← Quay lại trang sách

Chương 8 Thiên Cương tam thập lục biến

Đêm đã về khuya, trong phòng Lâm Tứ Mã có ánh đèn, trước bàn thờ Phật thắp hương, trong phòng hương khói lượn lờ, mông lung không rõ.

Lâm Tứ Mã quỳ trên bồ đoàn trước bàn thờ Phật, đang dùng một tấm vải thô lau hoành đao trong tay.

Lưỡi đao phản xạ ánh nến, lạnh lẽo chói mắt. Lâm Tứ Mã cũng ớn lạnh khắp người. Lúc này có tiếng gõ cửa nhẹ nhàng vang lên, Tôn Dịch trưởng lách mình đi vào.

Tôn Dịch trưởng thấp giọng. “Tứ Mã, người đã đến rồi. ở trong sa mạc cách đây ngoài ba dặm, bất cứ lúc nào cũng có thể động thủ.”

Lâm Tứ Mã gian nan nói, “Chờ một chút… Chờ một chút…”

“Không chờ được nữa rồi, Tứ Mã huynh!” Tôn Dịch trưởng vội nói. “Đám thổ phỉ này không chỉ giúp chúng ta giết người mà còn muốn cướp bóc tiền hàng của mấy đội buôn ở ngoài thành đó! Người của bọn chúng đã đến, dù ngài muốn thu tay lại thì bọn chúng cũng không chịu tay không mà về đâu!”

Lâm Tứ Mã lẩm bẩm nói, “Ta thân là biên tướng Đại Đường, lấy giết chóc lập nghiệp, nhưng chưa bao giờ thấy gian nan như hôm nay. Nhà họ Lâm đời đời tin Phật, hôm nay ta lại phải giết tăng nhân, không chỉ là giết tăng nhân mà còn phải giết cả tiểu nương tử của nhà Thứ sử. Phản bội tín ngưỡng, phản bội triều đình, ngươi nói xem, sau đêm nay chúng ta còn làm thế nào mà đứng ở giữa trời đất được nữa?”

“Tứ Mã.” Tôn Dịch trưởng cười lạnh lùng. “Ngươi và ta vốn xuất thân bần hàn, nhưng bây giờ ngươi đã làm Phó úy Tuyên Tiết chính bát phẩm hạ, ta cũng vào tòng cửu phẩm thượng, đến huyện làm quan chính là Huyện úy thượng huyện, còn cao hơn cả Huyện úy huyện Đôn Hoàng! Nhà ngươi và nhà ta nhiều đời nay có ai làm được như thế? Bây giờ chúng ta thủ thú dịch, mỗi năm tiền lụa rất nhiều, chẳng những dựng được đại trạch ở trong thành Đôn Hoàng mà con cháu còn được vào châu học; hai nhà Tôn, Lâm từ đây đã thoát ra khỏi tiện nghiệp, trở thành gia đình có học, làm chuyện này sao có thể không có trả giá gì? Nếu cái giá chúng ta phải trả chỉ là giết tăng và giết nữ nhi của Thứ sử thì đây đã là một vụ mua bán cực kì có lời rồi!”

Lâm Tứ Mã im lặng rất lâu, tra đao vào vỏ. “Đi, chúng ta đi giết người!”

“Huyền Trang đang đứng ngây người trên tường thành,” Tôn Dịch trưởng nói. “Hai người kia không có ở đó, chính là thời cơ tốt.”

Lâm Tứ Mã gật đầu, hai người ra khỏi phòng, đi qua sân, trèo lên tường thành.

Huyền Trang quả nhiên đang đứng ngơ ngác ở trên tường thành, ngài dường như gặp phải chuyện hồ nghi khó nghĩ gì đó, ngón tay thỉnh thoảng còn vạch vạch mấy cái trên không. Trăng non trên đầu cong như móc câu, núi non hai bên khe núi xa xa trắng ngần như tuyết, dường như một đêm đã bạc trắng đầu.

Lâm Tứ Mã đi tới phía trước Huyền Trang, nói nhỏ. “Pháp sư!”

Huyền Trang bừng tỉnh lại, quan sát hắn từ trên xuống dưới, cười. “Thú chủ đến giết bần tăng phải không?”

Lâm Tứ Mã lập tức kinh ngạc, cùng Tôn Dịch trưởng ngơ ngác nhìn nhau.

“Pháp sư…” Lâm Tứ Mã lúng túng đáp. “Sao pháp sư lại nói lời ấy?”

Huyền Trang thở dài một hơi. “Bần tăng là người thanh tịnh, hơi mẫn cảm với sát khí… Được rồi, không nói những chuyện hư ảo này nữa, thực ra là bần tăng đã trải qua nhiều hung hiểm, bản thân lại hơi nhát gan, vì vậy nên có một chút mẫn cảm mà thôi.”

Lâm Tứ Mã nghẹn lời không biết nói gì, cũng không biết nên làm sao. “Không không không, mạt tướng… mạt tướng tuyệt không có ý này!”

Huyền Trang nhìn ra sự do dự trong lòng hắn, lắc đầu nói, “Đã như vậy, Thú chủ có thể trả lời mấy nghi vấn của bần tăng không? Buổi chiều nghe Thú chủ kể về những chuyện đã trải qua, bần tăng suy nghĩ rất lâu, trong đó có một số tình tiết làm người ta thấy rất nghi hoặc.”

Lâm Tứ Mã thành khẩn nói, “Mời pháp sư hỏi, mạt tướng sẽ biết gì nói đó.”

Huyền Trang gật đầu. “Vấn đề thứ nhất, Lữ Thịnh là nội gián, vì sao lại quang minh chính đại đốt đèn lồng treo trên cột cờ?”

Lâm Tứ Mã trầm ngâm suy nghĩ. “Đèn lồng này có lẽ là dùng để chỉ dẫn phương hướng cho đám thương nhân người Hồ kia! Hắn dẫn thương nhân người Hồ vào trong thú dịch, tất nhiên là đã nhận được sự đồng ý của Hoàng Trấn tướng nên mới làm vậy; chỉ có điều Hoàng Trấn tướng cho rằng đây là những thương nhân người Hồ bình thường, từ đó có thể nắm được quân tình của người Đột Quyết.”

