Chương 3 Chuyện xưa Thành Đôn Hoàng,-dạ yến hang Mạc Cao
Tháng Bảy ăn dưa, tháng Tám ăn bầu, tháng Chín đan áo.
Đầu tháng Tám ở Đôn Hoàng, đi lại dưới bóng cây đã cảm thấy hơi lành lạnh, có điều lúc nắng gắt hắt xuống đầu vẫn có thể khiến người đi ngoài nắng đầm đìa mồ hôi. Huyền Trang dẫn Lý Thiền vòng qua vòng lại giữa các cửa hàng ở chợ phía tây, đã tìm kiếm nửa canh giờ rồi.
Chợ phía tây nằm ở góc tây bắc của thành Đôn Hoàng, là một góc bị thành con cắt ra chéo chéo. Mặt tây và mặt bắc đều là tường thành, bên trong cửa hàng san sát, chính là chỗ giao dịch hàng hóa giữa Trung Nguyên và Tây Vực, trong đó thương nhân người Hồ chiếm đa số, vì vậy rất nhiều nhà cửa mang phong cách Tây Vực. Hai bên phố đều là nhà gạch mộc một tầng hoặc hai tầng, cửa sổ cực nhỏ, cách mặt đất cực cao, sân trước cửa có thể to, có thể nhỏ, trên cột cờ là cờ của các hiệu buôn khác nhau.
Chợ phía tây cực kì phồn vinh, người đông như mắc cửi, la ngựa và lạc đà thồ hàng hóa đi qua đi lại, xe ngựa chở đầy hàng hóa lộc cộc chạy qua, dẫn đến một vụ ách tắc giao thông ngắn ngủi.
Huyền Trang và Lý Thiền len lỏi qua đàn gia súc, rẽ vào một ngõ nhỏ hơi hẻo lánh, nhìn thấy một cửa hàng nhỏ hẹp ở đầu ngõ, ngay cả sân cũng không có, ngoài cửa cắm một lá cờ, bên trên thêu Sách gia chiêm phố.
“Chính là nơi này.” Lý Thiền thở phào nhẹ nhõm.
Huyền Trang đẩy cánh cửa gỗ táo cũ đã loang lổ ra, trong phòng gạch mộc dày u ám âm trầm, ánh nắng từ cửa sổ nhỏ trên đỉnh tường chiếu vào rồi ngưng tụ thành một chùm sáng chiếu sáng một góc nhỏ, chiếu xuống tấm thảm nỉ trải ở chính giữa phòng.
Trên tấm thảm nỉ, một ông lão đang ngồi cúi đầu loay hoay mấy ngọn cỏ thi. Ông lão không hề ngẩng đầu lên. “Có phải muốn xem bói không?”
Huyền Trang không nói gì, quan sát trong phòng. Sau khi quen với bóng tối, ngài mới thấy rõ khắp nơi trong phòng chất đống các loại pháp khí, trên tường dùng dây thừng bện bằng cỏ treo từng chuỗi phù chú. Huyền Trang đi tới cầm lấy một tấm phù lên xem, lại là một tấm lục đinh lục giáp phù.
“Quả nhiên là ông!” Huyền Trang khe khẽ thở dài.
Ông lão kinh ngạc ngẩng đầu lên, tỉ mỉ quan sát Huyền Trang và Lý Thiền, yên lặng một lát. “Sáng sớm hôm nay thức dậy, ta liền cảm thấy tâm trạng không yên. Xem thử một quẻ lại bị thiên cơ che đậy, quẻ tượng không rõ, thì ra là một vị pháp sư.”
“Lão trượng chính là chiêm bốc sư Sách Dịch?” Huyền Trang hỏi.
Sách Dịch xua xua tay, trong giọng nói mang theo đắng chát. “Chính là lão phu. Lão phu làm chiêm bốc sư ba mươi năm nay, nhìn trộm thiên cơ quá nhiều, tự biết ắt sẽ có một kiếp, xem ra là phải ứng ở trên người pháp sư.”
“Không dám.” Huyền Trang khoanh chân ngồi xuống đối diện với ông ta. “Bần tăng chỉ đến thỉnh giáo vài chuyện.”
“Cánh chim đã mắc lưới, muốn bay có được đâu, nay chỉ nên an phận, chớ mơ tưởng trèo cao.” Sách Dịch nhìn cỏ thi trong lòng bàn tay, cảm khái. “Đây chính là quẻ tượng hôm nay lão phu bốc được, quẻ vô vọng. Lão phu đã không trốn thoát được số mệnh này, pháp sư có gì cứ hỏi.”
Lý Thiền tay giữ hoành đao, trông chừng ở cửa.
Huyền Trang mỉm cười. “Hôm qua bần tăng đến nhà cũ của Lữ thị ở phường Thành Hóa, phát hiện trong nhà có ba tầng pháp trận, chính là dung hợp của vu thuật, đạo thuật và cơ quan thuật. Pháp trận đạo thuật trong ấy rất giống với pháp môn Chính Nhất của đạo Thiên Sư ở Long Hổ Sơn. Bần tăng nghe nói những pháp trận này đều là mời thuật sĩ của Âm thị và Sách thị đến bố trí. Âm thị tu là đạo thuật của phái Lâu Quan, còn Sách thị tu là bói toán âm dương được Sách Thầm truyền lại từ thời Tây Tấn, sử dụng bùa chú pháp trận, tập hợp tinh hoa của tất cả các phái Đạo gia. Vì vậy bần tăng liền đến chỗ lão trượng, xem phù chú thì thấy quả nhiên giống hệt như ở trong nhà cũ của Lữ thị.”
Sách Dịch sớm đã kinh ngạc, lẩm bẩm nói, “Không ngờ lại là việc này! Đã là vô vọng, còn biết đi đâu, trời không phù hộ, lại biết về đâu? Không trách được lại là một quẻ vô vọng!”
Huyền Trang không nói, chỉ lặng lẽ chờ đợi. Ánh nắng từ cửa sổ nhỏ lọt vào chiếu sáng hai người, xung quanh lại bị bao phủ bởi một màu tối tăm.
“Pháp sư suy đoán không sai, tầng pháp trận đạo thuật ở nhà cũ của Lữ thị là do lão phu bố trí.” Sách Dịch cười khổ thừa nhận. “Chỉ có điều nội tình trong ấy không tiện nói cho pháp sư biết, lão phu bây giờ mặc dù sa sút, nhưng cũng không thể mang đến mầm tai vạ cho Sách thị được.”
“Mang đến mầm tai vạ cho Sách thị?” Huyền Trang giật mình. “Sách thị chính là sĩ tộc Đôn Hoàng, ai có thể mang đến mầm tai vạ cho Sách thị chứ?”
Sách Dịch không ngừng lắc đầu. “Mặc dù Sách thị là sĩ tộc, từng có lúc huy hoàng nhưng thời thế chuyển dời, sớm đã ngày một suy tàn rồi. Tuy trong mắt bình dân bách tính Sách thị vẫn vô cùng lớn mạnh, nhưng trong mắt sĩ tộc Đôn Hoàng thì đã xếp ở hạng cuối cùng.”
Huyền Trang cau mày nghĩ một lát. “Bần tăng sẽ không bức bách lão trượng, tạm thời không hỏi nội tình, lão trượng có thể nói người năm đó mời lão trượng bố trí pháp trận là ai được không?”
Sách Dịch loay hoay ngọn cỏ thi trong tay, dường như đang đấu tranh tư tưởng. “Lệnh Hồ Đức Mậu!”
“Gia chủ của Lệnh Hồ thị?” Huyền Trang kinh ngạc. “Vì sao Lệnh Hồ thị lại làm chuyện như vậy?”
“Bởi vì Lữ thị Đôn Hoàng và Lệnh Hồ thị có mối thù trăm năm!” Sách Dịch nói từng chữ từng câu một.
Huyền Trang ngẩn ra. “Lữ thị Đôn Hoàng? Lữ Thịnh không phải người Bác Châu Sơn Đông sao?”
“Lữ Tham quân đó nói là người Bác Châu Sơn Đông cũng không phải giả. Nguyên quán của hắn là ở Đôn Hoàng, đầu thời Tây Ngụy mới trốn đến Bác Châu.” Sách Dịch giải thích. “Mà sở dĩ Lữ thị Đôn Hoàng bị diệt tộc chính là vì tranh đấu với Lệnh Hồ thị bị thua.”
Huyền Trang còn muốn hỏi nữa những Sách Dịch đã đứng dậy. “Pháp sư, hôm nay lão phu được mời đến hang Mạc Cao một chuyến, nếu pháp sư có thời gian, không ngại cùng đi, trên đường chúng ta từ từ nói chuyện.”
