← Quay lại trang sách

Chương 7 Khói lửa, cấp báo và-bí ẩn năm Vũ Đức thứ chín

Từ thành Đôn Hoàng đi về phía chính bắc là đường Sáo Can đi đến nước Y Ngô và nước Cao Xương, toàn bộ hành trình dài bảy trăm dặm; trên đường đi lại chỉ có ba trạm dịch kiêm nơi phòng thủ là Dao Tử Thú, Thanh Đôn Thú và Hàm Tuyền Thú. Hàm Tuyền Thú cũng là biên giới Đại Đường, tiếp tục hướng về phía bắc chính là địa giới của nước Y Ngô.

Năm Vũ Đức thứ chín, Đột Quyết công phá Hàm Tuyền Thú, Thứ sử Tây Sa Châu khi đó là Đỗ Dữ mới vội vàng phái Trấn tướng Tử Kim là Hoàng Tục Chương cùng với Lữ Thịnh làm tiên phong, cố gắng chặn đánh người Đột Quyết ở phía bắc Thanh Đôn Thú. Bởi vì Thanh Đôn Thú chặn ở cửa nam khe núi Thanh Đôn nên một khi người Đột Quyết đột phá khe núi Thanh Đôn, tiếp tục xuôi nam chính là sa mạc Gobi hoàn toàn bằng phẳng, không có nơi hiểm yếu để phòng thủ, chỉ cần đi một trăm dặm là có thể đi vào giữa bụng Đôn Hoàng rồi.

Ba người Huyền Trang, Lý Thiền và Ngư Tảo ra khỏi Đôn Hoàng, đi tiếp ba mươi dặm liền vào sa mạc lớn trên đường Sáo Can. Vương Quân Khả biết rõ sự khó khăn trên đường Sáo Can nên cử bốn gã bộ khúc đi theo ba người, dắt sáu con ngựa thồ chở đầy lương khô, nước uống và chăn thảm.

Sa mạc này là một vùng chết chóc kéo dài bảy trăm dặm, thi thể của một dòng sông chết khô cạn uốn lượn hong gió trên sa mạc, thậm chí có thể nhìn ra được những dấu vết chỗ đậm chỗ nhạt của mực nước trên thi thể ấy. Có điều dòng sông này đã hoàn toàn không có sự sống, trên không có chim bay, dưới không có thú chạy, lại càng không có cỏ nước.

Người Đôn Hoàng gọi đây là Quỷ Mị Thích, gọi đầy đủ là Đại Hoạn Quỷ Mị Thích!

“Huyền Trang đã vào Quỷ Mị Thích!”

Một canh giờ sau khi đám người Huyền Trang đi vào Quỷ Mị Thích, một kỵ sĩ thúc khoái mã chạy vào hương Lệnh Hồ ở cách phía bắc thành Đôn Hoàng mười lăm dặm.

Tám sĩ tộc lớn đều có phủ đệ trong thành Đôn Hoàng, có điều phần lớn tộc nhân phân tán ở các huyện và các hương, như hương Lệnh Hồ là nơi họ Lệnh Hồ chiếm đa số. Bởi vì nằm ở biên cương nên phần lớn các hương có xây ổ bảo, tường bảo đầm vách đất vừa cao vừa dày, giống như một thành trì nhỏ. Hàng ngày bách tính cư trú ở trong ổ bảo, trồng trọt trăm nghìn khoảnh ruộng tốt ngoài ổ bảo.

Lúc này ở ngoài cửa ổ bảo hương Lệnh Hồ có một đội buôn đang chờ xuất phát, bảy mươi tên nô bộc đều là đàn ông khỏe mạnh trên hai mươi tuổi, dưới ba mươi tuổi, đang chất hàng hóa cùng vật tư như lương thực với nước uống lên xe ngựa thồ và lạc đà. Chủ sự của đội buôn nhận được tin tức kỵ sĩ mang đến, lập tức đi vào trong ổ bảo, tới tổ trạch của Lệnh Hồ thị Đôn Hoàng ở mặt bắc ổ bảo. Bên cạnh tổ trạch là từ đường, thờ phụng linh vị các đời tổ tiên của Lệnh Hồ thị.

Trong chính đường của tổ trạch là tám ông lão đang ngồi, lần lượt là gia chủ của bảy sĩ tộc lớn tại cuộc họp kín phán cung gồm Địch Xương, Trương Tệ, Sách Ung, Phiếm Nhân Kiệt, Âm Thế Hùng và Tống Thừa Đảo; còn ngồi ở bên trên chủ vị của Lệnh Hồ Đức Mậu lại là anh cả của Lệnh Hồ Đức Mậu, Lệnh Hồ Đức Mông.

Lệnh Hồ thị thế hệ này có bốn huynh đệ, lão nhị Lệnh Hồ Đức Anh làm quan ở châu khác, lão tứ Lệnh Hồ Đức Phân làm quan ở triều đình, ở lại trong tộc là anh cả Lệnh Hồ Đức Mông và lão tam Lệnh Hồ Đức Mậu.

Mặc dù hiện giờ Lệnh Hồ Đức Mậu là gia chủ nhưng chỉ là nhân vật được đặt lên mặt bàn, còn linh hồn thật sự của Lệnh Hồ thị chính là vị Lệnh Hồ Đức Mông này. Xưa nay ông ta ẩn cư không ra mặt, lại khống chế cả môn phiệt Lệnh Hồ từ xa. Các gia chủ khác cũng đều biết rõ cơ cấu quyền lực của Lệnh Hồ thị, cực kì cung kính với Lệnh Hồ Đức Mông.

Mấy năm qua Lệnh Hồ Đức Mông không gặp người ngoài, ai cũng không biết ông ta đang ẩn cư ở đâu, hôm nay cũng vì phải chủ trì đại sự này nên mới trở lại tổ trạch của Lệnh Hồ thị.

Hiện giờ Lệnh Hồ Đức Mông đang mỉm cười. “Ý của Tệ công ta đã hiểu, việc ngài không muốn gả Điệu Nương cho nhà họ Vương chỉ là chuyện nhỏ. Đây là việc riêng của nhà họ Trương, những người khác không cần phải nói gì thêm nữa. Chỉ là một Vương Quân Khả tầm thường, đắc tội với hắn ta thì sao chứ, chẳng có gì là to tát cả.”

“Đa tạ Đức Mông công thông cảm.” Trương Tệ ôm quyền cảm ơn.

“Giờ đây kẻ thù lớn nhất của sĩ tộc Đôn Hoàng ta không phải Vương Quân Khả gì đó, mà là Khuê Mộc Lang đang chiếm cứ Ngọc Môn Quan,” Lệnh Hồ Đức Mông nói. “Vương Quân Khả chỉ là một tên hề nhảy nhót làm trò, nhưng Khuê Mộc Lang lại là người thật sự có thể cắt đứt được căn cơ của sĩ tộc ta. Đối thủ này thậm chí còn đáng sợ hơn cả Lữ Thịnh năm ấy.”

Mọi người không nghĩ tới Lệnh Hồ Đức Mông lại đề cập đến cái tên này, kinh ngạc một lát mới dám nhớ về cái tên năm ấy đã làm cho người ta phải đau tận xương cốt, đều không khỏi rùng mình một cái.

“Nếu Đức Mông công không nhắc đến, lão phu cả đời cũng không muốn nhớ lại kẻ này.” Trương Tệ cười khổ.

Gia chủ Âm thị Âm Thế Hùng nói lớn tiếng. “Bảy trăm năm qua, có đời nào không xuất hiện kẻ dám can đảm khiêu chiến sĩ tộc? Kể cả một kẻ đáng sợ như Lữ Thịnh vẫn thân bại danh liệt, Khuê Mộc Lang là cái thá gì? Chúng ta đồng lòng nhất trí, còn sợ không tiêu diệt được nó hay sao?”