“Cũng có lý.” Huyền Trang hỏi, “Theo như ngươi kể, khi đó loạn chiến trong thú dịch, Lữ Thịnh cũng suýt nữa thì đã chết, phải đu dây xuống tường thành mới thoát chết. Vấn đề thứ hai, nếu hắn là nội gián dẫn Đột Quyết vào, vì sao lại phải tự đặt mình vào nơi hiểm địa như vậy?”

“Chuyện này…” Lâm Tứ Mã nghĩ một hồi lâu. “Chắc là hắn có ý đồ theo chúng ta trở lại châu thành, tiếp tục làm nội ứng cho người Đột Quyết!”

“Có lí,” Huyền Trang nói. “Vấn đề thứ ba, hai quân tốt năm đó Lữ Thịnh dẫn đi đón thương nhân người Hồ đến tận năm Trinh Quán nguyên niên mới chết vì bệnh tật. Lữ Thịnh đã phản quốc, vì sao hai người bọn họ không bị liên đới?”

Lâm Tứ Mã sửng sốt, nhất thời trên trán toát mồ hôi lạnh, một hồi lâu sau vẫn không biết nói sao.

“Vấn đề thứ tư,” Huyền Trang nói. “Năm ấy ngươi giết chết Lữ Thịnh, lập công được thưởng quan tước, vì sao mười sáu người khác đều không có phong thưởng, mà đến năm Trinh Quán nguyên niên, trong vòng một năm lại lần lượt chết hết vì đủ loại nguyên nhân khác nhau?”

Ánh mắt Huyền Trang sâu thẳm nhìn hắn chằm chằm. “Lâm Thú chủ, sau chuyện năm đó, giờ đây ngươi là người duy nhất còn sống!”

Lâm Tứ Mã tái mặt, tay phải cầm chuôi đao, dường như muốn tiếp thêm can đảm cho chính mình, cánh tay lại không ngừng run rẩy.

“Vấn đề thứ năm,” Huyền Trang xem như không nhìn thấy, tiếp tục nói. “Trong sổ sách ở chỗ Ty hộ tham quân có đủ thông tin hộ khẩu, tịch trướng, hôn nhân, điền trạch và lao dịch trong châu. Trước khi bần tăng đến đã tra một số công văn ở chỗ Ty hộ tham quân huyện Đôn Hoàng, phát hiện năm Trinh Quán nguyên niên ngươi đã dựng đại trạch ở trong thành Đôn Hoàng, khi đó ngươi mới lên làm Thú chủ Thanh Đôn Thú chưa được ba tháng. Mặc dù Thanh Đôn Thú này là quan ải vàng, nhưng chỉ trong vòng ba tháng thì sợ rằng tuyệt đối không thể mua được một tòa đại trạch như vậy đúng không? Ngoài ra bần tăng còn phát hiện, sau vụ mùa tháng Mười năm Vũ Đức thứ chín, tịch trướng nhà họ Lâm ngươi đột nhiên có thêm năm trăm mẫu ruộng tốt, chia ra tại hai châu Qua, Sa. Khi đó ngươi vừa mới làm quan chức, làm thế nào mà mua được số ruộng tốt này?”

Toàn thân Lâm Tứ Mã toát mồ hôi như tắm, hai mắt gắt gao nhìn Huyền Trang, tràn ngập sợ hãi và giận dữ, sắc mặt Tôn Dịch trưởng bên cạnh cũng tái mét.

“Ngươi còn tra ra được những gì?” Lâm Tứ Mã nói giọng khàn khàn, nghe có vẻ như là đang khóc.

“Còn tra ra số ruộng tốt ấy trước đó thuộc về Phiếm thị, đất dựng đại trạch thuộc về Trương thị.” Huyền Trang nhìn hắn thương xót. “Hai sĩ tộc lớn, một tặng ngươi đại trạch, một tặng ngươi ruộng tốt. Lâm Thú chủ, ngươi đánh xong canh bạc này là đã đủ thắng cả cuộc đời rồi!”

Leng keng hai tiếng, Lâm Tứ Mã và Tôn Dịch trưởng đồng thời rút đao.

Lâm Tứ Mã cười ác độc. “Pháp sư, đây là ngài nhất định ép ta phải giết ngài mà!”

“Đương nhiên,” Huyền Trang cười nói. “Ngươi vốn muốn giết ta, chỉ có điều khó mà lựa chọn, bần tăng hỏi mấy vấn đề này, ngươi không giết ta cũng không được nữa.”

“Vì sao?” Lâm Tứ Mã nghiến răng hỏi.

“Bởi vì…” Huyền Trang chậm rãi nói. “Ngươi phải giết ta, nói rõ suy đoán của ta là đúng. Ta tới đây là để tẩy sạch oan khuất cho Lữ Thịnh, nhưng chuyện đã qua ba năm, tất cả mọi dấu vết đều đã bị chôn vùi. Nếu không ép ngươi đến bước đường cùng, không đặt chính mình vào trong hiểm cảnh sống chết, bần tăng sẽ hoàn toàn không thể đào ra được bất cứ một manh mối nào.”

“Ngài là một kẻ điên!” Lâm Tứ Mã hét lên. “Chính ngài đã chết, lấy được manh mối thì có ích lợi gì?”

“Không có ích lợi gì.” Huyền Trang thản nhiên đáp. “Sử sách như đao, kẻ bị chém là anh hùng hào kiệt, thậm chí cho dù bần tăng có điều tra ra chân tướng thì thế giới này vẫn y nguyên như cũ. Nhưng bần tăng kết bạn với Lữ Thịnh, quý ở tri tâm; bần tăng biết được oan khuất của hắn, đối với hắn và bần tăng mà nói thì như thế đều đã đủ rồi.”

Lâm Tứ Mã và Tôn Dịch trưởng ngơ ngác nhìn nhau, cả hai đều không thể nào hiểu được. Lâm Tứ Mã gật gật đầu với Tôn Dịch trưởng, Tôn Dịch trưởng móc ra một bộ hỏa chiết tử từ trong tay áo, lac qua lắc lại rất nhanh, ngọn lửa cháy lên.