“Nhưng bần tăng còn có việc cần làm, hang Mạc Cao cách châu thành hơn năm mươi dặm đường, đêm nay sợ là không quay về được.” Huyền Trang suy nghĩ một lát. “Không bằng ngày mai bần tăng trở lại thăm.”
Sách Dịch cười nói, “Lão phu đi chuyến này sợ là phải vùi xương ở hang Mạc Cao, ngày mai pháp sư chưa chắc đã đợi được lão phu đâu.”
Mặt Huyền Trang lập tức biến sắc.
Sách Dịch lại thờ ơ như không. “Tối nay trong chùa Thánh Giáo ở hang Mạc Cao còn có một cuộc đấu giá. Trò đấu giá này là từ Tây Vực truyền tới, đồ vật cần đấu giá được bày ra trước công chúng, mọi người cạnh tranh ra giá, người trả giá cao sẽ mua được. Thứ được mang tới đấu giá đều là kỳ trân dị bảo của các nước Đại Đường, Tây Vực, thậm chí Thiên Trúc, Ba Tư và Bái Chiêm Đình, bình thường khó có thể nhìn thấy.”
“Trên người bần tăng không có tiền tài gì.” Huyền Trang cười khổ.
Lý Thiền xen miệng. “Sư phụ nếu nhìn trúng thứ gì, ta sẽ trả tiền.”
Huyền Trang lắc đầu. “Người xuất gia tu đạo, có quần áo trên người và bình bát trong tay, thế là đủ rồi.”
“Pháp sư,” Sách Dịch trầm giọng nói. “Trong buổi đấu giá tối nay, nghe nói sẽ có một đoạn xá lị của Phật Tổ!”
“Cái gì?” Huyền Trang lộ vẻ kinh hãi.
Xá lị của Phật Tổ chính là xá lị Phật có được từ trong tro tàn sau khi Thích Ca Mâu Ni nhập diệt hỏa táng, gồm xá lị xương đỉnh đầu và xá lị xương ngón tay, cùng hơn tám vạn viên xá lị.
Có câu xá lị ở đâu, pháp thân ở đó. Xá lị Phật chính là thánh vật vô thượng đối với các tín đồ Phật giáo.
“Loại thánh vật này tại sao lại mang ra để đấu giá?” Huyền Trang giật mình.
Sách Dịch không ngừng lắc đầu. “Là một thương nhân Túc Đặc ở Tây Vực mang đến từ Kiền Đà La. Kiền Đà La đó ở phía tây của Thiên Trúc, vốn là thánh địa Phật gia, có hàng nghìn ngôi chùa, có điều hai trăm năm trước đã bị người Áp Đạt tiêu diệt. Người Áp Đạt hủy chùa diệt Phật, cho tới bây giờ ở nơi ấy đã không còn có ai tin Phật nữa. Những xá lị được chùa và tín đồ cung phụng phần lớn phiêu bạt dân gian, thương nhân Túc Đặc đó theo Bái Hỏa giáo, thánh vật của Phật gia đối với bọn họ mà nói chỉ là vật kiếm lời mà thôi, không ít nhà buôn vẫn tìm xá lị ở Kiền Đà La mang đến Đại Đường ta bán lấy rất nhiều tiền. Đêm nay trong chùa tụ tập quan to quý nhân, người nhiều tiền của, đều đến vì đoạn xá lị Phật này.”
Lý Thiền đột nhiên vỗ tay một cái. “Sư phụ, Địch Pháp Nhượng bán tài sản trong chùa, thì ra là muốn đấu giá xá lị Phật!”
Huyền Trang im lặng gật đầu. Không trách được Địch Pháp Nhượng gần như bán sạch sẽ mọi sản nghiệp trong chùa, ngay cả lương thực, cừu và rượu cũng không giữ lại, điều này có nghĩa tăng chúng cả chùa phải thắt lưng buộc bụng mà sống. Có điều đối với chùa, nếu có thể nghênh đón được xá lị Phật Tổ đến dựng tháp thờ cúng, đó chính là cơ nghiệp hàng trăm năm hàng nghìn năm.
“Không chỉ có Địch Pháp Nhượng, nghe nói Lệnh Hồ Đức Mậu cũng sẽ đến,” Sách Dịch nói. “Đêm nay tất nhiên pháp sư sẽ được thấy một chút chân tướng.”
Huyền Trang và Lý Thiền cùng Sách Dịch đóng cửa tiệm xem bói, cưỡi lên ngựa rồi ra khỏi thành từ cổng bắc, chạy thẳng đến hang Mạc Cao.
Hang Mạc Cao nằm ở dưới chân núi Tam Nguy cách thành Đôn Hoàng năm mươi dặm về phía đông nam. Ba người ra ngoài từ cổng bắc thành Đôn Hoàng, đi lên con đường lúc trước Huyền Trang đến đây, trước hết đi qua cầu gỗ trên sông Cam Tuyền, sau khi đi qua trạm dịch châu thành lại theo một con đường trong sa mạc chuyển hướng đi về phía nam.
Trên đường đi toàn là biển cát hoang vu, trong sa mạc đầy những ngôi mộ bị lấp gần hết bởi đất cát.
Người Đôn Hoàng sinh ra làm bạn với cát vàng, sau khi chết lại chôn xuống dưới cát vàng.
Dọc đường, Sách Dịch nói về mối thù trăm năm của Lữ thị và Lệnh Hồ thị.
“Thời Tây Tấn, Lữ thị lấy chăn nuôi lập nghiệp, hai trăm năm sau gia tộc càng ngày càng hưng thịnh, trở thành một đại tộc ở Đôn Hoàng. Có điều Đôn Hoàng hơi đặc thù, nơi này rời xa loạn lạc Trung Nguyên, các đời vương triều hưng thịnh rồi suy vong như đèn kéo quân nhưng thường không quản được đến Đôn Hoàng, vì vậy liền để sĩ tộc phát triển lớn mạnh. Đặc biệt là thời Hán và thời Ngụy, Trung Nguyên loạn lạc chết chóc, cắt đứt Lũng Hữu; quận Đôn Hoàng vì vậy mà hai mươi năm không có Thái thú, hào môn đại tộc nhân cơ hội ấy thôn tính đất đai, khiến tiểu dân không có nổi tấc đất cắm dùi. Sau khi Tây Tấn diệt vong, bên Lũng Hữu này nước nhỏ san sát, nào là Tiền Lương, Hậu Lương, Tây Lương rồi Bắc Lương, tất cả đều là những nước được các tộc lớn ủng hộ lập nên. Nhà Tiền Lương của Trương thị và nhà Tây Lương của Lý thị đều là do các sĩ tộc Đôn Hoàng lập ra, thực tế đều là những tộc lớn đề cử ra một nhà đứng lên dựng nước để bảo vệ lợi ích chung của các sĩ tộc lớn trong thời loạn lạc mà thôi. Những sĩ tộc này khống chế chính sự, quân đội, đồng ruộng, chăn nuôi, tiền lụa, buôn bán và phường hội các nghề của Đôn Hoàng; trải qua bảy trăm năm sinh sôi nảy nở, con em tộc nhân trải rộng khắp Đôn Hoàng, thế lực các bên đã phân chia lại đan cài; mặc dù giữa các tộc cũng có tranh đấu nhưng lại không hẹn mà cùng nhau chèn ép hàn vi trỗi dậy, để duy trì sự bất bại nghìn năm của sĩ tộc môn phiệt.”
Sách Dịch kể bằng giọng nói bình thản, Lý Thiền lại nghe hết sức tò mò. “Sách thị các ông cũng là sĩ tộc, vì sao nghe ông nói lại có vẻ rất oán trách?”
“Sách thị đương nhiên là sĩ tộc, nhưng Sách Dịch ta lại chưa chắc đã là sĩ tộc.” Sách Dịch tự giễu. “Thế gia kéo dài gần nghìn năm, con cháu trải rộng khắp Đôn Hoàng, chỉ cần không phải các nhánh trong chi chính thì sau mấy trăm năm huyết thống gì cũng dần nhạt đi. Ngươi xem ta bây giờ mở một tiệm xem bói, chỉ dựa vào thuật bói toán của tổ tiên truyền xuống để mưu sinh thôi, còn ngoài ra thì có dáng vẻ gì của thế gia đại tộc nữa hay không?”
Lý Thiền yên lặng.
“Lữ thị đó chính là hàn tộc trỗi dậy?” Huyền Trang hỏi.
