng nguyên Đại Đường cấu kết Đột Quyết, không chỉ đau triệt nội tâm mà còn cảm thấy vô cùng sỉ nhục, hạ chiếu quở trách Đỗ Dữ đồng thời miễn chức quan của ông ta. Quan lại lớn nhỏ ở Đôn Hoàng cũng ngầm hiểu, không còn nhắc đến người này và việc này nữa, hi vọng thời gian có thể che đậy được vụ bê bối đó.”

Huyền Trang đưa hai tay lên che mặt, không kìm được mà đau khổ trong lòng. Không ngờ người đàn ông tuyệt đại vô song năm đó từng cùng ngài hẹn nhau cả đời đi tìm kiếm đại đạo lại đã chết từ ba năm trước, hơn nữa còn chết theo cái cách nhục nhã không thể nào chịu đựng nổi như thế! Ngài đột nhiên nhớ đến Pháp Nhã và Thôi Giác, hai người họ đều là kinh tài tuyệt diễm hùng tâm bừng bừng, nhưng lại đi nhầm đường lạc lối rồi cuối cùng thân bại danh liệt. Vì sao từ xưa tới nay những người theo đuổi đại đạo đều thường không đi đến được điểm cuối mà gục ngã giữa đường? Còn những tăng nhân tiến về Thiên Trúc cầu Phật đó nhiều không đếm xuể, nhưng đến nay người đời lại chỉ biết có Pháp Hiển.

Vận mệnh của chính mình sẽ như thế nào?

Ba người kia không quấy nhiễu ngài, lặng lẽ chờ đợi. Huyền Trang điều chỉnh lại tâm tình, hỏi. “Những pháp trận trong nhà cũ của Lữ thị là ai bố trí?”

“Là mấy tên âm dương sư của Sách thị và Âm thị.” Địch Pháp Nhượng đáp. “Sau khi Lữ Thịnh thân bại danh liệt, bách tính Đôn Hoàng vô cùng phẫn hận, xông vào nhà hắn đánh đập và nhục mạ lão phụ của hắn. Lữ phụ không chịu nổi nhục nhã nên uất ức mà chết. Kết quả là trong số những người xông vào Lữ trạch kia có mấy người đột nhiên chết bất đắc kỳ tử, bởi vậy có lời đồn đại nói hồn ma của Lữ phụ gây chuyện. Từ trước đến nay Âm thị và Sách thị ở Đôn Hoàng luôn nổi tiếng về âm dương thuật số, liền có người mời mấy tên âm dương sư đến bày pháp trận. Từ đó trở đi không ai xông vào trong tòa nhà cũ đó nữa, cũng không còn xảy ra việc hồn ma gây chuyện.”

“Năm ấy lão phụ của Lữ Thịnh cũng ở Đôn Hoàng?” Huyền Trang kinh ngạc hỏi.

Địch Xương nói, “Hắn đi cùng lão phụ đến nhậm chức.”

Huyền Trang ngơ ngác nhìn không gian hư vô trước mắt, dường như ngài đã trở lại năm ấy, khi đang buồn ngủ thì bỗng nghe thấy tiếng Lữ Thịnh ngâm. “Thỏ chui qua lỗ chó, trĩ bay trên xà nhà. Xa xa nhìn nhà cũ, đầy mộ giữa rừng tùng”.

Đó là cảnh tượng sau loạn lạc của thời Tùy mạt, hắn cùng với lão phụ trở về nhà cũ ở Bác Châu, Sơn Đông nhìn thấy; còn nhiều năm sau, đây dường như trở thành một lời tiên tri, tái hiện lại cảnh tượng năm ấy tại Lữ trạch Đôn Hoàng.

Có điều cả nhà đều chết, không còn ai đến đây để tưởng niệm và khóc thương nữa.

Địch Xương và Địch Pháp Nhượng nhìn nhau một cái, đều ngầm hiểu mà chuyển hướng chủ đề.

Địch Pháp Nhượng nói, “Không nói những chuyện cũ năm xưa này nữa. Hoằng Nghiệp, không phải ngươi muốn phụng dưỡng pháp sư sao?”

“Đúng đúng đúng, suýt nữa thì quên mất cả chính sự.” Địch Xương cười. “Pháp sư, Địch thị