Tôn Dịch trưởng giơ hỏa chiết tử vẫy về phía ngoài thành, ánh lửa vẽ ra từng vòng sáng giữa không trung.

Đột nhiên nghe thấy xa xa có một tiếng dây cung vang lên, lập tức một mũi tên bay tới nhanh như tia chớp. Phụp một tiếng xuyên thấu cổ Tôn Dịch trưởng, một chùm máu tươi bắn vào trên mặt Lâm Tứ Mã.

Thi thể Tôn Dịch trưởng ngã thẳng xuống dưới tường thành. Lâm Tứ Mã phản ứng mau lẹ, thân thể di động ra sau lưng Huyền Trang nhanh như tia chớp, đứng sát người ngài rồi hoành đao kề vào bên cổ ngài. Cả quá trình ấy diễn ra hết sức lanh lẹ, lức này mới nghe thấy dưới tường thành vang lên một tiếng uỵch, là tiếng thi thể của Tôn Dịch trưởng rơi xuống trên đất.

Lâm Tứ Mã ép Huyền Trang quay mặt về phía ụ khói lửa, quả nhiên nhìn thấy có hai người đang đứng trên ụ khói lửa cao vút, một người trong đó đang giương cung đặt tên ngắm thẳng vào hắn. Chính là Ngư Tảo và Lý Thiền.

Hai người thấy Huyền Trang bị bắt liền từ ụ khói lửa đi xuống cầu thang, theo tường thành phía nam đi vòng tới.

Lâm Tứ Mã cười lạnh lùng. “Không trách được ngài không sợ chết, thì ra đã sớm có phục binh!”

“Thả pháp sư ra!” Lý Thiền quát lên.

“Thả ra thì thế nào? Dù sao đêm nay các người đều phải chết hết!” Lâm Tứ Mã cười to.

Lúc này thú binh trên tường thành và trong đình viện xa xa đã nghe thấy động tĩnh, tới tấp trèo lên tường thành, giương cung giơ đao, bao vây hai bên mọi người. Lâm Tứ Mã ép Huyền Trang chậm rãi lùi vào trong đám thú binh, sau đó đẩy Huyền Trang ra ngoài, hét lớn. “Ba người này đã giết Tôn Dịch trưởng!”

Đám thú binh lập tức ồn ào, lúc ấy có người phát hiện thấy thi thể của Tôn Dịch trưởng ở dưới tường thành lại càng giận dữ, gầm lên liều chết xông tới. Lý Thiền và Ngư Tảo bảo vệ Huyền Trang ở chính giữa, hai bên từ từ tiếp xúc, đang định chém giết thì đột nhiên trong sa mạc vang lên một tiếng sấm rền.

Mọi người giật mình kinh ngạc nhìn về phía sa mạc, thấy trong sa mạc dưới trăng khuyết cuốn lên một luồng cát bụi thật dài, như một con rồng lao vào thú dịch. Khi đến gần mới phát hiện trong đám bụi này không ngờ lại là một chi kỵ binh, những kỵ binh ấy mặc trường bào trắng, trên mặt đeo mặt nạ, thoắt ẩn thoắt hiện lẫn trong cát bụi.

“Là thổ phỉ núi Bờm Ngựa!”

Trong các thú binh có người kêu to, trên tường thành lập tức bối rối, mọi người tới tấp chiếm giữ yếu địa của thành trì rồi bố trí phòng ngự. Khách buôn đang cắm trại nghỉ ngơi ngoài thành cũng bối rối, lũ lượt chạy tới đập cổng thành, tiếng kêu khóc cầu khẩn vang lên.

“Lâm Thú chủ!” Huyền Trang nhìn chằm chằm vào Lâm Tứ Mã. “Thì ra đây chính là thủ đoạn mà ngươi dùng để đối phó với bần tăng! Cấu kết thổ phỉ, ngang nhiên giết người, bần tăng thật sự vô cùng thất vọng về ngươi!”

Lâm Tứ Mã thấp giọng cười ác độc. “Pháp sư, ngài quyết phải ép ta đến bước đường cùng, ta cũng không thể tự tìm một cành cây rồi treo cổ. Đây là ngài tự làm tự chịu thôi!”

“Những thương nhân người Hồ ở ngoài thành thì sao?” Huyền Trang trầm giọng nói. “Bần tăng đêm nay chết thì chết, ngươi mở cửa thành cho họ vào đi, để họ tránh thoát được kiếp nạn này.”

“Bọn chúng vào rồi thì những thổ phỉ kia đi cướp của ai? Chẳng lẽ lại cướp thú dịch của ta hay sao?” Lâm Tứ Mã tiếp tục cười ác độc. “Ngài là một tăng nhân không hiểu sự đời, muốn đâm thủng được bầu trời này, thứ rơi xuống nhất định phải là mưa máu như trút! Lúc đến chỗ Thái Sơn Phủ Quân, ngài phải nhớ những người này đều là vì ngài mà chết!”

Hai người đang tranh cãi thì trên tường đột nhiên yên lặng. Đám thú binh và Ngư Tảo, Lý Thiền đều nhìn sa mạc, nghẹn lời không biết nói gì. Huyền Trang vừa quay đầu lại nhìn cũng sửng sốt. Chỉ thấy đám sơn tặc trên núi Bờm Ngựa kia đang cuốn theo cát bụi mà đến thì đột nhiên có kỵ sĩ ngã ngựa biến mất, chỉ còn lại thớt ngựa không người tiếp tục chạy, mà trong đội ngựa đã có bốn năm con ngựa không người cưỡi. Đám cướp phía trước vẫn không biết, hò hét vung trường đao thúc ngựa phi nhanh.