“Không sai. Sau khi dựa vào chăn nuôi để lập nghiệp, Lữ thị muốn tiến thêm một bước nữa liền gặp phải muôn vàn khó khăn. Từ ba đời đều có người làm quan to ngũ phẩm trở lên trong triều đình, ít nhất phải làm đến Quận thủ mới có thể xem như bước qua được ngưỡng cửa sĩ tộc. Trong Lữ thị không xuất hiện quan lại, chỉ dựa vào vẻn vẹn một chút của cải thì đâu thể sánh vai ngang vế với các sĩ tộc được? Dưới sự chèn ép của các sĩ tộc, Lữ thị từ từ quẫn bách. Cuối thời Bắc Ngụy, gia chủ Lữ thị lúc ấy là Lữ Hung bỗng bắt được một cơ hội nghìn năm khó gặp. Khi đó quyền thần Bắc Ngụy là Vũ Văn Thái đầu độc chết Hiếu Võ Đế Nguyên Tu rồi dựng Nguyên Bảo Cự lên làm Hoàng đế, lập nước Tây Ngụy, Hà Tây đại loạn. Thứ sử Lương Châu Vũ Văn Trọng Hòa không thừa nhận Vũ Văn Thái, muốn cát cứ dựng nước. Khi đó Lữ Hưng cho rằng thời cơ đã đến, nếu có thể phò tá Vũ Văn Trọng Hòa dựng nước, Lữ thị liền một bước trở thành sĩ tộc. Lữ Hưng cùng anh em kết nghĩa Trương Bảo bí mật bàn mưu khởi sự, hưởng ứng Vũ Văn Trọng Hòa. Trương Bảo giết chết Thứ sử Qua Châu Thành Khánh, chiếm giữ Qua Châu, còn Lữ Hưng cũng giết chết Quận thú Đôn Hoàng Quách Tứ, chiếm giữ Đôn Hoàng, muốn làm giấc mộng đẹp khai quốc công thần.”
Huyền Trang hơi cảm khái. “Thế gia đại tộc, chẳng lẽ phải dùng phương thức này mới có thể giành lấy hay sao?”
Lý Thiền lại cười. “Sư phụ, có môn phiệt sĩ tộc nào mà không phải chọn đúng chúa công khi triều đại thay đổi mới lập nên môn phiệt? Chính tổ tiên Lý thị Lũng Tây của ta, Thái tổ Cảnh Hoàng đế năm đó cũng là đi theo Vũ Văn Thái lập nước Tây Ngụy mới được thụ phong Bát trụ quốc, lập nên môn phiệt Lý thị.”
Lúc ấy Sách Dịch mới biết người thanh niên trước mặt này không ngờ lại là hậu duệ của đế thất, không dám bình luận, liền nói ngay. “Lữ Hưng muốn mượn việc ủng hộ Vũ Văn Trọng Hòa dựng nước để trỗi dậy, không ngờ lại trở thành bậc thềm lập nghiệp trong mắt người khác.”
“Có phải chính là Lệnh Hồ thị?” Huyền Trang hỏi.
“Không sai. Chính là gia chủ Lệnh Hồ thị khi đó, Lệnh Hồ Chỉnh,” Sách Dịch nói.
Huyền Trang đã hiểu. Lệnh Hồ Chỉnh này chính là ông nội của Lệnh Hồ Đức Mậu, được ghi lại rất rõ ràng trong Ngụy thư. Cụ nội, ông nội và phụ thân của Lệnh Hồ Chỉnh đều từng làm Quận thú, có thể nói là mấy đời quan to. Lệnh Hồ Chỉnh tính cách kín đáo, tinh thông cưỡi ngựa bắn cung nổi tiếng Lũng Hữu, đã từng được Đông Dương Vương của Bắc Ngụy, Thứ sử Qua Châu Nguyên Vinh phong làm chủ bộ Qua Châu, Đãng Khấu Tướng quân.
“Lệnh Hồ Chỉnh tuyệt đối sẽ không cho phép Lữ Hưng đạt được ý đồ, thậm chí muốn bình định Lữ Hưng và Trương Bảo phản loạn, dùng việc này làm bậc thềm tiến thân. Thế là hắn liền giả vờ hùa theo Trương Bảo, bí mật lập mưu. Hắn âm thầm phái người khuyên nhủ Trương Bảo, nói Trương Bảo và Vũ Văn Trọng Hòa là môi hở răng lạnh, bây giờ đại quân của triều đình đã tới gần Lương Châu, sợ rằng Vũ Văn Trọng Hòa không ngăn chặn được. Tốt nhất là phái quân đội tinh nhuệ hành quân suốt đêm đến cứu viện Lương Châu, hai quân hợp lực đánh bại quân đội triều đình. Trương Bảo rất cho là đúng, lại không biết nên phái ai đi. Lệnh Hồ Chỉnh lại phái một người khác khuyên Trương Bảo, nói Lệnh Hồ Chỉnh văn võ toàn tài, lĩnh quân xuất chinh là thích hợp nhất, hơn nữa cha mẹ người nhà của Lệnh Hồ Chỉnh cũng ở trong thành, nhất định sẽ không phản bội. Trương Bảo quả nhiên mắc lừa, phái Lệnh Hồ Chỉnh dẫn quân cứu viện Lương Châu. Lệnh Hồ Chỉnh nắm được binh quyền trong tay, đến quận Ngọc Môn liền lặng lẽ quay lại, điều quân trở về Đôn Hoàng, dùng danh nghĩa quân của Trương Bảo tập kích thành trì. Lữ Hưng không nghĩ tới quân đội của Trương Bảo lại rơi vào trong tay Lệnh Hồ Chỉnh, trở tay không kịp, bị Lệnh Hồ Chỉnh công phá thành trì, chém chết tại chỗ. Được sự ủng hộ của sĩ tộc Đôn Hoàng, binh lực của Lệnh Hồ Chỉnh tăng mạnh, sau đó lại tiến quân đến Qua Châu, đánh Trương Bảo phải trốn sang Thổ Dục Hồn.”
Huyền Trang hít sâu một hơi. “Lệnh Hồ Chỉnh này quả thực là kiêu hùng! Một loạt thủ đoạn xảo quyệt ấy đúng là hoàn toàn kín kẽ!”
“Lệnh Hồ Chỉnh lấy cớ Lữ Hưng mưu nghịch, đầu độc người vô tội, đẩy toàn bộ người trong châu rơi vào bất nghĩa, giết cả tam tộc Lữ thị, đồng thời treo đầu Lữ Hung trên tường thành thị chúng,” Sách Dịch nói.
Huyền Trang chắp tay, thở dài. “Mấy trăm năm nay, hàn tộc trỗi dậy tựa như chạy xe trên đường hiểm, có người một bước lên trời, có người cả nhà đều diệt. Mấy trăm năm sau mở ra sách sử, cũng chỉ là ảo ảnh trong mơ, như mây như gió.”
Sách Dịch cũng thở dài một hơi. “Đúng vậy! Máu tươi của cả nhà Lữ thị chính là bậc thềm để Lệnh Hồ thị trỗi dậy. Khi đó các sĩ tộc muốn đề cử Lệnh Hồ Chỉnh làm Thứ sử, Lệnh Hồ Chỉnh lại không muốn tự nhận đề cử, liền dâng Qua Châu và Đôn Hoàng cho triều đình. Vũ Văn Thái phong ông ta làm Phủ Quân Tướng quân, kiêm chức Đại Đô đốc. Lệnh Hồ Chỉnh quả thật là nhân vật kiêu hùng, không ngờ lại dẫn hai nghìn con em trong dòng họ vào triều, theo Vũ Văn Thái chinh phạt. Vũ Văn Thái thấy ông ta trung thành, nói ‘Tổ tiên của khanh lập trung mà đi, nay khanh lập trung mà đến,’ chẳng những ban cho họ Vũ Văn mà còn xếp hơn hai trăm hộ trong gia tộc vào dòng tôn thất của Tây Ngụy. Trước đó mặc dù Lệnh Hồ thị là sĩ tộc nhưng cũng chỉ là ở quận nhỏ hẻo lánh tại Lũng Hữu, từ khi Lệnh Hồ Chỉnh nổi lên, Lệnh Hồ thị đi vào trung khu triều đình mới lên đến tầm thiên hạ.”
Huyền Trang im lặng rất lâu. Mọi người thúc ngựa đi giữa cát vàng, xa xa là núi Minh Sa một màu vàng úa, những ngôi mộ táng phủ cát kéo dài liên miên. Huyền Trang ngơ ngác nhìn dưới vó ngựa, mồ mả mặc dù cô quạnh, mai táng lại là vinh quang, còn mỗi một vốc cát vàng dưới chân này chỉ sợ đều đã từng thấm đẫm máu của những kẻ thất bại.