Lệnh Hồ Đức Mông khen. “Âm công nói phải, chi cần mọi người đồng lòng nhất trí tru diệt Khuê Mộc Lang, lão phu sẽ không nói thêm một lời nào nữa. Những chuyện khác đều là tiểu tiết, chỉ ảnh hưởng một chút đến lợi ích của các nhà, đảm đương một chút là xong thôi.”

“Huynh trưởng,” Lệnh Hồ Đức Mậu nói. “Chuyện Huyền Trang muốn đến Thanh Đôn Thú, hôm qua ta đã thông qua đội buôn truyền đến bên Ngọc Môn Quan, phỏng chừng Khuê Mộc Lang nghe thấy tin tức này sẽ đến Thanh Đôn Thú làm khó dễ Huyền Trang. Ta cùng sáu vị gia chủ đã chuẩn bị xong nhân thủ, mỗi nhà mười người, đều là những bộ khúc tinh nhuệ nhất, đóng giả thành đội buôn lẻn vào Thanh Đôn Thú mai phục, ắt có thể làm cho Khuê Mộc Lang có đến mà không có về.”

“Nhưng vẫn còn một việc,” Địch Xương trầm ngâm nói. “Vũ khí đám bộ khúc này của chúng ta mang theo đều là vũ khí tư binh như hoành đao, cung tên, vân vân. Sức sát thương lớn hơn như áo giáp, nỏ và giáo mác đều là vũ khí bị cấm, theo luật không được giữ. Nhưng không có những vũ khí này, muốn đối phó với Khuê Mộc Lang sợ là không dễ.”

Lệnh Hồ Đức Mông lắc đầu. “Địch công, pháp lệnh chính là pháp lệnh, sĩ tộc Đôn Hoàng ta gia đại nghiệp đại, hành sự phải đặc biệt cẩn thận. Khuê Mộc Lang có thể từ từ tiêu diệt, triều đình phải luôn luôn tôn trọng.”

“Là ta lỗ mãng rồi.” Địch Xương ôm quyền.

“Ngài sốt ruột, chúng ta cũng sốt ruột chứ!” Lệnh Hồ Đức Mông thở dài. “Ta đã ngoài thất tuần, chính mình cũng ngửi thấy mùi mục nát suy bại trên thân thể rồi, nhưng ngày nào chưa diệt được Khuê Mộc Lang, ngày đó ta còn chưa dám chết.”

Lệnh Hồ Đức Mậu đỏ mắt, nói nhỏ. “Huynh trưởng, là ta vô dụng để huynh trưởng phải vất vả.”

Trương Tệ nói, “Nhưng, Đức Mông công, Địch huynh lo lắng cũng có lý. Cho dù Khuê Mộc Lang thật sự đến Thanh Đôn Thú làm khó dễ Huyền Trang thì bảy mươi người của chúng ta cũng không bắt được nó! Dù sao mấy ngày trước ở hang Mạc Cao, ba trăm trấn binh của tiểu lang quân cũng không giữ được nó lại.”

Âm Thế Hùng cười. “Khuê Mộc Lang kia chính là yêu thần giáng trần, dùng thủ đoạn của phàm nhân tất nhiên không thể bắt được nó. Nếu thật sự phải dựa vào nhân lực, chớ nói tới bảy mươi người của chúng ta, kể cả là bốn trăm người cũng sợ rằng khó mà làm được.”

“Sao?” Trương Tệ kinh ngạc. “Vậy vì sao các ngài còn phải tụ tập những bộ khúc này?”

Lệnh Hồ Đức Mông cười. “Chỉ là để thể hiện quyết tâm cùng tiến thoái của các nhà thôi. Kẻ thật sự giết chết Khuê Mộc Lang là một người khác! Lần này nhờ phúc của Thế Hùng công, chúng ta đã mời được cao nhân từ Trường An tới. Đức Mậu, đi mời Lý Tiến sĩ tới đi!”

Những người khác hiển nhiên cũng không biết việc này, cùng nhìn về phía Âm Thế Hùng. Âm Thế Hùng đưa tay vuốt râu, cười thần bí.

Lệnh Hồ Đức Mậu đi không bao lâu đã dẫn mười người đàn ông khoác áo choàng màu đen lặng yên quay trở về đại đường. Người đi đầu là một người đàn ông nho nhã khoảng hai mươi lăm hai mươi sáu tuổi, chín người khác hiển nhiên đều là tùy tùng, không nói một lời đứng sau lưng hắn, im lặng như những pho tượng.

“Lý Tiến Sĩ…” Địch Xương kinh ngạc nói. “Vị này là Tiến sĩ của phường hội nào?”

Âm Thế Hùng do dự một lát. “Vị này không phải Tiến sĩ của phường hội, thân phận của hắn có chút bí ẩn, không tiện nói rõ, Địch huynh chỉ cần biết Lý Tiến sĩ thần thông quảng đại, có thể giết chết Khuê Mộc Lang kia, thế là đủ rồi.”

Lý Tiến sĩ cười cười. “Đã đến rồi thì cũng không cần phải che giấu về thân phận của ta, các vị gia chủ ở đây đừng truyền ra ngoài là được.”

Sắc mặt của các vị gia chủ đều nhất thời trở nên nghiêm nghị, Âm Thế Hùng vẫn hơi chần chừ.

Lý Tiến sĩ cười nói, “Tại hạ họ Lý, tên Thuần Phong, là Tiến sĩ chú cấm đến từ khoa Chú cấm của Thái y viện ở Trường An. Những người này đều là đồng liêu của ta trong khoa Chú cấm, gồm một chú cấm sư, bốn chú cấm công và bốn chú cấm sinh.”

Đám người Địch Xương kinh hãi hít một hơi. “Khoa Chú cấm của Thái y viện? Âm huynh, chẳng lẽ ngài sử dụng quan hệ của Hoàng phi?”

“Đúng thể.” Âm Thế Hùng gật đầu. “Khuê Mộc Lang là thần linh trên trời hạ phàm mà thành yêu nghiệt, bây giờ cao nhân hàng yêu số một của Đại Đường ta là đại sư Viên Thiên Cương. Nhưng đại sư tuổi tác đã cao, bình thường lại chu du thiên hạ nên rất khó mời tới; còn khoa Chú cấm của Thái y viện là do đại sư Viên Thiên Cương sáng lập ra, vị Tiến sĩ Lý Thuần Phong này chính là môn đồ mà ông ấy đắc ý nhất.”

Mọi người nhất thời cau mày, cũng không biết nên mừng hay nên lo.

Khoa Chú cấm được lập ra từ thời nhà Tùy, trực thuộc Thái y viện, chuyên phục vụ cho hoàng gia, thông qua dùng thuật chú cấm diệt tà mị quỷ quái để trị bệnh tật. Cơ cấu của khoa gồm có một Tiến sĩ chú cấm, hai chú cấm sư, tám chú cấm công và mười chú cấm sinh.

Thực ra việc xây dựng khoa Chú cấm là đề xuất của danh y Tôn Tư Mạc. Tôn Tư Mạc cho rằng có năm cách chữa bệnh là thuốc thang, châm cứu, cấm chú, phù ấn và đạo dẫn. Ngài còn chuyên môn biên soạn Hai mươi hai thiên cấm kinh để dùng làm tài liệu giảng dạy, dạy dỗ học trò thuật chú cấm để diệt tà mị quỷ quái. Hai mươi hai thiên này thu thập sở trường của các nhà, có đạo cấm dùng pháp môn của đạo thuật và chú cấm dùng pháp môn của Phật gia.