Trong cát bụi mịt mù, một kỵ sĩ chạy sau cùng đội ngũ lại đột nhiên ngã ngựa biến mất! Cứ thế, trong đội ngũ thỉnh thoảng lại có kỵ sĩ vô duyên vô cớ biến mất trong cát bụi. Mọi người ai cũng dụi mắt rồi mở to mắt ra nhìn, nhưng cát bụi rất lớn, hoàn toàn không thể thấy rõ được rốt cuộc những kỵ sĩ kia biến mất như thế nào. Chỉ sau vài cái chớp mắt, kỵ sĩ trên ngựa đã liên tiếp biến mất, dường như trong cát bụi đang ẩn giấu một con quái thú vô hình. Thanh thế của cả đội ngũ càng ngày càng nhỏ, các kỵ sĩ phía trước cũng phát hiện ra sự khác thường, vừa quay đầu lại thì lập tức hồn phi phách tán, kỵ sĩ trên lưng ngựa đã chỉ còn lại không có mấy người.

Các kỵ sĩ vội vàng ghìm ngựa lại tỉ mỉ xem xét, lúc này cát bụi từ từ cuốn tới. Người trên tường thành cũng không thấy rõ, chỉ thấy các kỵ sĩ thúc ngựa lúc ẩn lúc hiện lẫn giữa cát bụi, trong miệng không biết quát hét cái gì. Đột nhiên có người kêu lên sợ hãi, rồi âm thanh lại bỗng im bặt, ngay sau đó trong cát bụi không ngừng vang lên từng tiếng kêu thảm thiết, một lát sau đã không còn một tiếng động.

Thú binh trên tường thành và các thương nhân dưới tường thành nhìn mà mất hồn mất vía. Từng con chiến mã nhẹ nhàng bước ra khỏi đám cát bụi, đi tới bên ngoài thú dịch, có điều trên lưng ngựa đã không có một bóng người.

“Có yêu quái! Yêu quái…” Trong đám thương nhân có người sợ hãi kêu lên.

Huyền Trang nhẹ nhàng thở than. “Nó đến rồi!”

Lý Thiền nắm chặt đao, Ngư Tảo giương cung lên, vẻ mặt hai người nghiêm nghị, thấp thoáng lộ ra một nét sợ hãi.

“Ai?” Lâm Tứ Mã lớn tiếng hỏi. “Là ai đến rồi? Những tặc phỉ kia đâu? Chúng đã đi đâu?”

Huyền Trang không nói gì, chỉ nhìn chằm chằm xuống dưới sa mạc, cát bụi vẫn đang cuồn cuộn nhưng lại không phát ra một tiếng động nào. Vù! Có thú binh không kìm được sự sợ hãi trong lòng, tay run lên, một mũi tên rời cung bay đi, bắn vào trong cát bụi rồi biến mất tăm. Đồng đội xung quanh kinh hãi trợn mắt nhìn người đó, người đó toàn thân run rẩy, không biết phải làm sao, nhưng cát bụi lại không hề có phản ứng, chỉ cuồn cuộn tại chỗ như một con rằn dài đang không ngừng giãy giụa.

Đột nhiên trên đầu mọi người sáng lên, tất cả cùng quay đâu lên nhìn, lập tức đều ngẩn ra, chỉ thấy một bóng người đang từng bước đi lên dọc theo cầu thang của ụ khói lửa, trong tay xách ba ngọn đèn lồng! Cách mọi người hai ba mươi trượng, ánh đèn hắt vào một bên mặt hắn, không thấy rõ tướng mạo, chỉ nhìn thấy hắn mặc một bộ bào phục cổ tròn, đội khăn vấn đầu, dường như tuổi tác cũng không lớn.

Người đó đi lên ụ khói lửa, treo đèn lồng lên trên cột cờ; ba chiếc đèn lồng đung đưa theo gió, trông vô cùng quái dị. Tiếp theo người đó xoay người lại, đứng ở bên tường ụ khói lửa nở một nụ cười quỷ dị, ánh sáng của đèn lồng chiếu lên trên mặt hắn, Huyền Trang lập tức chấn động tinh thần.

“Lữ Tham quân…” Lâm Tứ Mã kinh hãi kêu to.

“Lữ lang…” Ngư Tảo cũng sợ hãi kêu lên thất thanh.

Lý Thiền trợn mắt há mồm, ngây ra như phỗng. Lữ Thịnh? Người này tại sao lại là Lữ Thịnh? Chẳng phải hắn đã sớm chết rồi hay sao, đêm nay vì sao lại vô cớ xuất hiện trên ụ khói lửa? Hắn ngơ ngác quay đầu sang nhìn Huyền Trang, hắn chưa bao giờ thấy trên mặt Huyền Trang có một vẻ nghiêm nghị tới như vậy, vị tăng nhân đã quen xem trời đất như cối xay nghiền nát chúng sinh này lần đầu tiên lộ ra vẻ mặt ngỡ ngàng và kinh sợ.

“Sư phụ…” Lý Thiền lẩm bẩm nói.

Huyền Trang kéo hắn một chút, ngưng thần chú ý. Sau khi treo đèn lồng lên xong, Lữ Thịnh lại xách một chiếc, theo cầu thang đi xuống tường thành, bước vào trong đình viện. Bóng dáng hắn thấp thoáng, tay áo rộng bay phấp phới, dường như là thân thể người chân thực nhưng lại dường như là một hình thù mơ hồ hư ảo. Trong đình viện có thú binh giơ đuốc lên, ánh đuốc chiếu tới, dưới đất có bóng.

Lữ Thịnh nhếch môi cười, ngoắc ngoắc tay với hai thú binh; đao trong tay hai thú binh đó rơi xuống đất leng keng, cả người đờ đẫn tê liệt như bị trúng tà, cứ thế xuôi tay đờ đẫn đi theo sau lưng Lữ Thịnh, bước về phía cổng thành của thú dịch. Thú binh trong đình viện sợ đến mức lũ lượt lui lại, lập tức có người chạy lên tường thành bẩm báo, nhưng Lâm Tứ Mã đã sợ đến mức đơ như tượng gỗ, đâu còn có thể trả lời.

Đám thú binh đành phải trơ mắt nhìn hai con rối đờ đẫn mở cổng thành, Lữ Thịnh xách đèn lồng dẫn họ đi từng bước vào trong sa mạc.

Ba đội buôn ngoài cổng thành không hề biết chuyện xảy ra trong thành nên không hề sợ hãi, chỉ hơi kinh ngạc. Còn Lệnh Hồ Chiêm trà trộn trong đội buôn Cao Xương lại ngây như phỗng, nhìn Lữ Thịnh chậm rãi đi xa, hắn nghiến răng nghiến lợi, chậm rãi rút hoành đao. Sách Dịch bên cạnh hắn hai mắt đỏ lên, vẻ mặt thương cảm.