“Gia tộc Lữ Thịnh chính là tộc nhân Lữ thị may mắn chạy thoát sao?” Huyền Trang hơi thắc mắc. “Đã kết hạ huyết hải thâm thù với Lệnh Hồ thị như thế, vì sao Lữ Thịnh còn phải điều nhiệm tới Đôn Hoàng?”
Sách Dịch suy nghĩ một lát. “Cái này lão phu chỉ biết một hai. Nghe nói là bởi vì lão phụ của hắn đã già, Lữ phụ lo lắng không còn nhiều ngày tháng, muốn chết tại quê cha đất tổ, thế nên Lữ Thịnh liền đưa lão phụ trở lại Đôn Hoàng.”
“Nói vậy thì Đôn Hoàng quả thực là tuyệt địa đối với Lữ Thịnh. Hắn vừa vào Đôn Hoàng, sợ là sẽ phải đối đầu trực diện với Lệnh Hồ thị.” Lý Thường cau mày. “Lữ Thịnh đó là Trạng nguyên hai khoa, tại sao lại lỗ mãng như thế?”
Sách Dịch cười khổ nói, “Những chuyện này lão phu không biết. Về cơ bản thì bây giờ Lệnh Hồ thị là sĩ tộc có thế lực lớn nhất trong số các sĩ tộc ở Đôn Hoàng, con thứ ba Lệnh Hồ Chiêm của Lệnh Hồ Đức Mậu chính là Trấn tướng Tây Quan, đóng quân tại huyện thành Tây Quan, con em tộc nhân trải rộng khắp các nha môn châu huyện. Trong triều có em ruột Lệnh Hồ Đức Phân chính là Thị lang Bộ Lễ, đại gia văn sử. Lão phu nếu là Lữ Thịnh, tuyệt đối không dám đi vào Đôn Hoàng.”
Huyền Trang biết Sách Dịch e dè thế lực của Lệnh Hồ thị, không muốn nói quá nhiều, nên cũng không ép hỏi nữa.
Ngài ngẩng đầu lên nhìn, đột nhiên trước mắt rực rỡ huy hoàng.
Bờ bên kia dòng sông rộng lớn, một vách đá dài đến vài dặm đứng sừng sững trước mắt, kéo dài chạy dọc bờ sông. Trên vách đá chính là cồn cát, tịch dương chiếu rọi, ánh vàng lấp lánh, nổi bật dưới trời xanh vô cùng vô tận, dường như trên trời xanh đang chảy xuống một dòng phẩm màu thanh kim thạch. Trên vách đá là một tầng lại một tầng sạn đạo, bên trên là hàng dãy hang hốc tựa như vô số tổ ong. Có không ít hang đang mở, thấp thoáng mấy người thợ đang treo người vào dây thừng thi công trên vách đá. Trên sạn đạo cũng có vô số thợ thủ công đang khiêng gỗ và đất đá trèo lên trên.
Xa xa nhìn lại, cả vách đá dường như đang nhúc nhích.
Đã đến hang Mạc Cao.
Trong thành con, phường Quy Đức, hậu trạch phủ Thứ sử.
Chính là lúc mặt trời đang lặn, khi sắc trời sắp tối nhưng chưa tối hắn, đã có trăng khuyết mọc lên, treo ở cuối phố dài.
Lúc này đã vào giờ giới nghiêm, trong thành con đều là công sở, trên phố vắng tanh. Bỗng tiếng vó ngựa dồn dập phá vỡ sự yên tĩnh và ánh trăng, Binh tào tham quân phủ Đô đốc Vương Lợi Thiệp dẫn hai tên bộ khúc thúc ngựa phi nhanh trên phố nhỏ, đến ngoài hậu trạch phủ Thứ sử liền ghìm cương ngựa, ngựa hí dài một tiếng rồi vội vàng dừng bước.
Phủ Thứ sử vẫn giữ kết cấu tiền nha hậu trạch từ thời Hán, phía trước là nha môn châu, phía sau tòa nhà ở giữa là nhà Thứ sử, bên trái là nhà Trưởng sử, bên phải là nhà Tư mã, ba vị quan lớn ở ngay cạnh nhau.
Tổng quản phủ Thứ sử, tộc đệ Vương Quân Thịnh của Vương Quân Khả dẫn Hiệu úy Triệu Đỉnh cùng bốn gã thân binh đang đứng đón ở cửa lớn. Hai người chắp tay chào nhau, đều không nói gì, bước qua cửa lớn rồi tiến về phía chính đường.
Hai người đi vội vã, trong vườn bóng cây đen kịt có gió thổi qua kêu sột soạt, bầu không khí dường như hơi kỳ lạ.
Vương Quân Khả bước xuống bậc đón chào, Vương Lợi Thiệp vội vàng khom mình hành lễ. “Hạ quan ra mắt Vương công!”
“Vương Tham quân không cần câu nệ, ngươi là người thân cận của Đại vương, ta thân là thuộc hạ của phủ Đô đốc, còn mong Vương Tham quân chiếu cố nhiều hơn mới được.” Vương Quân Khả tự mình đưa Vương Lợi Thiệp vào trong chính đường, chia ra chủ khách ngồi xuống.
Trên chiếu có bàn ăn, bày rượu, thức ăn và trái cây sạch sẽ. Vương Quân Thịnh đích thân rót rượu cho hai người sau đó đứng hầu hạ bên cạnh.
“Vương Tham quân Dần dạ đến đây…”
Vương Quân Khả vừa nói một câu, Vương Quân Thịnh nhếch môi, ghé vào bên tai hắn thấp giọng. “Dần dạ là lúc tảng sáng giờ Dần.”
Vương Quân Khả mặt không đổi sắc, vẻ mặt tự nhiên. “… ban đêm đến đây, có phải Đại vương bên kia có chỉ thị gì không?”
Vương Lợi Thiệp làm như không nghe thấy, cười nói, “Ngày xưa Đại vương và Vương công là chiến hữu trong quân, cũng không có lời gì không tiện nói; hôm nay là một chuyện riêng, vốn nên mời bô lão Đôn Hoàng tới nhà, chỉ là sợ sẽ đường đột nên mới lệnh cho hạ quan đến thăm hỏi trước.”
Vương Quân Khả và Vương Quân Thịnh nhìn nhau một cái, đều hơi kinh ngạc.
Vương Quân Khả chần chừ. “Ta và Đại vương đã quen biết nhiều năm, lại là quan trên và quan dưới, cho dù Đại vương không tiện nói trước mặt thì cũng chỉ cần trực tiếp gửi công văn là được. Hạ quan tự nhiên không có lý nào lại không tôn trọng, cần gì phải bô lão đứng ra?”
“Chuyện này không thể gửi công văn.” Vương Lợi Thiệp cười khổ, nghĩ một hồi lâu, nhất thời không biết nên mở miệng thế nào. “Vương công đã từng gặp Thế tử nhà ta chưa?”
“Hôm nay đã gặp ở trạm dịch châu thành,” Vương Quân Khả nói. “Thế tử anh tuấn hiên ngang, ba năm nay ở Qua Châu giá rét phụng dưỡng Đại vương, nghe nói sớm chiều…”
Vương Quân Khả liếc Vương Quân Thịnh một cái, Vương Quân Thịnh dùng khẩu hình nói, “Phục thị.”
Vương Quân Khả phối hợp ăn ý với hắn. “… phục thị, đúng là phúc của Đại vương.”
“Đúng vậy! Thế tử tính tình hoà thuận, thông tuệ hơn người, đọc thuộc tam kinh, kiêm thông Phật Đạo. Nếu không phải xuất thân hoàng gia thì cũng đủ để đi thi khoa Tú tài.” Vương Lợi Thiệp uống một ngụm rượu. “Nghe nói Thập Nhị Nương nhà Vương công cũng dịu dàng hiền thục, giữ trọn đạo hiếu?”
Vương Quân Khả và Vương Quân Thịnh đều bàng hoàng tỉnh ngộ, thật không ngờ Vương Lợi Thiệp này lại là tới nhà để cầu hôn! Vẻ mặt hai người đều lập tức trở nên hơi nghiêm nghị, tuy Vương Quân Khả xưa nay mưu trí hơn người, nhất thời cũng không biết nên trả lời thế nào.