Thời Vũ Đức, Hoàng đế tái thiết khoa Chú cấm, Viên Thiên Cương chỉ chấp chưởng mấy năm ngắn ngủi, sau khi truyền thụ xong Hai mươi hai thiên cấm kinh, dạy dỗ ra mấy tên môn đồ rồi thì thảnh thơi rời đi. Vị Tiến sĩ Lý Thuần Phong này vốn là đạo sĩ ở Lâu Quan Đài, núi Chung Nam, chính là đệ tử thân truyền của Viên Thiên Cương. Tháng Sáu năm nay, Lý Thế Dân mời Lý Thuần Phong từ núi Chung Nam đến chấp chưởng khoa Chú cấm. Phẩm tước của Tiến sĩ chú cấm là Tướng sĩ lang, chỉ là quan tòng cửu phẩm hạ nhỏ nhất, nhưng Lý Thuần Phong không hề để ý.

Khoa Chú cấm chỉ phục vụ hoàng gia, không hề được người ngoài biết đến, có điều những người ở đây đều là gia chủ sĩ tộc, tất nhiên biết về cơ cấu ấy. Có thể dùng một khoa trấn áp tai họa trong hoàng cung, chức quan của Lý Thuần Phong này tuy nhỏ nhưng lại là bậc cao nhân, tiêu diệt Khuê Mộc Lang là chuyện không cần phải nghi ngờ gì. Nhưng… khoa Chú cấm dính dáng đến hoàng thất, chẳng lẽ ân oán của sĩ tộc Đôn Hoàng và Khuê Mộc Lang lại bị hoàng gia biết được? Vừa nghĩ tới điều đó, các gia chủ đều không rét mà run.

Âm Thế Hùng nhìn ra sự bất an của các vị gia chủ, thấp giọng giải thích. “Hai tháng trước ta viết thư cho Hoằng Trí, để Hoằng Trí vào cung thuyết phục Hoàng phi. Là Hoàng phi bí mật truyền ý chỉ mời Lý Tiến sĩ đến Đôn Hoàng.”

Lúc này các gia chủ mới hơi thở phào nhẹ nhõm.

Lý Thuần Phong cười nói, “Tại hạ phụng ý chỉ của Hoàng phi đến Đôn Hoàng trừ tà ma cho Âm lão phu nhân. Khuê Mộc Lang này chỉ là một chút chuyện nhỏ bên cạnh chính sự mà thôi. Những chú cấm công và chú cấm sinh tại hạ mang theo đây là vừa thi đỗ sau đợt khoa cử năm nay, học tập chưa lâu, thần linh hạ giới chính là chuyện trăm năm khó gặp, vì thế tại hạ dẫn bọn hắn tới gặp vị thần linh trên trời này.”

Lệnh Hồ Đức Mông cười. “Khuê Mộc Lang kia quả thật khó gặp, mấy năm qua nó tàn phá Đôn Hoàng, thần thông kỳ lạ. Từ trước đến nay Âm thị và Sách thị luôn nổi tiếng về pháp thuật, vậy mà lại nhiều lần thua thiệt ở trước mặt nó. Lần này tất nhiên Lý Tiến sĩ sẽ được mở rộng tầm mắt.”

Đúng lúc ấy, gã chủ sự đội buôn xuôi tay nhẹ nhàng đi vào chính đường. “Khởi bẩm gia chủ, vừa nhận được tin tức, Huyền Trang đã đi vào Quỷ Mị Thích.”

Mọi người chấn động trong lòng, lập tức im lặng như tờ.

Lệnh Hồ Đức Mông vỗ vỗ tay. “Vào đi!”

Lệnh Hồ Chiêm và Sách Dịch im lặng đi vào từ phía sau, cúi người thi lễ. Sách Dịch hai tay đeo xiềng xích, vẻ mặt ủ rũ.

“Sách Dịch.” Sách Ung nhìn ông ta bằng vẻ mặt chán ghét. “Ngươi phản bội gia tộc, vốn nên xử tử theo gia quy, có điều niệm ngươi còn có chút công lao, hãy đi cùng với Lý Tiến sĩ giết Khuê Mộc Lang đi. Lần này không cần trở về nữa, cũng không cần quy táng tổ phần. Nếu có thể lập nên công lao, con cháu của ngươi vẫn sẽ được ở trên gia phả.”

Sách Dịch không nói gì, bình tĩnh giơ cánh tay lên. Lệnh Hồ Chiêm lấy chìa khóa ra mở xiềng xích.

Lệnh Hồ Đức Mông điềm đạm nói, “Chiêm Nhi, ngươi đã nhàn rỗi ở nhà, vậy thì lần này dẫn đội đi đi. Ân ân oán oán, vẫn phải do chính ngươi kết thúc!”

“Đa tạ bá phụ.” Lệnh Hồ Chiêm quay đầu sang nhìn Lệnh Hồ Đức Mậu. “Phụ thân, nếu hài nhi công bại thân tử, cũng không cần thu nhặt hài cốt, không cần quy táng tổ phần!”

Trong Quỷ Mị Thích, đám người Huyền Trang, Lý Thiền và Ngư Tảo đi nhanh trên đường, ngày đầu tiên còn tốt, lúc trời tối đi tới trạm dịch. Lý Thiền trình công văn của phủ Thứ sử, đêm đó cả đoàn ngủ lại trong trạm dịch.

Trong trạm dịch cũng có một số đội buôn người Hồ qua lại trên đường Sáo Can, phần lớn là đến từ nước Y Ngô. Thấy Đôn Hoàng đã ở trong tầm mắt, các thương nhân đều cực kì vui vẻ, ăn uống trắng đêm.

Đám người Huyền Trang đi một ngày tám mươi dặm đường, người mệt ngựa mỏi, ngủ li bì đến khi trời sáng, ngày thứ hai tiếp tục lên bắc. Tiếp tục đi về phía bắc đồng nghĩa với việc tiến càng sâu vào Quỷ Mị Thích, chỗ đáng sợ của con đường này chính là trên đường không có nguồn nước tiếp tế. Trên thực tế nơi có nguồn nước cũng chỉ có ba thú dịch này, đây cũng là ý nghĩa của việc triều đình xây dựng căn cứ phòng thủ và ụ khói lửa. Trong sa mạc, khống chế được nguồn nước là có thể khống chế yết hầu của phạm vi trăm dặm xung quanh.

Trong Quỷ Mị Thích cực kì khó đi, có lúc nhìn là đường sa mạc chắc chắn nhưng vó ngựa vừa giẫm lên lại đạp vỡ một lớp đất mỏng manh bên trên, lún thẳng xuống cát, ngựa mà chạy nhanh rất có khả năng sẽ gãy vó ngựa. Đám người Huyền Trang không dám đi nhanh như hôm qua, chỉ ruổi ngựa thong thả tiến lên.

Đêm hôm đó họ ngủ ngoài trời. Đám bộ khúc nhặt một số cỏ lạc đà và cành liễu đỏ khô trong sa mạc, đào đất cát sa mạc rồi bắc nồi sắt nấu canh thịt cừu, ngâm bánh Hồ chiên khô cứng cho mềm ra cũng thành một món ăn. Huyền Trang không ăn canh thịt cừu, chỉ lấy nước nóng ngâm bánh Hồ. Sau đó mọi người dùng chăn nỉ quấn người, nằm xuống quanh đống lửa trên sa mạc.

Ánh sao trên sa mạc sáng đến mức nhức mắt, trời cao thăm thẳm như một chiếc lồng chụp xuống mặt đất; mùa này không có gió, tĩnh mịch như chết chóc, chỉ có những vì sao từ muôn đời nay vẫn nhìn xuống đất, hờ hững thở than sinh mệnh thật hèn mọn và ngắn ngủi.

Đêm hôm ấy Ngư Tảo lẩm bẩm nói gì đó trong mơ, ai cũng nghe không rõ nàng nói những gì.