Vẻ mặt Lý Thuần Phong lại trở nên nghiêm nghị, trong hai mắt lóe lên ánh sáng lấp lánh.

“Ma! Ma! Ma…” Lâm Tứ Mã đột nhiên kêu to. Rầm một tiếng quỳ xuống. “Hắn đến đòi mạng ta! Pháp sư mau cứu ta!”

Huyền Trang thở dài một tiếng, đi tới kéo Lâm Tứ Mã lên, phủi bụi trên đầu gối hắn. “Không phải hắn đến đòi mạng ngươi, hắn đến là để tái hiện lại cảnh tượng ngày đó.”

“Lữ lang!” Ngư Tảo sớm đã không cầm được nước mắt, lúc này mới tỉnh táo lại, chạy xuống dưới thành.

“Giữ Thập Nhị Nương lại!” Huyền Trang vội vàng dặn dò.

Lý Thiền tóm lấy cánh tay Ngư Tảo, thấp thỏm lo âu. “Sư phụ, rốt cuộc đây là chuyện gì?”

“Buông ta ra! Buông ta ra!” Ngư Tảo vội vàng nói. “Pháp sư, Lữ lang không chết, chàng không chết!”

“Thập Nhị Nương!” Huyền Trang nói điềm đạm. “Chúng ta cứ xem xem thế nào. Nếu bần tăng liệu không sai, hắn sẽ còn trở về.”

Ngư Tảo sửng sốt, mọi người cùng nhìn về phía sa mạc. Lữ Thịnh đã đi vào trong cát bụi, đèn lồng dần dần biến mất. Một lát sau, ánh đèn lờ mờ lại từ từ sáng lên, Lữ Thịnh xách đèn lồng đi ra từ trong cát bụi, đi theo sau lưng hắn là một đám bụi cuồn cuộn.

Đám bụi đó quay cuồng dưới ánh trăng, khi thì hiển thị ra hình dáng la ngựa, khi thì giống như những bóng người. Những bóng dáng ấy hư vô mờ mịt nhưng lại hiện ra rất chân thực, cứ thế đi theo sau lưng Lữ Thịnh bước về phía thú dịch. Sương mù và đèn lồng, đại mạc và cát bụi, bóng người và la ngựa, tất cả đều kỳ lạ vô cùng.

Lữ Thịnh xách đèn lồng đi vào cổng thành, đám người Ngư Tảo và Huyền Trang vội vàng đến trên lầu thành nhìn xuống bên dưới. Những bóng người bằng cát kia thu lại rồi biến mất ở cổng thành. Trong hai mắt Lữ Thịnh không hề có thần thái, chỉ nhìn vào hư không trước mặt, dường như những bóng người đó vẫn còn ở chỗ cũ.

“Ngươi có biết chính xác số lượng nhân mã của Dục Cốc Thiết không?”

Lữ Thịnh mở miệng nói, trong hư không lại không hề có tiếng người trả lời, nhưng Lữ Thịnh dường như nghe thấy, gật gật đầu rồi lập tức hỏi. “Chủ lực của hắn giấu ở nơi nào? Có bao nhiêu quân tinh nhuệ? Có bao nhiêu sĩ binh cung thủ? Rốt cuộc lần này vi sao hắn lại xâm lấn? Mục tiêu là ở đâu…”

Lữ Thịnh lần lượt hỏi dò, dường như trong hư không có người lần lượt trả lời, Lữ Thịnh lắng nghe hết sức chăm chú, sau đó khẽ gật đầu.

“Sư phụ.” Lý Thiền lẩm bẩm. “Quả nhiên anh ta đang tái hiện lại tình cảnh hôm đó.”

Mặc dù Ngư Tảo hết sức nhớ nhung, nhưng cũng phát giác ra có chuyện kỳ lạ đáng sợ, không dám tùy tiện lên tiếng, chỉ lặng lẽ nhìn. Đột nhiên trong đình viện tối sầm lại, đèn lồng tắt đi, Lữ Thịnh biến mất.

Đám người Huyền Trang kinh ngạc tìm kiếm khắp nơi, đột nhiên trong tai lờ mờ nghe thấy người hô ngựa hí, mặt đất rung động, tiếng cung tên dày đặc như mưa rơi vào trên lá chuối. Bảy, tám ngọn đuốc cắm dưới mái đại đường vô cớ tự cháy, trong đình viện trở nên sáng choang. Lữ Thịnh tay cầm hoành đao xuất hiện ở ngoài đại đường, dưới ánh lửa, hắn giận dữ quát lên. “Vì sao? Vì sao?”

Lúc này một đám sương mù màu đen từ cổng thành tràn vào, sương mù đó cực kì dính và đậm đặc, cuồn cuộn không ngừng, dan dân nuốt chửng Lữ Thịnh. Lữ Thịnh trợn tròn mắt, gầm thét vung hoành đao, lại từ từ bị nó nuốt mất.

“Lữ lang…” Ngư Tảo khóc lao xuống tường thành, lao vào trong sương đen.

Lý Thiền kinh ngạc, vội vàng đuổi theo định giữ nàng lại nhưng không kịp. Ngư Tảo lao vào trong sương mù, muốn tóm lấy tay Lữ Thịnh nhưng lại tóm hụt, lao thẳng ra từ bên kia của đám sương mù.

Ngư Tảo kinh ngạc xoay người, trước mắt dường như là hoa trong gương, trăng dưới nước, trình diễn bi kịch nhân gian cùng thể sự bể dâu nhưng lại không thể đụng chạm vào. Sương mù bắt đầu tiêu tan từ dưới đất, thân thể Lữ Thịnh cũng dần dần tiêu tan theo sương mù. Ngư Tảo rơi nước mắt, chậm rãi vươn tay ra muốn chạm vào Lữ Thịnh, trên đầu ngón tay có sương mù bao quanh rồi nhanh chóng biến mất, bóng dáng Lữ Thịnh cũng hoàn toàn tan đi.