Vương Quân Thịnh suy nghĩ một lát. “Thập Nhị Nương nhà ta năm nay đã đầy mười chín, vốn sớm nên hứa gả, chỉ có điều mấy năm nay vẫn ở Đôn Hoàng nên mới lần lữa mãi. Vương Tham quân, ngài và a lang nhà ta đã quen biết nhau nhiều năm, cũng không sợ ngài chê cười, Thập Nhị Nương đành là hiếu thảo, nhưng lại khó có thể nói là dịu dàng hiền thục được.”
“Ơ…” Vương Lợi Thiệp kinh ngạc. “Lời này là thế nào?”
Vương Quân Thịnh lắc đầu. “A lang nhà ta chinh chiến trong quân đã lâu, gia phong thượng võ, Thập Nhị Nương cũng bị tiêm nhiễm. Mặc dù có học mấy năm thi thư nhưng từ nhỏ nàng lại thích múa thương múa gậy, giương cung cứng, cưỡi ngựa dữ, cầm giáo dài, thậm chí mạch đao nặng đến hai mươi cân vẫn có thể múa tới mức giọt nước không lọt qua được, kể cả một số hãn binh trong quân cũng đều là bại tướng dưới tay nàng.”
Vương Lợi Thiệp ngơ ngẩn một hồi lâu, nhìn Vương Quân Khả, nghẹn lời không biết mình nên nói gì.
“Để Vương Tham quân chê cười rồi.” Vương Quân Khả cười khổ. “Ngươi cũng biết ta thuở nhỏ nhà nghèo, đến tận khi vào Ngõa Cương, tuổi gần tam tuần mới lấy vợ, sinh được một tử một nữ, thuở nhỏ cũng lớn lên ở Ngõa Cương. Khuyển tử Vĩnh An còn đỡ, cũng có chút tài văn, nhưng Thập Nhị Nương lại khác, bên người đều là bậc anh hùng hào kiệt như Thúc Bảo và Giảo Kim, mưa dầm mãi cũng thấm, chỉ thích cung ngựa, thương bổng. Sau khi vào Trường An, mặc dù ta đã tìm đại nho cho nó học vỡ lòng một chút thi thư nhưng vẫn không thể sửa hết được.”
Vương Lợi Thiệp cười khổ, nghe xong cắn răng, rồi đột nhiên vỗ tay. “Tốt lắm! Đây mới đúng là hổ nữ tướng môn!”
Vương Quân Khả và Vương Quân Thịnh ngơ ngác nhìn nhau.
“Hạ quan liền nói thật vậy.” Vương Lợi Thiệp cười ha ha. “Vương công, Thế tử đến tháng Chạp năm nay đã đầy hai mươi mốt tuổi, giống như Thập Nhị Nương, cũng ở Qua Châu đã lâu, đến nay chưa hề có hôn phối. Tháng trước Vương phi ở kinh thành viết thư gửi tới, nói về hôn sự của Thế tử, liệt ra đích nữ của các vị Quốc công và Tể tướng, mời Đại vương cho một chủ ý. Đại vương tính tình nhàn tản, mấy năm nay rời xa phân tranh của triều đình, cảm thấy rất thoải mái, không muốn lại có dính dáng gì đến các bên trong triều đình như Quốc công với Tể phụ nữa. Đại vương và Vương công quen biết đã nhiều năm, hiểu nhau quá sâu, con cái hai bên lại ở bên người, Đại vương liền động tâm tư, mong vĩnh viễn kết duyên Tần Tấn. Không biết ý của Vương công thế nào?”
Vương Quân Thịnh không ngừng nháy mắt với Vương Quân Khả, Vương Quân Khả làm như không thấy, ôm quyền chắp tay. “Được Đại vương ưu ái chính là phúc của tiểu nữ, có điều tính tình này của tiểu nữ… Đại vương công huân cao quý, gia phong nghiêm cẩn, không biết tiểu nữ có xứng với Thế tử hay không?”
Lần này Vương Lợi Thiệp đến đã quyết nhất định phải làm được việc, cho dù Vương Ngư Tảo có là một người như con cọp cái thì cũng phải định xong chuyện hôn nhân này, lập tức cười ha hả. “Vương công có chuyện không biết, Đại vương yêu thích nhất là nữ tử anh liệt như thế. Lý thị khởi sự từ Lũng Tây, ngồi đánh thiên hạ, nếu con cháu nhà mình lớn lên trong tay nữ tử yếu đuối, chẳng phải là làm mất đi tác phong oanh liệt của Hoàng Khảo Thái tổ Cảnh Hoàng đế hay sao? Xứng! Xứng! Vạn phần xứng!”
Vương Quân Khả cười. “Đã như vậy liền xin Đại vương mời bà mối đến nạp thái và vấn danh. Chỉ cần hai đứa nó bát tự hợp nhau, hạ quan không có lý nào lại không ưng chịu.”
Vương Lợi Thiệp thấy Vương Quân Khả lập tức đáp ứng, không khỏi mừng rỡ. “Hạ quan sẽ đến hang Mạc Cao bẩm báo với Đại vương, chọn một ngày lành tới nhà nạp thái!”
“Đại vương đang ở hang Mạc Cao?” Sắc mặt Vương Quân Khả lập tức biến đổi.
“Chẳng lẽ Vương công không biết?” Vương Lợi Thiệp giải thích. “Đêm nay ở chùa Thánh Giáo có một hội đấu giá. Do trong thành giới nghiêm, để tiện lợi nên phú thương hiển quý trong châu liền mở đấu giá tại chùa Thánh Giáo, thâu đêm hoan ẩm. Nghe nói báu vật từ các nước Tây Vực sẽ tề tụ tại đó, thậm chí còn có một đoạn xá lị Phật Tổ, Đại vương liền nhất thời nổi hứng khởi giá tới chùa Thánh Giáo.”
Vương Quân Khả đột nhiên nhảy dựng lên, bối rối nói, “Bây giờ Đại vương đã đến đâu rồi?”
“Hẳn là đi được nửa đường rồi.” Vương Lợi Thiệp suy nghĩ một lát. “Lúc hạ quan tới đây, Đại vương đang chuẩn bị rời khỏi châu thành trước giờ giới nghiêm.”
Vương Quân Khả cắn răng, gằn từng chữ từng câu. “Vương Tham quân, ngươi lập tức đi ngăn Đại vương lại, bảo vệ Đại vương trở về chùa Trường Lạc. Triệu Đỉnh!”
Ngoài cửa có tiếng áo giáp vang lên, Hiệu úy thân binh Triệu Đỉnh dạ một tiếng, cất bước đi vào. “Tham kiến Tướng quân!”
Vương Quân Khả nói, “Điều một lữ binh giáp bảo vệ Đại vương trở lại chùa Trường Lạc. Đêm nay các ngươi không cần về, cứ canh giữ ở trong chùa Trường Lạc. Đại vương nếu có gì bất trắc, xử theo quân pháp!”
“Rõ!” Triệu Đỉnh hô lớn.
“Vương… Vương công, xảy ra chuyện gì vậy?” Vương Lợi Thiệp cả kinh, tay chân bủn rủn, một lữ chính là một trăm người, còn là giáp sĩ tinh nhuệ, đây là phải đề phòng kẻ thù đáng sợ nào?
Vương Quân Khả hít sâu một hơi, vẻ mặt nghiêm nghị. “Vương Tham quân, nói với Đại vương nghìn vạn lần không thể mạo hiểm. Đêm nay trong hang Mạc Cao chính là đầm rồng hang hổ, sát cơ tứ phía, sợ rằng phải máu chảy thành sông!”
Vương Lợi Thiệp kêu một tiếng sợ hãi, không còn tâm tư mà hỏi thêm, nhảy dựng lên chạy ra ngoài. Triệu Đỉnh theo sát phía sau. Trong sân lập tức vang lên tiếng bước chân lộn xộn cấp tập, tiếng lá giáp va chạm như mưa to gió lớn nhanh chóng đi xa.
Vương Quân Khả nhìn bóng người đĩ xa, sắc mặt mưa nắng thất thường.
“Tứ Lang.” Vương Quân Thịnh thấp giọng. “Ngài có cần tự mình đi không?”
Vương Quân Khả lắc đầu. “Tình hình hang Mạc Cao cực kỳ phức tạp, chúng ta đứng ngoài cuộc là được.”
“Vâng.” Vương Quân Thịnh chần chừ một lát. “Tứ Lang, ngài thật sự phải gả Ngư Tảo đến Lý gia à? Lý Diễm bị Bệ hạ nghi kỵ rất sâu, vạn nhất Bệ hạ động thủ với ông ta, chẳng phải là Vương gia chúng ta sẽ bị liên lụy sao? Ngài cũng đã từng nói, Bệ hạ điều chỉnh quan trường Lũng Hữu như thế, rõ ràng là bày thế vây kín bốn phía Lý Diễm. Vậy… một khi bắt Lý Diễm, Ngư Tảo biết làm thế nào?”