Đêm hôm ấy Lý Thiền nằm nghiêng bên cạnh Ngư Tảo, nhìn ánh sáng từ đống lửa chiếu sáng dung nhan người đẹp, tưởng tượng rằng vũ trụ hồng hoang sẽ mãi mãi như thế, cuối cùng mang theo nụ cười ngủ thiếp đi.

Hôm sau tỉnh dậy, ai cũng bị gió cát ban đêm che phủ nửa người. Mấy người chui ra từ trong cát bụi, giũ sạch cát bụi trên người rồi tiếp tục dắt ngựa tiến về phía trước.

Ngày thứ ba lại đi năm mươi dặm, cuối cùng đoàn người tới Thanh Đôn Thú lúc trời đã tối.

Thanh Đôn Thú trấn giữ cửa phía nam của khe núi Thanh Đôn, là khe núi hình thành do núi Lỗ Khắc Tháp Cách giao với núi Bờm Ngựa, đến nơi này thế núi dần thoai thoải, đứng trên cao nhìn ra xa, hơn mười dặm xung quanh đều ở trong mắt.

Núi Bờm Ngựa có một dòng suối từ trên núi chảy xuống, biến mất trong sa mạc xa xa. Thanh Đôn Thú được xây dựng bên cạnh dòng suối, là một ổ bảo hình vuông được làm bằng đất xen lẫn với liễu đỏ và lau sậy, lưng dựa vào núi hiểm trở, mặt quay về phía cửa khe núi. Tường thành cao hai trượng, cực kì dày, bốn góc có vọng lâu, trước cổng thành có hai tòa mã diện nhô ra; ngoài ra còn xây ủng thành, người đi đường muốn đi vào ổ bảo phải đi dưới mã diện vào ủng thành, sau đó mới có thể vào trong thành. Chỗ cao phía sau trạm dịch còn xây một ụ khói lửa, giám sát phạm vi hơn mười dặm xung quanh; một khi có báo động, ban ngày thì đốt khói, ban đêm thì đốt lửa, tạo thành một tòa pháo đài phòng ngự nhiều tầng nhiều lớp.

Đám người Huyền Trang đi tới trước Thanh Đôn Thú, có hai đội buôn người Hồ dừng chân ở dòng suối bên cạnh. Họ dùng xe ngựa xếp thành một vòng, ngủ ngoài trời; các nô bộc đang dỡ hàng hóa từ ngựa thồ và lạc đà xuống, người dựng lều người bắc nồi nấu cơm, ai cũng đều hết sức bận rộn.

Trên tường thành thú dịch có thú binh qua lại tuần tra, những khách buôn này đều đã được tra nghiệm quá sở, mặc dù thú dịch không cho bọn họ vào trong nhưng sẽ cung cấp vật tư thiết yếu và bảo vệ an toàn cho họ. Đây mới là điều đội buôn thật sự cần. Khu vực sa mạc thường xuyên có tặc phỉ ẩn hiện, nương tựa vào thú dịch thì không cần phải thấp thỏm nữa.

Lý Thiền đưa công văn của phủ Thứ sử cho tên dịch trưởng họ Tôn. Tôn Dịch trưởng giật mình, đây là công văn do đích thân Vương Quân Khả truyền xuống. Dịch trưởng vội vàng mời bọn họ vào trong trạm dịch tắm rửa nghỉ ngơi, lại lệnh cho dịch tốt dắt ngựa của họ đi tắm rửa chăm sóc, chính mình đi mời Thú chủ Lâm Tứ Mã.

Thú dịch có diện tích rất rộng, bao gồm đủ các loại công trình như doanh trại của thú binh, chuồng ngựa, kho vật tư và kho vũ khí. Các căn cứ phòng thủ và báo động được triều đình chia thành ba cấp. Năm mươi người là thượng thú, ba mươi người là trung thú, dưới ba mươi người là hạ thú. Thanh Đôn Thú trấn giữ biên giới quốc gia chính là thượng thú, có tất cả năm mươi thú binh.

Thú chủ Lâm Tứ Mã chính là Phó úy Tuyên Tiết, chính bát phẩm hạ, mặc dù ở tận biên giới nhưng cũng là chức quan hiển hách ở Tây Sa Châu, phải biết Lục sự tham quân đứng thứ tư ở châu nha cũng chỉ là chính bát phẩm hạ.

Lâm Tứ Mã khoảng bốn mươi tuổi, tướng mạo cục mịch, dáng người vạm vỡ hùng tráng. Trong căn phòng u ám, trên tường treo một bức tranh Di Lặc, trước tranh có lư hương, Lâm Tứ Mã đang cầm ba nén hương cung kính quỳ trên bồ đoàn tụng kinh.

“Thú chủ!” Tôn Dịch trưởng ở ngoài cửa gọi. “Trong châu có công văn đến.”

Lâm Tứ Mã không hề để ý, niệm kinh xong cung kính cắm hương vào lư hương, sau khi vái ba vái mới mở cửa phòng.

Lâm Tứ Mã nhìn công văn trong tay Tôn Dịch trưởng nhưng không cầm lấy. “Mặc dù bây giờ ta đã biết gần trăm chữ rồi, nhưng ngươi vẫn đọc cho ta nghe đi.”

“Vâng,” Tôn Dịch trưởng cười nói. “Kỳ thực cũng không có việc gì lớn, chẳng qua là công văn Thứ sử công đích thân viết, đóng con dấu của Thứ sử. Trong công văn nói, ‘Niệm tướng sĩ thú dịch ở lâu chốn biên quan giá rét, quê quán đường xa, thân nhân mong nhớ, nay có pháp sư Huyền Trang tinh thông Phật pháp, liền mời pháp sư Huyền Trang đến thú dịch tuyên giảng Phật pháp, cầu phúc cho tướng sĩ biên quan và cha mẹ vợ con. Pháp sư có thỉnh cầu gì đều không được từ chối!’.”

Lâm Tứ Mã sắc mặt cứng đờ, ngơ ngẩn rất lâu rồi mới run rẩy tiếp nhận công văn, lẩm bẩm nói, “Những đại nhân vật này đọc sách nhiều, đúng là ruột có chín khúc. Rõ ràng đến giết người, vậy mà lại nói là thuyết giảng Phật pháp.”

“Cái gì?” Tôn Dịch trưởng ngẩn ra. “Giết người? Giết ai?”

Lâm Tứ Mã chán nản. “Có thể dựa vào Phật pháp để giết, đương nhiên là những người sống len lỏi trong các kẽ hở, ngay cả giun dế cũng không bằng.”

Tôn Dịch trưởng cùng Lâm Tứ Mã đi tới trong khuôn viên dịch xá.

Trong sân có một cây hồ dương cổ thụ, có lẽ là sợ tán cây quá cao che mất tầm nhìn, ngọn cây đã bị cưa đứt, tán cây xòe ra bốn phía vô cùng khổng lồ, che mát nửa dịch xá. Dưới gốc cây có một giếng nước, một tăng nhân vừa mới múc một thùng nước lên, đang vốc nước rửa mặt; tăng bào của ngài đã ướt một mảng, nước bám trên đầu ngài, đọng thành từng giọt. Tăng nhân ấy thân hình cao lớn, gân cốt rắn chắc, hiển nhiên không phải loại người chỉ biết gõ chuông niệm kinh.

Tôn Dịch trưởng giới thiệu Lâm Tứ Mã với Huyền Trang Huyền Trang cười nói, “Lâm Thú chủ, nước giếng ở đây rất ngọt, hoàn toàn không có vị đắng chát như những nơi khác, đúng là hiếm thấy.”