“Yêu nghiệt to gan, còn không mau đền tội! Trấn cho ta…”

Đột nhiên trên đình viện sáng lấp loáng, xuất hiện tám phù chú to lớn. Phù chú đó chính là những hình vẽ huyền ảo phức tạp được vẽ bằng những ngọn lửa nhỏ bé, bố trí giữa không trung dựa theo phương vị tám cửa của kỳ môn độn giáp; trên phù chú buông xuống những ngọn lửa lạnh màu trắng thăm thẳm giống như thiên la địa võng, hoàn toàn bao phủ chỗ sương mù vừa tiêu tan ấy. Lý Thuần Phong ung dung bước vào cổng thành, Lệnh Hồ Chiêm dẫn Sách Dịch và mười mấy tên bộ khúc theo sát phía sau.

“Các ngươi là ai?” Một tên thú binh quát hỏi.

“Bản quan là Trấn tướng Tây Quan Lệnh Hồ Chiêm, đến đây để hàng yêu bắt ma, những người không phận sự nhanh chóng tản ra hết cho ta!” Lệnh Hồ Chiêm lấy ngư phù ra quát lơn.

Vẻ mặt của Lý Thuần Phong căng thẳng, chăm chú nhìn vào pháp trận phù chú. Trong pháp trận được ánh lửa chiếu sáng, thân hình Lữ Thịnh vốn biến mất lại dần dần xuất hiện, biến ảo và vặn vẹo trong pháp trận, dường như đang gào thét không tiếng động. Trong lúc giãy giụa, ngón tay hắn thỉnh thoảng lại chạm vào lửa lạnh, lập tức kêu lên xèo xèo.

“Ngươi làm gì?” Ngư Tảo giận dữ, vung đao xông tới.

“Đừng qua đó! Người này kỳ lạ, không phải Lữ Thịnh!” Huyền Trang vội vàng kêu to. “Thế… Lý Sâm, đi kéo nàng về!”

Lý Thiền còn chưa tỉnh lại thì Ngư Tảo đã vọt lên, Lệnh Hồ Chiêm cười lạnh một tiếng, tiến lên nghênh đón Ngư Tảo, song đao va chạm. Keng một tiếng chát chúa. Ngư Tảo cũng không nói gì, hoành đao tiếp tục quay cuồng như mưa to gió lớn. Lệnh Hồ Chiêm ung dung bình tĩnh vung đao ngăn cản, một bước cũng không lùi, gắt gao ngăn cản Ngư Tảo khiến nàng không thể tiến thêm được một tấc nào nữa.

Lý Thuần Phong chỉ chăm chú nhìn vào pháp trận, đột nhiên trong tay bỗng có thêm một thanh kiếm gỗ đào, cầm một lá bùa vỗ lên trên thân kiếm, lạnh lẽo nói, “Trên mảnh đất này, thần linh thiêng nhất. Lên trời xuống đất, xuất nhập âm dương. Nghe ta kêu gọi, không được chần chừ. Lập nên công lao, ghi danh sử sách. Thu…”

Pháp kiếm của Lý Thuần Phong vừa vung lên, pháp trận trên không lập tức bắt đầu chậm rãi co lại, không gian trong trận càng lúc càng hẹp. Lữ Thịnh giãy giụa gào thét thảm thiết, ngay cả tóc cũng đang bị đốt cháy.

Khóe mắt Ngư Tảo như sắp nứt ra, điên cuồng tấn công Lệnh Hồ Chiêm, nhưng Lệnh Hồ Chiêm cũng thông thạo đao pháp lại dày dạn sa trường, nàng nhất thời không làm gì được hắn. Lý Thiền thấy thế cắn răng, rút đao xông lên cùng Ngư Tảo đánh Lệnh Hồ Chiêm. Đao của Lệnh Hồ Chiêm dần không chống đỡ được nữa, đám bộ khúc đang định đồng loạt xông lên thì bị Lệnh Hồ Chiêm ngăn cản. “Lui ra! Hai người này không thể bị thương ở trong tay ta!”

Lệnh Hồ Chiêm nhảy nhót tránh né giữa tường thành và tường bao, kéo Ngư Tảo và Lý Thiền càng lúc càng xa.

“Pháp sư không cần lo lắng, Lệnh Hồ Hiệu úy sẽ không thương tổn họ.” Sách Dịch đi tới bên cạnh Huyền Trang. “Pháp sư có biết pháp trận này không?”

Huyền Trang gật đầu. “Chính là loại phẩm màu mà ngươi dùng để họa phù lúc ở hang Mạc Cao?”

“Đúng vậy! Năm Trinh Quán nguyên niên, gia tộc nhận được ba tiền từ khoa Chú cấm Trường An liền đem cho ta, bây giờ đều đã dùng hết rồi.” Sách Dịch giảng giải. “Thứ này không hề có nhiệt độ, bình thường giống như sáp ong, lại cực dễ tự bốc cháy. Không có gì là nó không đốt được, dính vào đâu liền không thể dập tắt, gặp xương đốt xương, gặp sắt đốt sắt. Khói của nó khi cháy còn có kịch độc, cực kỳ lợi hại, người của khoa Chú cấm gọi đây là ‘ma trơi trắng’. Nghe nói thứ này do Viên Thiên Cương và Dược Vương Tôn Tư Mạc dùng nước tiểu người và cát để luyện. Viên Thiên Cương dùng nó để viết phù, lúc viết phù cũng phải hết sức thận trọng, nếu không phù sẽ lập tức bùng cháy rồi phóng thích kịch độc.”

Huyền Trang kinh ngạc. “Vì sao lại nói với bần tăng những điều này?”

“Xin pháp sư giúp đỡ, cứu mạng Lữ Thịnh,” Sách Dịch nói nhỏ.

Huyền Trang đột nhiên thấy kinh hãi, nhìn Sách Dịch chằm chằm hồi lâu. “Hắn không phải Lữ Thịnh!”

Sách Dịch cười khổ. “Chính vì pháp sư đã nhìn ra nên ta mới lớn mật khẩn cầu như vậy. Bất kể hắn là ai cũng đều không thể chết!”