Vương Quân Khả chắp hai tay sau lưng, đi qua đi lại trong chính đường, hiển nhiên cũng thấy khó mà lựa chọn được.
“Quân Thịnh, ngươi cũng biết chuyện ta phải làm. Vương thị Tính Châu chúng ta môn hộ thấp hèn, ta thuở nhỏ mồ côi nghèo khó, buôn ngựa mà sống. Triều đình Đại Đường này trọng môn phiệt, khinh thứ tộc, khắp nơi đều là quan chức sĩ tộc môn phiệt truyền thừa trăm năm thậm chí nghìn năm. Cho dù ta nhờ quân công được phong Huyện công và Thượng trụ quốc, nhưng vẫn còn không có căn cơ, bị người khinh mạn. Ngươi biết bọn chúng gọi loại người như ta đây là gì không? Là hạng tân quan!” Vương Quân Khả nắm chặt hai nắm đấm, nghiến răng nghiến lợi. “Chúng ta muốn trở thành sĩ tộc liền phải nhiều đời làm quan, làm quan không ngừng, mà trong ba đời đời nào cũng phải có người làm quan đến ngũ phẩm trở lên mới có thể lập nên phiệt duyệt Vương thị. Quá chậm, Quân Thịnh, quá chậm!”
Vương Quân Thịnh cũng hết sức tức giận. “Bọn chuột nhắt ấy, nếu không có Tứ Lang và các chiến hữu tắm máu dựng nên giang sơn này, sớm đã bị đám phản vương kia diệt tộc rồi!”
“Đúng vậy! Lúc đầu Địch đại đương gia dẫn chúng ta lên tụ tập tại Ngõa Cương, chẳng qua là vì không sống nổi mới đi đánh thiên hạ. Chiến hữu năm đó tử trận chết la liệt, mất tới tám chín phần mười, nhưng giang sơn đánh ra được lại vẫn là giang sơn của môn phiệt sĩ tộc. Những người này văn không thể an bang, võ không thể định quốc, giống như xương khô dưới mộ nhưng lại vẫn khoe khoang huyết mạch, tách rời sĩ thứ,” Vương Quân Khả đắng chát nói. “Cho nên Vương thị Tính Châu chúng ta muốn không bị người khinh mạn, lập nên cơ nghiệp cho con cháu đời sau thì phải tự mình trở thành sĩ tộc.
“Nhưng những sĩ tộc này thông hôn lẫn nhau, giữ gìn mạch máu cao quý, nếu ai thông hôn với thứ tộc bình dân thì môn phiệt giáng cấp, thậm chí còn bị tất cả các sĩ tộc khác hợp lực tấn công. Cho dù bây giờ ta là Huyện công, là Thượng trụ quốc, muốn lấy con gái năm họ ở Sơn Đông như Thôi, Lư, Trịnh, Vương cũng là chuyện không thể xảy ra. Nhưng hôm nay Lý thị Lũng Tây lại đến kết thân với chúng ta, nếu Ngư Tảo gả đến vương phủ Lâm Giang sẽ là Thế tử phi, sau này trở thành Lâm Giang Vương phi, còn ai dám nói Vương thị chúng ta phiệt duyệt thấp hèn nữa?”
“Lí lẽ này đương nhiên không sai, Vương thị Tính Châu ta không đợi được ba đời trở thành sĩ tộc.” Vương Quân Thịnh chần chừ. “Nhưng Lâm Giang Vương giờ đây tự thân mình cũng khó giữ nổi, vạn nhất Bệ hạ động thủ với ông ta, nặng thì ban chết, nhẹ thì phế làm thứ dân. Ngư Tảo gả đến đó, sau này chẳng lẽ không phải là rổ tre múc nước như công dã tràng?”
Vương Quân Khả cười to, vỗ vai Vương Quân Thịnh. “Yên tâm! Có mưu kế của ta, sao lại để cho tình cảnh ấy xuất hiện? Chỉ cần Ngư Tảo gả qua đó, chính là lúc Vương thị Tính Châu chúng ta trỗi dậy! Tốt rồi, ngươi đi tìm Ngư Tảo đến đây!”
Vương Quân Thịnh rời khỏi chính đường, bước nhanh về phía nội trạch, không ngờ một lát sau đã chạy về, vẻ mặt hoang mang.
“Tứ Lang! Ngư Tảo biến mất rồi! Còn có cây cung cứng hai thạch và mạch đao ba mươi cân của ngài cũng không thấy đâu!”
Trong hang Mạc Cao, Huyền Trang giơ đuốc, đang mê mẩn quan sát tượng Phật và bích họa trong hang, đến tận khi Lý Thiền ngoài cửa hang gọi mới bừng tỉnh lại. Tuy những năm gần đây Huyền Trang đã đi vạn dặm, đã thấy vô số chùa chiền và bích họa, nhưng vẫn bị chấn động đến vô cùng vô cực.
Hang Mạc Cao được mở từ thời Tiên Tân, khi đó có tăng nhân Nhạc Tổn tây tiến tới Đôn Hoàng, đến bên vách đá này đúng lúc mặt trời sắp lặn. Ngài nhìn tịch dương chiếu rọi lên núi Tam Nguy, chỉ thấy vạn đạo ánh vàng mang theo điềm lành vô biên, nghìn vạn đỉnh núi giống như nghìn vạn pho tượng Phật. Nhạc Tổn giác ngộ tại chỗ, liền đào hang rồi tu hành trên vách đá, sau đó lần lượt có những tăng nhân khác tới đây đào hang.
Tiếp đó nữa, không chỉ tăng nhân mà cả các thế gia đại tộc, quan chức hiển quý và bách tính bình dân các đời Bắc Lương, Bắc Ngụy, Tây Ngụy, Bắc Chu, Tùy, Đường đều lũ lượt đi tới hang Mạc Cao mở hang, tạc tượng và xây chùa, hang Mạc Cao trở thành thánh địa của Phật giáo Đôn Hoàng. Phần lớn những hang Phật này là mỗi nhà đào một hang, đa số những hang quy mô to lớn là do các tộc lớn xây dựng, hoặc mỗi tộc một hang, hoặc một tộc nhiều hang, cũng có một số hang là do mấy nhà bình dân liên hợp lại đào. Địch thị, Lý thị, Lệnh Hồ thị, Trương thị, Tào thị và Âm thị đều xây dựng hang đá của riêng nhà mình.
Hang đá to lớn, bích họa tinh xảo, tượng đá trong hang tinh tế sinh động; phía trước hang đá có xây dựng mái hang, hình thành một loạt các cung điện đứng san sát vững vàng trên vách đá. Mỗi một tòa đều nối với nhau bằng sạn đạo, tầng tầng lớp lớp vắt ngang trên vách đá; đứng trên sạn đạo nhìn lại có thể thấy sông Đãng Tuyền trước mắt đang uốn quanh tỏa sáng lấp loáng, xa hơn là cát vàng từng đống, khí thế hùng vĩ.
Lúc này sắc trời đã tối, trong hang Phật đã lên đèn; từ xa xa nhìn lại, trên vách đá Phật đăng sáng rực, dường như nơi đây là Phật quốc trên trời. Huyền Trang giơ đuốc đi ra từ hang nhà họ Địch, Lý Thiền nói. “Sư phụ, hội đấu giá ở chùa Thánh Giáo đã bắt đầu rồi.”
Huyền Trang gật đầu, hai người hết sức thận trọng bước theo sạn đạo trên vách đá đi xuống. Bên cạnh xây một số nhà cửa đơn sơ bằng gạch mộc, người đào hang mở hang Phật cũng đã làm xong phần việc của ngày hôm nay, giờ đang ăn cơm. Có một số người đang bàn tán về hội đấu giá trong chùa Thánh Giáo, dự định ăn cơm xong sẽ đi xem hội.
Chùa Thánh Giáo nằm ở ngay phía dưới vách đá, chính là một trong tam đại tự Đôn Hoàng, mặc dù quy mô không phải lớn nhất nhưng lại là ngôi chùa cổ kính nhất. Tấm biển sơn môn của ngôi chùa này là do đại thư pháp gia Sách lĩnh thời Tây Tấn tự tay đề lên.
Hội đấu giá được tổ chức trong viện Vô Lượng của chùa Thánh Giáo.