Lâm Tứ Mã cười nói, “Trong giếng này không phải nước ngầm dưới sa mạc mà là suối ngọt trên núi bên cạnh thấm vào lòng đất, nước giếng chính là nước suối ngọt. Mạt tướng ở đây bốn năm, thích nhất chính là cái giếng này.”

Huyền Trang ngồi trên bậc thềm trước sân giếng, cầm lấy gáo múc nước uống. “Biên cương giá rét, nghe nói Thanh Đôn Thú đến tháng Chín sẽ có tuyết rơi, khe núi khó đi, khách buôn không ai đi nữa.”

“Đôi lúc tháng Tám cũng sẽ có tuyết,” Lâm Tứ Mã nói. “Cung lạnh cứng khó giương, thiết giáp như hàn băng, nước giếng này đóng băng không đục ra được.”

Huyền Trang mỉm cười nhìn hắn. “Theo chế độ của triều đình, mỗi năm luân chuyển một đợt, Thú chủ đóng ở đây ba năm, vì sao không chuyển đến nơi khác?”

Lâm Tứ Mã cười khổ. “Thanh Đôn Thú nơi này, nào có ai muốn ở lâu đâu? Nếu có thể đến châu thành thì mạt tướng sớm đã đi rồi…”

“Cái đó thì chưa chắc!” Đột nhiên có một người cao giọng nói.

Huyền Trang quay lại, thấy Lý Thiền đã rửa mặt chải đầu xong, cùng Ngư Tảo đi tới.

“Chắc sư phụ chưa biết, Thanh Đôn Thú này là nơi nhiều dầu mỡ, ba năm làm Thú chủ, sợ là Lâm Thú chủ phải có tới hàng vạn quan tiền rồi ấy chứ?” Lý Thiền quan sát Lâm Tứ Mã, cười nhẹ nói.

Sắc mặt Lâm Tứ Mã sầm xuống. “Ngươi là người nào mà dám bôi nhọ ta như thế?”

“Ta là người nào, trên công văn đã viết rất rõ ràng.” Lý Thiền cười lạnh lùng. “Còn có phải bôi nhọ ngươi hay không, có cần ta phải nói cho rõ ràng không?”

Lâm Tứ Mã không nói gì, âm trầm nhìn Lý Thiền, một bàn tay chậm rãi nắm lấy chuôi đao.

Ngư Tảo liếc một cái nhưng không để vào mắt, cau mày hỏi Lý Thiền. “Chẳng lẽ là ngươi nói càn? Nơi rách nát này làm sao có thể kiếm được vạn quan?”

“Vạn quan vẫn còn là ít.” Lý Thiền nhìn Lâm Tứ Mã chằm chằm. “Sư phụ, Thập Nhị Nương, hai người có chuyện không biết. Thương lộ từ Đôn Hoàng, Qua Châu đến Tây Vực này, người Hồ xưng là con đường tơ lụa, nhưng trên thực tơ lụa không được buôn qua quan ải. Luật Đường có quy định rằng ‘Gấm, lĩnh, la, bông, lụa, tơ, bố, đuôi bò Tây Tạng, ngọc trai, vàng, bạc và sắt không được giao dịch qua các quan ải phía tây, phía bắc và đến các châu biên giới’.”

Huyền Trang ngẩn ra. “Lụa không được buôn ra quan ải? Vì sao?”

Lý Thiền biết rõ vị sư phụ hờ này của mình mặc dù nhìn thấu nhân tình thế thái, nhưng đối với chuyện tiền bạc hàng hóa lại dốt đặc cán mai, đáp. “Vàng bạc sắt thì không cần nói. Đại Đường thiếu vàng bạc, không cho mang ra ngoài. Đồ sắt là vật tư quân sự, buôn ra quan ải chính là thông địch. Còn lụa là tơ gấm, sư phụ, đó chính là tiền. Bách tính nộp tô phải nộp bằng tơ, mua ngựa phải dùng lụa trắng, tiền công thuê người phải trả bằng bạch, đây là tương đồng với tiền.”

“A, ta hiểu rồi, đây kì thực là sợ lượng lớn tiền lụa bị chuyển ra ngoài.” Huyền Trang vỡ lẽ. “Nghe nói một cuộn lụa khi đến Tát Mã Nhĩ Hãn có thể tăng giá mười lần. Nhưng trên con đường tơ lụa thường gặp những thương nhân người Hồ chở từng xe tơ lụa đến Cao Xương, Yên Kỳ, Tát Mã Nhĩ Hãn, thậm chí là Đột Quyết và Thổ Dục Hồn, tại sao lại có chuyện đó?”

“Bởi vì bọn họ là quốc sứ, đại diện cho các nước tiến hành buôn bán tơ lụa và ngựa với Đại Đường,” Lý Thiền cười nói. “Nếu là tư nhân đi buôn thì chỉ có thể buôn đồ sứ, đồ sơn, lá trà, vân vân. Cho nên vấn đề liền nằm ở đây.”

Lý Thiền nhìn chằm chằm vào Lâm Tứ Mã. “Tất cả mọi thương nhân người Hồ đều biết tơ lụa lãi cực lớn, ai mà không muốn giấu mấy xe tơ lụa lén lút vượt quan? Còn Thanh Đôn Thú trấn giữ quốc cảnh, hễ là thương nhân người Hồ đi đường Sáo Can thì đều phải khám nghiệm quá sở, tra nghiệm hàng hóa ở Thanh Đôn Thú. Vị Lâm Thú chủ này canh giữ một con đường vàng, một năm kiếm mấy nghìn quan chẳng phải là vô cùng dễ dàng sao?”

“Ngươi nói xằng nói bậy!” Lâm Tứ Mã hết sức sợ hãi, rút hoành đao ra quát lên. “Ta thân là tướng biên cương Đại Đường, sao có thể làm loại chuyện này! Nếu không có bằng chứng, ta liền bắt ngươi đưa lên quan!”

Lý Thiền lườm một cái. “Ta có nói ngươi tự ý cho phép buôn hàng cấm không?”

“Vừa rồi ngươi nói…” Lâm Tứ Mã nghiến răng.

“Vừa rồi ta còn chưa nói xong.” Lý Thiền cười lạnh lùng. “Luật Đường quy định, người dám giấu hàng cấm lén vượt biên ải, bị người khác bắt được, hàng chia ba phần, hai phần thưởng cho người bắt, một phần nhập quan khố. Một năm ngươi điều tra bắt giữ những kẻ buôn lậu, tiền thưởng nhận được chẳng lẽ không có tới mấy nghìn quan?”

Lâm Tứ Mã nghẹn lời không biết nên nói gì, sợi dây đàn căng chặt trong lòng đột nhiên chùng xuống, chậm rãi buông lỏng thanh đao trong tay ra; nhưng rồi hắn bỗng chợt tỉnh ngộ, thấy Huyền Trang và Ngư Tảo đang nhìn hắn đầy giễu cợt.

Không ngờ chính hành động quá khích vừa rồi của hắn đã để lộ nỗi lo sợ trong lòng!

“Cho nên…” Ngư Tảo chậm rãi nói. “Ba năm làm Thú chủ Thanh Đôn Thú, không phải bị giáng đến nơi giá rét, mà là phần thưởng cho việc giết chết Lữ Thịnh năm đó!”

“Ngươi ngậm máu phun người!” Lâm Tứ Mã gầm lên, thân hình vạm vỡ lại không khỏi run rẩy.

“Thập Nhị Nương ngậm máu phun người khi nào?” Lý Thiền mỉm cười. “Năm đó ngươi chém chết Lữ Thịnh, triều đình ghi công, thăng ngươi từ một hỏa trưởng lên tới tòng bát phẩm hạ, đảm nhiệm chức Thú phó Thanh Đôn Thú, chẳng lẽ không phải tặng thưởng hay sao?”