Huyền Trang yên lặng một lát. “Cứ chờ xem, người này không dễ dàng bị hàng phục thế đâu.”

Đúng lúc này Lý Thuần Phong bắt đầu chân đạp thất tinh, gấp gáp niệm chú ngữ. “Thất tinh chú niệm, Khôi Giói Kỳ Bạt. Ngũ hành chú niệm, kim mộc thủy hỏa thổ. Thiên can chú niệm…”

Kiếm gỗ đào của Lý Thuần Phong vẽ thất tình tượng, ngũ hành tượng, thiên can tượng và thập nhị cung tượng, nhưng vẫn không thể áp chế nổi Lữ Thịnh. Thấy kiếm gỗ đào dần dần bốc khói, pháp trận phồng lên như sắp vỡ, Lý Thuần Phong xõa tóc ra, cắn ngón tay rồi vẩy máu vào trên kiếm gỗ đào, giận dữ hét lên. “… Nhị thập bát tú chú niệm, Giốc, Cang, Đê, Phòng, Tâm, Vĩ, Ki, Khuê, Lâu, Vị, Mão, Tất, Tuy, Tham…”

Đột nhiên Lữ Thịnh phát ra một tiếng rú thảm thiết, hắn ngẩng mặt thét gào, áo bào trên người bỗng chợt nổ tung, trên cánh tay không ngờ lại mọc ra lông sói!

Mọi người trợn mắt há mồm, thấy cơ thể Lữ Thịnh chậm rãi biến dạng, ngón tay từ từ mọc ra móng vuốt sắc bén, lưng gồ lên, mọc ra lông dài màu trắng bạc; thậm chí cả mặt mũi cũng bắt đầu thay đổi, mõm nhô ra, răng nanh mọc dài; một đôi tai đầy lông cũng dựng lên, cả người không ngờ lại hóa thành một con sói lớn màu bạc!

Con sói lớn ấy giận dữ gầm to một tiếng, phun ra một đám sương mù màu đen; hai móng vuốt của nó vung lên, pháp trận phù chú ầm ầm vỡ vụn rồi biến thành những đốm lửa bay đầy trời, rơi rụng xuống khắp nơi. Mỗi một đốm lửa rơi xuống đất, mặt đất cát cứng rắn bị đốt phát ra tiếng xèo xèo, không ngờ lại bị cháy đen! Còn kiếm gỗ đào trong tay Lý Thuần Phong cũng vỡ nát ra thành bột mịn!

“Sói! Nó là Khuê Mộc Lang…”

Trong thú dịch bất kể là thú binh hay bộ khúc, tất cả đều xôn xao, toàn bộ sợ hãi lui lại, trong sân vườn hoàn toàn yên tĩnh, tất cả mọi người đều ngơ ngẩn, chỉ nghe thấy tiếng đuốc nhựa thông đang cháy lách tách.

Khuê Mộc Lang âm u nhìn xung quanh một lượt, dùng chân trước vẽ ra một ký hiệu đầu nhọn eo nhỏ trên mặt đất, hình dạng như một chiếc giầy rách, trên nét vẽ có mười sáu ngôi sao bao quanh. Kí hiệu vừa thành, trên nét vẽ lập tức phun ra sương mù màu đen đậm đặc.

Đúng lúc này, một bóng người từ nóc đại đường nhảy xuống dưới, ánh đao trong tay lóe lên đâm thẳng vào đầu của Khuê Mộc Lang! Hóa ra lại là Lệnh Hồ Chiêm! Khuê Mộc Lang dường như đã đề phòng từ trước, nó bỗng nhiên xoay người, vuốt sói nặng nề vỗ trúng ngực Lệnh Hồ Chiêm. Rắc một tiếng, giáp ngực của Lệnh Hồ Chiêm bị xé rách, người bay ngược ra ngoài, phun ra một ngụm máu giữa không trung rồi nặng nề ngã xuống đất.

Khuê Mộc Lang cười âm trầm, xoay người nhảy vào kí hiệu dưới đất. Gió thổi lên, sương mù tan đi, Khuê Mộc Lang đã biến mất rồi.

“Là Thiên Cương tam thập lục biến, ngũ hành đại độn!” Lý Thuần Phong lộ vẻ kinh hãi, nhìn chằm chằm vào mặt đất trống trơn.

Ngư Tảo ngây ngốc nắm hoành đao, đứng trên một bức tường, vẻ mặt đờ đẫn, cảm thấy cả thế giới này đều đã rơi vào trong hỗn loạn rồi vỡ vụn, giống như cơn ác mộng khi trời sáng, lại giống như rơi vào giấc mơ cánh bướm của Trang Chu. Rốt cuộc là Lữ Thịnh hóa thành Khuê Mộc Lang hay Khuê Mộc Lang hóa thành Lữ Thịnh? Hay là đêm nay nàng vẫn chưa tinh, còn đang chìm sâu trong cơn ác mộng? Thân thể Ngư Tảo lảo đảo, Lý Thiền kéo nàng chạy đến bên cạnh Huyền Trang. “Sư phụ! Rốt cuộc đây là chuyện gì? Thứ này suy cho cùng là Khuê Mộc Lang hay là Lữ Thịnh?”

Huyền Trang bi thương nhìn trong đình viện. “Phàm có tướng mạo, đều là hư vọng. Cần gì phải cố chấp tìm cho ra rốt cuộc hắn là ai? Thứ ngươi nhìn thấy chỉ là hình chiếu của ngã tướng, nhân tướng, chúng sinh tướng và thọ giả tướng ở trước mắt mà thôi.”

Lý Thuần Phong lấy ra một bộ la bàn, nhìn kim chỉ nam trên đó rồi đột nhiên nói, “Càn vị, sáu thước ba tấc!”

Lệnh Hồ Chiêm bò dậy cầm một cây trường cung lên, chưa kịp nhìn đã bắn về hướng tây bắc. Hợi vị ở góc tây bắc là một bức tường, trong nháy mắt mũi tên bắn tới, trên tường có một hư ảnh lóe lên rồi biến mất. Phập một tiếng, mũi tên dài bắn vào tường đất.

“Tốn vị, tám thước năm tấc.” Lý Thuần Phong nói tiếp.