Bố cục của viện Vô Lượng này lại hơi tương tự với nhà cửa thế tục: Một tòa viện hình vuông, ở giữa là chính đường cao lớn, có điều bốn phía của chính đường này không có tường; bốn cây cột to lớn chống đỡ nóc nhà, xung quanh treo màn trướng giống như sân khấu kịch lộ thiên. Trên thực tế, chính đường của viện Vô Lượng cũng vừa khéo đúng là nơi để biểu diễn tạp kỹ và kể chuyện.
Xung quanh chính đường bày ba mươi mấy chiếc ghế dựa, Địch Pháp Nhượng ngồi ở chủ vị, bên phải là một ông lão vẻ mặt trang nghiêm, mặc quan phục chính ngũ phẩm, bên trái là một ông lão râu dài mặc bào phục cổ tròn. Địch Xương ngồi đầu tiên bên dưới Địch Pháp Nhượng. Tiếp đến theo thứ tự đều là một đám phú thương cự giả, quan to hiển quý; trên bàn ăn của mọi người bày đầy rượu thịt, tất cả đều đang cười nói hàn huyên, cùng nhau ăn uống.
Ở giữa chính đường thì dựng một đài gỗ hai bậc, bậc dưới cách mặt đất một thước, bậc trên cách mặt đất ba thước, trên đỉnh buông xuống tám tấm tơ lụa. Trên bậc thứ nhất là tám nhạc kỹ trẻ tuổi xinh đẹp đang diễn tấu, họ chia ra ngồi hai bên, trang điểm và phục sức như tiên nữ; nhạc cụ trong tay mỗi người đều khác nhau, có tỳ bà, không hầu, yêu cổ và sanh. Phía trước các nhạc kỹ là một nhóm vũ kỹ mặc áo lụa mỏng đai dài, xách lẵng hoa đuổi nhau quanh đài gỗ; các nàng nhịp nhàng di chuyển, trên đường đi rải hoa tươi khắp nơi, tha thướt như tiên.
Trên bậc thứ hai của đài gỗ trải thảm lông cừu trang trí ô vuông đang có một nhóm vũ kỹ như tiên nữ khiêu vũ, các nàng đầu đội bảo quan, cổ đeo vòng ngọc, bên hông thắt dải lụa dài màu lục, bên dưới mặc quần dài. Họ chia thành từng cặp bay múa cùng nhau, lướt như bóng nhạn, mềm mại như rồng bơi, lại phảng phất như mây nhẹ nhàng trôi dưới trăng, phiêu diêu tựa tuyết trắng đang bay trong gió. Một trận vũ nhạc cao thấp đan xen, dưới trên trùng điệp, xung quanh hoa tươi bay lượn, lụa dài bay khắp không trung, quả thực là tựa như bích họa sống lại, Phật quốc giáng trần.
Trong sân dưới chính đường bày hàng trăm chiếc ghế gấp, lúc này đã ngồi đầy người, có người là thợ thủ công của các phường hội, có người là bách tính Đôn Hoàng tham gia hội đấu giá xem cảnh náo nhiệt. Lúc này đã là giờ giới nghiêm, không thể về nhà được nữa, mọi người đều đã chuẩn bị từ sớm, ai cũng tự mang rượu thịt và ghế gấp cho mình, xem hội xong sẽ tìm một chỗ rồi ngủ luôn tại chùa Đại Thừa.
Huyền Trang và Lý Thiền từ trong đám người chen vào, không ngờ lại nhìn thấy người kể chuyện quen biết tại trạm dịch Ngư Tuyền là Lưu Sư Lão, nữ đồ đệ Yên Nương ôm tỳ bà im lặng đứng sau lưng ông ta. Lưu Sư Lão nhìn thấy Huyền Trang, vội vàng chắp tay. “Pháp sư, ngài cũng đến rồi!”
“Bần tăng tới để mở mang kiến thức.” Huyền Trang hỏi, “Lưu công đến đây để giảng xướng?”
“Không dám xưng Lưu công!” Lưu Sư Lão được ưu ái quá mà sợ. “Đã giảng xướng xong rồi, giờ cũng ở lại đây xem cảnh náo nhiệt.”
Hai người đang hàn huyên thì Địch Xương ngồi trên chỗ cao đã dễ dàng nhìn thấy Huyền Trang, ông ta vội vàng đứng dậy, nghênh đón Huyền Trang và Lý Thiền vào chính đường. Trước hết ông ta phân phó dừng vũ nhạc, đợi đám vũ kỹ và nhạc kỹ nối đuôi nhau đi ra ngoài.
“Pháp sư, để lão phu giới thiệu với ngài.” Địch Xương kéo Huyền Trang đi tới bên cạnh quan chức ngũ phẩm kia. “Vị này chính là Tôn Trưởng sử ở Tây Sa Châu, tên húy Tra Liệt.”
Tất cả mọi người ở đó đều biết thân phận của Huyền Trang, Tôn Tra Liệt không dám thờ ơ, đứng dậy cúi người thi lễ. Huyền Trang cũng đã gặp người này ở trạm dịch châu thành, chính là quan lại kinh thành bị biếm trích đến đây, tự xưng Cô Cảnh, là nhân vật khiến Vương Quân Khả cực kì đau đầu nhưng lại không làm gì được.
Địch Xương lại giới thiệu ông lão mặc bào phục cổ tròn bên trái Địch Pháp Nhượng. “Pháp sư, vị này là gia chủ của Lệnh Hồ thị, Đức Mậu công.”
Lý do Huyền Trang đến đây chính là vì người này, ngài tỉ mỉ quan sát Lệnh Hồ Đức Mậu. Người này tuổi đã lục tuần, thân hình cao lớn, khuôn mặt cứng nhắc như ván gỗ, khó mà thấy được biểu cảm, nhưng không thiếu sự ung dung của Thế gia đại tộc.
Lệnh Hồ Đức Mậu nhìn Huyền Trang một cái thật sâu. “Nghe nói pháp sư muốn tây du Thiên Trúc, nhưng lại bị người ngăn trở?”
Huyền Trang cười cười. “Chỉ là có Hồng nguyện như vậy mà thôi.”
Lệnh Hồ Đức Mậu nói một cách dứt khoát. “Mặc dù Lệnh Hồ thị ta gia truyền thi thư nhưng cũng nhất tâm kính Phật. Nếu pháp sư muốn đi, trong vòng ba ngày, Lệnh Hồ thị ta sẵn sàng giúp pháp sư vượt qua quan ải, hộ tống dọc đường tới Y Ngô. Chỗ Lý Đô đốc Lương Châu để lão phu nói đỡ.”
Huyền Trang yên lặng một lát, cười cười. “Đợi bần tăng xử lý xong chuyện riêng ở Đôn Hoàng sẽ trở lại bái cầu Lệnh Hồ công.”
“Trong vòng ba ngày.” Lệnh Hồ Đức Mậu nhìn chằm chằm Huyền Trang, cũng yên lặng một lát, sau đó dựng thẳng ngón tay lên. “Qua tháng này chỉ sợ sa mạc khó đi, quan ải hiểm trở, pháp sư vĩnh viễn không thể nào tới được Tây Vực.”
Trong thời gian ngắn, giữa hai người đã va chạm tóe lửa, lời nói giấu dao. Ngay cả Địch Xương cũng cảm thấy bầu không khí căng thẳng, nhất thời không biết làm thế nào.
Huyền Trang vẫn mỉm cười. “Vài ngày trước bần tăng vừa nói với đệ tử một câu, rằng ‘Từ xưa đến nay tăng lữ tây du đếm không hết, nhưng kết cục là người đời chỉ biết tới mỗi Pháp Hiển, vì sao? Bởi vì những người khác đều đã chết ở trên đường rồi.’ Bần tăng sẵn sàng làm một bộ xương khô trên con đường cầu pháp ấy.”
Lệnh Hồ Đức Mậu dứt khoát ngậm miệng, không nói một lời.
Địch Xương vội vàng kéo Huyền Trang tới gặp các vị khác, đều là những người có máu mặt ở Đôn Hoàng.
Địch Pháp Nhượng sai người bày hai chiếc ghế dựa bên cạnh mình, mời Huyền Trang và Lý Thiền ngồi xuống. Lúc này bốn thị nữ đi tới dỡ đài gỗ tầng hai đi, mang lên một chiếc bàn Hồ cao năm thước, bên trên trải thảm lông cừu chu đáo. Một người mập mạp tròn xoe mặt mang ý cười trèo lên đài gỗ, giơ hai tay lên hơi đè xuống một chút, xung quanh tức thì yên tĩnh lại.