Lâm Tứ Mã trố mắt nhìn bọn họ, quả thực không biết nên nói gì nữa. Đấu võ mồm với hai người này, tâm cảnh lúc cao lúc thấp, lòng dạ như sắt rèn luyện trên sa trường không ngờ lại hoàn toàn bị đánh sập.

“Pháp sư, ngài đến Thanh Đôn Thú là để lấy ta ra làm trò tiêu khiển hay sao?” Lâm Tứ Mã than vãn với Huyền Trang. “Trên công văn của phủ Thứ sử nói, ngài đến là để tuyên giảng Phật pháp.”

“Đương nhiên bần tăng đến để tuyên giảng Phật pháp, cho nên mới phải xem xem ai là người cần bần tăng cầu phúc.” Huyền Trang cười nói, “Lâm Thú chủ, không bằng cùng bần tăng đi xem một chút?”

Lâm Tứ Mã chán nản, cùng Huyền Trang đi một vòng trong thú dịch, sau đó hai người trèo lên tường thành, đi trên mặt tường thành bằng đất đầm bằng phẳng rộng rãi.

Ngư Tảo thấp giọng hỏi Lý Thiền. “Nhà ngươi hôm nay lại khiến bản cô nương phải nhìn nhận lại. Ngươi làm sao biết Lâm Tứ Mã này tham ô?”

“Thứ sử công nói với ta,” Lý Thiền thản nhiên nói.

Ngư Tảo trợn mắt, đầy một bụng hồ nghi, nhưng Lý Thiền lại chỉ cười tủm tỉm, không giải thích.

Ngư Tảo “Hừ” một tiếng rồi đi theo phía sau Huyền Trang và Lâm Tứ Mã lên tường thành.

Mặt trời lặn trên đại mạc như một quầng lửa nóng bỏng đang đốt cháy cả đại mạc mênh mông. Xa xa nơi phía nam lại có một đội buôn đi đến, uốn lượn như rắn, bóng hình xe cao, lữ nhân, ngựa thồ và lạc đà lầm lũi đi trong cát vàng; không khí bốc hơi loang loáng trên mặt cát, hình bóng đội buôn ấy lúc thì bị kéo dài, lúc lại bị thu ngắn.

Nhìn về phía bắc, hai đỉnh núi trùng trùng đã nhuộm thành màu xanh đen.

Huyền Trang đưa mắt nhìn đại mạc, hai tay chống lên trên tường thành. Dường như ngài có thể chạm được đến một hơi thở của Lữ Thịnh năm đó lưu lại tại đây, dường như hồn phách của hắn chưa đi xa, vẫn đang quanh quẩn nơi đại mạc này. Một tội thần phản nghịch gia quốc không tha, trời đất không dung như hắn, ngoài nơi này ra thì hắn còn có thể đi đến phương nào? Hai mắt Huyền Trang hơi ươn ướt. “Lâm Thú chủ, không bằng kể cho bần tăng nghe chuyện năm xưa ngươi giết chết Lữ Thịnh đi?”

Vẻ mặt của Lâm Tứ Mã không lộ ra chút biểu cảm nào. “Đó là tháng Sáu năm Vũ Đức thứ chín, khi ấy ta làm hỏa trưởng ở Thanh Đôn Thú này. Rạng sáng ngày mùng chín, đột nhiên trong thú dịch có tiếng ồn ào vang lên, lúc đó ta mới biết ụ khói lửa phía bắc khe núi đang có bốn đống khói lửa bốc lên.” Lâm Tứ Mã nhìn về phía khe núi Thanh Đôn, đột nhiên hơi run rẩy. “Có thể pháp sư không hiểu, căn cứ theo quy định của Bộ Binh, phàm là tặc khấu nhập cảnh, số kỵ binh năm mươi người trở lên, không đến năm trăm người thì đốt một đống khói lửa; năm trăm người trở lên, chưa đến ba nghìn người thì đốt hai đống; ba nghìn kỵ binh trở lên thì đốt ba đống; nếu là vạn người trở lên, hoặc là nghìn người trở lên nhưng không biết số lượng cụ thể, đốt bốn đống khói lửa. Bốn đống khói lửa bốc lên chính là đại chiến cả Hà Tây, thậm chí kinh thành đều phải náo động. Thú chủ vừa ra lệnh Thanh Đôn Thú bên này của bọn ta cũng đốt khói lửa, vừa đích thân dẫn người đến khe núi Thanh Đôn tìm hiểu quân tình. Mọi người nghĩ Hàm Tuyền Thú ở mặt bắc sợ là đã thất thủ, nhưng Thanh Đôn Thú cách Hàm Tuyền Thú một trăm ba mươi lăm dặm, ở giữa có bốn ụ khói lửa, các huynh đệ ở những ụ khói lửa này có thể tiếp ứng được bao nhiêu hay bấy nhiêu. Quả nhiên khi bọn ta đi tới ụ khói lửa thứ hai liền tiếp ứng được đồng đội từ bên Hàm Tuyền Thú đang chạy tán loạn về, nói là người Đột Quyết theo đường Sáo Can xâm nhập vào phía nam với quy mô lớn, tất cả các huynh đệ ở mặt bắc đều đã tử nạn. Bọn ta cứu người về, lại phái người đưa tin về thành Đôn Hoàng, sau đó liền canh giữ ở Thanh Đôn Thú này chờ chết.”

“Đã có tặc khấu xâm lấn quy mô lớn, vì sao không trốn?” Huyền Trang hỏi. “Dù sao tặc khấu có mấy nghìn, các ngươi chỉ có năm mươi người, ở lại đây hoàn toàn vô nghĩa.”

“Việc thú binh cần làm chính là đốt khói lửa,” Lâm Tứ Mã nói. “Bất kể tặc binh bao nhiêu, đến một trăm cũng được, đến một vạn cũng được, bọn ta phải tử thủ ụ khói lửa cho đến khi tử chiến mới thôi. Nếu tặc binh rút lui, bọn ta sẽ đốt một đống khói lửa để báo bình an. Đây chính là vận mệnh của thú binh khói lửa. Cho nên con cháu hào môn đại hộ nhập ngũ, vừa nghe thấy phải làm thú binh khói lửa thì sẽ lập tức thuê con nhà nghèo đi thay. Lên ụ mười lăm ngày, mười văn tiền,” Lâm Tứ Mã đắng chát nói. “Năm mười bốn tuổi ta lên ụ, bốn tháng kiếm được tám mươi văn, mua hai thang thuốc cho huynh trưởng bệnh nặng. Huynh trưởng cuối cùng không sống qua được mùa đông năm ấy, bọn ta cũng đều biết, nhưng ta sẵn sàng lên ụ khói lửa kiếm tiền mua thuốc cho huynh trưởng. Ta muốn nói với huynh trưởng rằng ta đã lớn rồi, có thể kiếm được tiền rồi, cha mẹ, chị dâu và cháu cứ giao cho ta! Huynh trưởng hẳn là cũng hiểu, cuối cùng chết rất thanh thản.”

Lâm Tứ Mã lẩm bẩm kể về nhũng vui buồn tan hợp của bách tính nhà nghèo, tay vuốt ve tường thành, dường như đang vuốt ve cuộc đời của chính mình.

Huyền Trang hai tay hơi chắp lại, im lặng rất lâu. “Sau đó thế nào?”

“Lần ấy vận may của bọn ta không tồi, chờ đợi một ngày một đêm, Trấn tướng Tử Kim là Hoàng Tục Chương dẫn tiên phong đến kịp.” Lâm Tứ Mã nhìn Huyền Trang. “Đó là lần đầu tiên ta nhìn thấy Lữ Thịnh, hắn là giám quân tiên phong, đại nhân vật năm ấy một hỏa trưởng nho nhỏ như ta phải ngước lên mới dám nhìn một cái. Khi đó ta không thể nào ngờ được rằng chỉ vẻn vẹn một ngày sau, hắn sẽ chết ở trong tay ta.”

Keng một tiếng lanh lảnh, ánh đao chói mắt, Ngư Tảo đột nhiên rút đao hùng hổ chém vào trên tường thành, bụi đất văng ra khắp nơi. Lâm Tứ Mã vội vàng nắm đao, lại thấy Ngư Tảo không hề xoay người, chỉ ngơ ngác nhìn xuống dưới thành, hai vai run lên.

Huyền Trang thở dài một hơi.

Lâm Tứ Mã chậm rãi thả lỏng, tra đao vào vỏ. “Sau khi bố phòng trấn Tử Kim, triệu tập quân nghị, vấn đề khó khăn nhất khi đó chính là không biết vị trí của người Đột Quyết, cũng không biết số lượng và mục tiêu của bọn chúng. Hoàng Trấn tướng đành phải áp dụng biện pháp ngốc nhất, đó là trấn giữ Thanh Đôn Thú, chờ đợi đánh một trận với đối thủ để xem hư thực thế nào. Đêm hôm ấy ta canh gác trên tường thành này, vị trí đứng đại khái chính là ở đây…”

Lâm Tứ Mã chỉ chỉ vài thước phía trước Huyền Trang. “Ta đột nhiên quay lại, phát hiện trên ụ khói lửa đang treo ba chiếc đèn lồng!”

Lâm Tứ Mã xoay người nhìn ụ khói lửa cao vút phía sau trạm dịch, đám người Huyền Trang cũng nhìn ụ khói lửa đó, trên đỉnh có cột cờ treo một lá cờ đỏ đang đón gió bay phấp phới, bên trên thêu hình vẽ chim ưng.

“Treo đèn lồng? Như vậy có ý nghĩa gì?” Huyền Trang hỏi.

“Ta không biết.” Lâm Tứ Mã dường như đang đắm chìm trong bầu không khí kỳ lạ hung hiểm của đêm hôm ấy, lộ vẻ sợ hãi. “Trên cột cờ đó chưa bao giờ treo đèn lồng cả. Lúc ấy là đêm, cuối giờ Tuất đầu giờ Hợi, ngày mùng chín có trăng, có gió và cát bụi bay, đại mạc lờ mờ trông không rõ. Khi đó ta liền lưu tâm, canh phòng trên mã diện của tường thành.”

Lâm Tứ Mã đi tới trên mã diện ở phía bắc cổng thành.

Mã diện chính là một đoạn tường thành hẹp dài lồi ra ngoài, có thể phối hợp với quân phòng thủ trên tường thành ba mặt giáp công kẻ địch dưới thành. Mọi người cùng Lâm Tứ Mã đi tới trên mã diện, Lâm Tứ Mã chỉ ủng thành. “Một lát sau cổng thành mở ra, ta nhìn thấy Lữ Thịnh dẫn hai tên quân tốt đi ra từ trong ủng thành, mỗi tên cầm một ngọn đèn lồng, đi vào trong đại mạc.”

Sắc mặt mọi người nghiêm nghị, dường như đều bị ảnh hưởng bởi bầu không khí của đêm hôm ấy, ngay cả Ngư Tảo cũng không nói gì, ngắm nhìn đại mạc xa xa, lẳng lặng nghe Lâm Tứ Mã kể chuyện.

Lâm Tứ Mã năm đó vẫn là hỏa trưởng, dưới tay có chín tên thú binh; hắn phát hiện Lữ Thịnh ra ngoài lại không dám làm ầm lên, bèn gọi đồng đội trong hỏa tới bàn bạc. Nhưng Lữ Thịnh chính là giám quân, kể cả chủ tướng Hoàng Tự Chương cũng phải chịu sự khống chế của hắn, một hỏa trưởng nho nhỏ dám nói gì chứ? Lâm Tứ Mã liền canh gác trên tường thành, giám sát chặt chẽ phương hướng sa mạc. Đến tận một canh giờ sau, sâu trong sa mạc mới lờ mờ có một ngọn đèn lồng nhẹ nhàng đi tới.

Đi đến gần, Lâm Tứ Mã mới nhìn thấy người xách đèn lồng quả nhiên chính là Lữ Thịnh, có điều đi theo phía sau hắn lại là hơn mười thương nhân người Hồ, người nào người nấy đều hết sức thảm hại, hàng hóa đã mất hết, chỉ dắt lừa ngựa và lạc đà gì đó theo thôi.

Lâm Tứ Mã không dám mở cửa thành, bèn đi báo cáo với Hoàng Tự Chương. Hoàng Tự Chương đích thân ra trạm dịch đón đám người Lữ Thịnh vào rồi lập tức đi tới đại đường họp. Lúc này Lâm Tứ Mã mới biết, thì ra đội thương nhân người Hồ này vốn đang tiến về Đôn Hoàng theo đường Sáo Can, bị đại quân Đột Quyết xâm nhập phía nam chặn lại trong khe núi Thanh Đôn.

Đội buôn bị người Đột Quyết cướp hết hàng hóa, chết không ít người, sau đó hơn ba mươi người còn lại trốn vào trong núi Bờm Ngựa, trèo đèo lội suối, khó khăn lắm mới đi tới miệng khe núi. Họ phái người tới Thanh Đôn Thú tìm được Lữ Thịnh, Lữ Thịnh mới đi vào đại mạc giữa đêm khuya đón bọn chúng vào.

Đám thương nhân người Hồ vừa đến, tình thế liền trở nên rõ ràng. Thì ra là Dục Cốc Thiết của Đông Đột Quyết có xung đột với huynh trưởng hắn là Khả hãn Hiệt Lợi, không biết vì sao lại đột nhiên chiếm nước Y Ngô, dẫn ba nghìn thiết kỵ xâm nhập vào phía nam theo đường Sáo Can. Bây giờ bên đó đang đóng quân trong khe núi Thanh Đôn, không tiến quân nữa.

Lúc nghe Lâm Tứ Mã kể lại, Ngư Tảo vẫn căng thẳng, giờ mới được thở phào nhẹ nhõm. “Quả nhiên Lữ lang không phản quốc!”

Lâm Tứ Mã cười lạnh lùng. “Tiểu nương tử, nếu hắn không phản quốc, bây giờ ta còn có thể đứng ở đây sao?”

“Tiếp tục nói!” Ngư Tảo không nén được giận. “Cho ta một lý do để không giết ngươi!”

Lâm Tứ Mã nhìn nàng một cách chế giễu, lại không tranh cãi, tiếp tục kể chuyện.

Đêm hôm đó Hoàng Tự Chượng và Lữ Thịnh điều chỉnh bố trí, lên kế hoạch rạng sáng hôm sau đi vào khe núi phát động tập kích doanh trại của Dục Cốc Thiết, cố gắng trì hoãn bước tiến về nam của hắn. Sau khi kết thúc hội nghị quân sự, mọi người đều hết sức mệt mỏi đi ngủ. Lâm Tứ Mã nằm trên tường thành, gối giáo chờ trời sáng.

Vậy mà không ngờ đến giờ Dần, trong thú dịch đột nhiên vang lên nhiều tiếng kêu thảm thiết. Lâm Tứ Mã kinh hãi bật dậy, lúc này mới phát hiện đám thương nhân người Hồ kia lại đoạt vũ khí chém chết lính canh, đánh về phía cổng thành. Lâm Tứ Mã dẫn chín người trong hỏa muốn xuống chi viện, bị chúng chặn đánh ở trên đường.

Cuối cùng đám người Hồ kia mở được cửa thành ra.

Mà ba ngọn đèn lồng treo trên cột cờ lại đồng thời tắt đi!