“Tại hạ Đinh Thủ Trung, là tự khanh của chùa Thánh Giáo, quản lý một số việc vặt tục gia trong chùa,” Đinh Thủ Trung cười ha ha nói. “Được các vị hiển đạt xem trọng, đề cử tại hạ làm người chủ trì cuộc đấu giá này, tại hạ rất kinh sợ, trọng lượng gần hai trăm cân đè xuống khiến hai chân phải run rẩy. Thấy báu vật hiếm có sắp được đưa ra, các vị không thể ngồi chờ quá lâu, tại hạ cũng không thể đứng được quá lâu, vậy nên chúng ta liền bắt đầu hội đấu giá!”
Đám người trong đình viện phát ra tiếng hoan hô.
Đinh Thủ Trung lớn tiếng hô lên. “Thưa các ông chủ và chủ sự hãng buôn cần đấu giá, trước đó các vị đều đã nhận được một tấm thẻ tre, số trên thẻ tre chính là thứ tự các vị lên đài giới thiệu về hàng hóa và bảo bối của mình. Mời các vị lên đài theo thứ tự, giới thiệu ngay tại chỗ, do mọi người ở đây trả giá. Không có quy củ nào khác, người trả giá cao nhất sẽ mua được món hàng!”
Đây là lần đầu tiên Huyền Trang được xem đấu giá, cảm thấy rất hứng thú.
Người lên đài đầu tiên là một thương nhân người Hồ tới từ Tây Vực, nhìn dáng vẻ và cách ăn mặc thì giống như người Túc Đặc. Theo sau ông ta là hai cô gái người Hồ tóc vàng mắt xanh đến từ Tây Vực, mỗi người nâng một chiếc hộp gỗ, hộp gỗ vừa mở ra đã tỏa sáng lấp lánh chói mắt dưới ánh đèn chiếu sáng.
“Thưa các vị, đây chính là xích pha lê và lục kim tinh!” Thương nhân người Hồ dẫn theo hai cô gái lần lượt đi đến giới thiệu trước mặt các vị quan to và quý nhân trong chính đường.
Huyền Trang cũng cầm trong tay cảm nhận một lát, xích pha lê có màu đỏ đậm, trong suốt như nước, xuyên qua pha lê có thể thấy rõ được đường chỉ tay, cảm giác trơn nhẵn, ánh sáng lấp lánh. Lục kim tinh lại không phải màu lục mà là màu trắng nhạt nửa trong suốt, bên trong có một quầng màu lục nhạt, lờ mờ như bọc một vầng trăng sáng lành lạnh.
“Năm Trinh Quán nguyên niên, đương kim Bệ hạ, Thiên tử Đại Đường lên ngôi, trong số cống vật mà Hoàng đế Bái Chiêm Đình đưa tới có hai món bảo vật này.” Thương nhân người Hồ rất biết cách bán hàng, trước hết kể một câu chuyện để kích thích người mua. “Hai món bảo bối này cực kì hiếm thấy, xích pha lê sinh ra trong đất, chính là băng nghìn năm hóa thành. Còn lục kim tinh thì là ngọc tinh trên đỉnh núi cao, nghìn vạn năm được nhật nguyệt chiếu sáng, hấp thu nguyên khí của nhật nguyệt ngưng kết trong đó mới hình thành quầng sáng màu lục nhạt này, thật sự là thần vật mà Thượng đế… à không, là tiên nhân ban xuống cho nhân gian!”
Huyền Trang bật cười, Địch Pháp Nhượng bên cạnh thấp giọng hỏi. “Chẳng lẽ pháp sư nhận ra bảo bối này?”
“Đúng là xích pha lê sinh ra trong đất, nhưng không phải do hàn băng nghìn năm gì biến thành, chỉ là một loại lưu ly trong suốt thôi.” Huyền Trang thấp giọng giải thích. “Trong Bão phác tử của Cát Hồng có ghi lại, nguyên liệu làm ra lưu ly được lấy từ đất cát, do dùng năm loại nguyên liệu tiến hành thiêu chế mà thành. Cụ thể thì bần tăng cũng không biết, có điều theo sách sử ghi lại, loại nguyên liệu này đến từ nước Kế Tân. Ngoài ra còn có bích pha lê đến từ Bạt Hãn Na, Hồng pha lê đến từ Thổ Hỏa La, xích pha lê thì đúng là do Bái Chiêm Đình làm ra.”
Địch Xương cũng tò mò. “Pháp sư quả nhiên thông thái, vậy còn lục kim tinh? Quả thực là được ngưng kết từ nguyên khí của nhật nguyệt sao?”
“Tuyệt đối không phải.” Huyền Trang chần chừ một lát. “Xem hình dạng thì loại ngọc thạch này hơi giống với pha chi ca được ghi lại trong kinh Phật. Vật ấy hẳn là đến từ một đảo quốc gọi là nước Sư Tử ở phía nam Thiên Trúc. Loại đá này giống như ngọc, đào ra từ trong khoáng thạch.”
“Hừ, đám người Túc Đặc này, vì lợi ích mà không từ một thủ đoạn nào.” Địch Xương lạnh lùng hừ một tiếng. “Vì tiền vì lợi, cái gì cũng dám bịa ra được.”
“Đều là do Lý thị đó làm hỏng môn phong!” Lệnh Hồ Đức Mậu cười lạnh lùng. “Đường đường là hậu duệ của Vũ Chiêu Vương, vậy lại học theo người Túc Đặc thành lập đội buôn, buôn bán kiếm lời!”
Đám người Địch Pháp Nhượng, Địch Xương và Tôn Tra Liệt bên cạnh nhìn nhau một cái, trên mặt Địch Xương lộ vẻ xấu hổ, chỉ làm như không nghe thấy.
Những người xung quanh ồn ào, tạm không nói đến góc độ thần tiên của xích pha lê và lục kim tính, chỉ riêng chuyện đây là cống vật mà Hoàng đế Bái Chiêm Đình tặng cho Hoàng đế Đại Đường đã làm cho vô số con em danh gia vọng tộc đổ xô vào. Sau một hồi báo giá, một người trong chi chính của Âm thị đã mua được với giá cao nhất là bảy trăm bốn mươi quan.
Bảo bối thứ hai cũng do thương nhân người Hồ mang đến, không hề quý hiếm, là mười thùng gỗ sồi chứa đầy mười tạp bì xích rượu nho, được chở tới từ Tát Mã Nhĩ Hãn xa vạn dặm, nghe nói đã trữ dưới hầm mười năm. Thương nhân người Hồ kia mở một thùng, rót một chút cho mọi người đánh giá, tốt hơn nhiều so với rượu bản địa Đôn Hoàng tự ủ, màu như hổ phách, hương say lòng người.
Có một thương gia giàu có mua được với giá năm trăm quan một thùng.
Bảo bối thứ ba còn chưa được đưa lên chính đường đã khiến cho toàn bộ trên dưới phải xôn xao. Một chủ sự của hãng buôn Lý thị dắt lên một con hãn huyết bảo mã vai cao tám thước! Con ngựa này toàn thân vàng nhạt, đầu nhỏ cổ cao, bốn vó thon dài, vóc dáng cân xứng, phía dưới lưng còn có vằn tối màu, đây chính tà vằn hổ.
Đời sau có thơ. “Thiên mã đền từ hang Nguyệt Chi, lưng có vằn hổ xương cánh rồng”.
Tôn Tra Liệt yêu ngựa đến mức mê mẩn, bất chấp tất cả xông lên sờ lưng con ngựa đó, thấy hai bên xương sống ngựa có hai thăn thịt chạy dọc.
“Xương cánh rồng! Quả nhiên là hãn huyết bảo mã!” Tôn Tra Liệt run run kêu lên. “Lão phu… lão phu cả đời cùng ngựa làm bạn, chưa bao giờ gặp vằn hổ cánh rồng, hãn huyết bảo mã thật sự! Con… con ngựa này ở đâu ra?”
“Hồi bẩm Tôn Trưởng sử.” Chủ sự cung kính ôm quyền, cao giọng nói với mọi người bên dưới. “Thiên mã này chính là do đội buôn người Hồ quen biết của Lý thị ta, năm ngoái ra đại tuyết sơn về tây, đi xa vạn dặm đến thành Tát Mã Nhĩ Hãn, bái kiến vua Đại Thất Tất của Khang Quốc, lấy nghìn cuộn lụa tím mới đổi được một con!”
Mọi người kinh hãi hít một hơi! Hãn huyết bảo mã có ý nghĩa gì đối với người Trung Nguyên, trên