Đèn lồng vừa tắt, sâu trong sa mạc đột nhiên vang lên tiếng kèn lệnh, tiếng vó ngựa nặng nề lập tức vang vọng khắp sa mạc, vô số kỵ binh Đột Quyết lao ra từ trong khe núi. Người Đột Quyết và nội ứng phối hợp rất nhịp nhàng, bên này vừa cướp được cổng thành, bên kia kỵ binh đã ùn ùn lao tới.

Đến lúc Hoàng Tự Chương và Lữ Thịnh tập kết quân đội thì tình thể đã không thể vãn hồi nữa.

Kỵ binh Đột Quyết như thủy triều tràn vào trong thú dịch, hai nghìn nhân mã song phương triển khai một cuộc chém giết đẫm máu nơi thú dịch chật hẹp này. Trấn binh và thú binh Đại Đường dũng mãnh vô cùng, chỉ có hơn năm trăm người, dùng thân thể máu thịt chống lại sự tàn sát của hơn một nghìn năm trầm kỵ binh. Bọn họ liều chết chống cự tại bất cứ một khu vực nào, trong viện, trên tường thành, trong dịch xá, trong chuồng ngựa, trong kho thóc, khắp nơi trên chiến trường đều không có một ai đầu hàng, chiến tới một binh một lính cuối cùng.

“Hoàng Trấn tướng dẫn bọn ta chém giết trọn một đêm, ông ta cố gắng đoạt lại cổng thành; thi thể trong đình viện xếp cao nửa người, ta xách hoành đao, cách đống thi thể đâm chém với người Đột Quyết. Tới rạng sáng hôm sau thì người Đột Quyết cướp được tường thành, bọn ta hoàn toàn tan tác.” Lâm Tứ Mã rút đao ra, lưỡi đao ánh vào hai mắt, cũng phản chiếu lại những thảm thiết và đẫm máu của đêm hôm đó. “Người Đột Quyết chiếm được tường thành, dùng cung tên bắn giết từ trên cao, ta tận mắt nhìn thấy trên người Hoàng Trấn tướng trúng mười mấy mũi tên, dựa lưng vào một đống thi thể, vẫn sừng sững đứng đó không ngã. Thú phó của ta tử thủ ụ khói lửa, đốt khói lửa; người Đột Quyết cố gắng công lên dập tắt khói lửa, hắn canh giữ ở cầu thang, cuối cùng bị chém đứt hai chân, ngã xuống dưới ụ.”

Huyền Trang là tăng nhân, mấy năm nay thiền tâm đã tu tĩnh lặng như nước, pháp quan tự tại, nhưng cùng với lời kể của Lâm Tứ Mã, suy nghĩ chìm vào trong đêm đẫm máu năm Vũ Đức thứ chín ấy, vẫn chấn động tâm tình, tay chân lạnh buốt.

“Nói xằng nói bậy!” Ngư Tảo rơi nước mắt quát lên. “Những thương nhân người Hồ làm nội ứng kia không thể là do Lữ Thịnh dẫn vào! Người chứng kiến đêm hôm ấy đều đã chết hết, tự nhiên ngươi nói thế nào thì là thể đó!”

Lâm Tứ Mã cười lạnh lùng. “Xin lỗi tiểu nương tử, nhân chứng đêm hôm ấy không chết hết. Thú chủ thấy sự tình không ổn liền dẫn hai, ba mươi người bọn ta dùng dây thừng leo xuống dưới tường thành. Khi đó Lữ Thịnh chỉ huy trên tường thành cũng xuống theo bọn ta. Bọn ta giết người Đột Quyết ngoài thành, cướp ngựa chạy ra sa mạc. Người Đột Quyết chia quân đuổi theo, Thú chủ cản phía sau bắn chết mười mấy người của bọn chúng, khảng khái mà chết, bọn ta vì vậy mới trốn được vào trong Quỷ Mị Thích. Tất cả mười bảy người sống sót trở về châu thành khi ấy đều là nhân chứng! Nếu cô nương muốn lật lại bản án cho hắn, rất tốt, xem xem ở trước mắt của cô nương, và cả ở dưới chân của cô nương nữa, là năm trăm ba mươi sáu thi thể dũng sĩ Đại Đường đã ngã xuống vào ba năm trước, cô nương hãy lật lại từng người trong số họ đi!”

Lâm Tứ Mã căm tức nhìn Ngư Tảo, gầm lên giận dữ, trên khuôn mặt thô kệch giàn giụa nước mắt, giọng nói khàn khàn. “Ta biết cô nương là ai, cô nương chính là nữ nhi của Vương Thứ sử, hôm nay đến đây muốn đòi lại công bằng cho Lữ Thịnh! Ta là tiểu tốt dưới trướng của Vương Thứ sử, các ngươi nghiền chết ta chỉ như nghiền chết một con kiến thôi; nhưng sự công bằng này cô nương không đòi được đâu, bởi vì thi thể đè trên bia mộ của Lữ Thịnh quá nhiều quá nặng!”

Ngư Tảo rút hoành đao ra kề vào cổ họng Lâm Tứ Mã, Lâm Tứ Mã lại cười ha hả. “Ta đây xuất thân từ gia đình thợ nồi nghèo khó, phụ thân ta đặt tên cho ta là Lâm Tứ Mã, tâm nguyện cả đời chính là mong trong nhà có bốn con ngựa; nhưng ta từ nhỏ đã khỏe mạnh, đủ sức đẩy ngã bốn con ngựa, cái tên này cũng vì vậy mà trở thành hữu danh vô thực. Nhưng chuyện mà cả đời này làm cho ta cảm thấy kiêu ngạo nhất chính là chém chết tên súc sinh Lữ Thịnh đó! Hôm đó bọn ta trốn vào trong Quỷ Mị Thích, tàn binh bại tốt vây quanh Lữ Thịnh bắt hắn giải thích. Năm ấy ta cũng cầm đao kề vào cổ họng Lữ Thịnh như thế này, cuối cùng hỏi ra việc làm phản quốc của hắn, cấu kết Đột Quyết, chiếm Thanh Đôn Thú, sau đó ta một đao chém rơi đầu hắn. Muốn báo thù cho Lữ Thịnh sao, vậy thì cứ làm đi!”

“Ta giết ngươi…” Cánh tay Ngư Tảo run rẩy, nổi giận gầm lên một tiếng, giơ hoành đao lên chém xuống.

“Không được!” Huyền Trang nhanh tay lẹ mắt, rút hoành đao từ bên hông Lý Thiền ra, cản một đao này của Ngư Tảo.

Choang một tiếng, tia lửa bắn ra tung tóe, đao của Huyền Trang rời tay bay đi, rơi xuống dưới thành. Nhưng một đao này của Ngư Tảo cũng chém hụt, cuối cùng chém vào trên tường thành, đất vỡ tung tóe. Lúc này Lý Thiền mới phản ứng lại, giữ chặt lấy cánh tay Ngư Tảo.

Thú binh trong thành cũng bị kinh động, ngẩng đầu lên nhìn, không ít người đã yên lặng rút đao, vẻ mặt giận dữ. Ngay cả đội khách buôn vừa mới đến cũng đi ra ngoài thú dịch, cùng nhau ngẩng đầu lên ngơ ngác nhìn cảnh này.

Lâm Tứ Mã không nói một lời, lạnh lùng nhìn ba người, trong mắt dần dần hiện lên sự điên cuồng.

Trong lúc hai bên đang im lặng đối mặt nhau như thế, Lệnh Hồ Chiêm che khăn che mặt trà trộn trong đội buôn nhẹ nhàng phất tay, chủ sự đội buôn đi tới ngoài ủng thành, ngẩng đầu lên gọi. “Hiệu buôn Trương Ký của nước Cao Xương đến để khám nghiệm quá sở thông quan!”