Lệnh Hồ Chiêm bỗng nhiên vặn người, như tia chớp bắn ra một mũi tên. Lá trên cây hồ dương ở hướng đông nam không có gió mà tự đung đưa, lập tức tên dài xuyên qua, chỉ bắn rơi vài chiếc lá rụng.

“Khôn vị, bảy thước một tấc!”

Lý Thuần Phong nhìn la bàn, không ngừng nói ra phương vị; tay của Lệnh Hồ Chiêm như đánh đàn, dây cung không ngừng bật lên phần phật. Khuê Mộc Lang kia thi triển các đại thần thông phi thân thác tích và chính lập vô ảnh trong Thiên Cương tam thập lục biến, ẩn giấu thân hình, độn thân thế ngoại, không ngờ lại không có một mũi tên nào có thể bám theo được bóng dáng của hắn.

“Cấn vị, năm thước!”

Năm thước đã là bắn ngang, Lệnh Hồ Chiêm không hề nhìn, một mũi tên bắn tới. Lúc này trong viện toàn là người. Phụp một tiếng, một tên bộ khúc bị bắn xuyên qua yết hầu. Lệnh Hồ Chiêm lại đặt một mũi tên. Khuê Mộc Lang dường như cũng phát hiện ra điều này, trà trộn vào trong đám người. Sau đó phương vị mà Lý Thuần Phong báo ra phần lớn là trong khoảng bốn năm thước, còn Lệnh Hồ Chiêm hoàn toàn không để ý gì đến thương vong, gần như là nhắm mắt lại bắn theo phương vị ấy.

Sau chốc lát trong viện đã xuất hiện thương vong, không ít bộ khúc và thú binh trúng tên, mọi người sợ đến mức tới tấp tránh né.

“A Di Đà Phật, chớ lạm thương người vô tội!” Huyền Trang vội vàng kêu lên.

Lúc này Lý Thuần Phong mới phát hiện tình hình trong đình viện, thở dài một tiếng rồi cất la bàn đi.

“Hết kế rồi sao? Xem bản tôn ra tay đây!” Trong đám người đột nhiên vang lên một tiếng cười lạnh lùng, mọi người nhìn theo tiếng cười ấy, không ngờ là lại phát ra từ một tên thú binh! Tên thú binh đó cười lạnh lùng độc ác, đột nhiên vung đao lên chém trúng cổ một tên bộ khúc đang đứng bên cạnh.

Tên bộ khúc ấy kêu một tiếng thảm thiết, xoay người ngã xuống.

“Đây là phép hóa thân trong Thiên Cương tam thập lục biến!” Lý Thuần Phong kêu to. “Có thể khống chế người khác theo ý mình!”

Mọi người xôn xao, một mũi tên của Lệnh Hồ Chiêm bắn tới chính giữa trán tên thú binh đó, mũi tên xuyên qua xương sọ, thú binh ngã lăn xuống đất. Mọi người vừa mới thở phào nhẹ nhõm thì một người bên cạnh Lệnh Hồ Chiêm lại cười nói. “Bản tôn ở đây cơ mà.”

Lệnh Hồ Chiêm hoảng hốt, còn chưa quay lại thì khóe mắt đã thoáng nhìn thấy ánh đao lóe lên. Hắn vội vàng vung trường cung ngăn cản. Chát một tiếng, trường cung bị chém gãy. Bắp đùi Lệnh Hồ Chiêm trúng đao, ngã xuống đất.

Đám bộ khúc đồng loạt xông lên, loạn đao phân thây tên thú binh đó.

Đột nhiên một tên bộ khúc đang chém giết thú binh thân thể cứng đờ, quay lại âm trầm cười. “Bản tôn ở đây!”

Bộ khúc đó đột nhiên vung đao lên chém giết không kiêng nể gì, trong nháy mắt đã có bảy, tám tên bộ khúc trúng đao, kêu thảm ngã xuống. Tên bộ khúc này còn chưa chết, mấy người khác cũng bị Khuê Mộc Lang khống chế, phát ra tiếng cười lạnh lùng rồi trắng trợn chém giết đồng đội bên cạnh.

Lúc này trong đình viện hoàn toàn đại loạn, mấy tên bộ khúc bảo vệ Lệnh Hồ Chiêm với Lý Thuần Phong, Lý Thiền và Ngư Tảo cũng bảo vệ Huyền Trang ở chính giữa, không cho phép bất cứ ai tới gần. Còn đám thú binh ai cũng không dám để người khác tới gần mình, mỗi người đều cầm đao cầm cung, cảnh giác chú ý những người khác.

Mặc dù thế cũng không ngăn cản được hóa thân của Khuê Mộc Lang, đình viện quá nhỏ, mọi người cách nhau quá gần, thường một người bị khống chế sẽ dẫn đến một vụ chém giết diện tích lớn. Nhất thời thú dịch biến thành một sát trường đẫm máu, vô số bộ khúc và thú binh vung đao lên điên cuồng chém giết. Còn có người cực độ sợ hãi, giương cung bắn lung tung, chỉ cần có bóng người lay động liền lập tức bắn tới một mũi tên. Tiếng kêu thảm thiết, tiếng rên rỉ, tiếng than khóc và tiếng đao mâu va chạm chém giết không dứt bên tai, xác chết nằm ngổn ngang.

“Đi, vào trong đại đường.” Lệnh Hồ Chiêm vùng vẫy đứng dậy.

Mấy tên bộ khúc cận vệ dìu Lệnh Hồ Chiêm, cùng Lý Thuần Phong và những chú cấm công, chú cấm sinh men theo tường đi tới đại đường của thú dịch. Lý Thuần Phong đưa tay vẽ một đạo phù trên cửa, mọi người đang định đóng cửa lại thì Ngư Tảo một cước đá văng một tên bộ khúc, dẫn Lý Thiền, Huyền Trang và Sách Dịch xông vào.

Đám bộ khúc nhìn Lệnh Hồ Chiêm một cái, Lệnh Hồ Chiêm gật đầu. “Cho họ đi vào!”

Lúc này Lâm Tứ Mã cũng xông qua đình viện, vừa vung đao chém ngã mấy kẻ cản đường vừa hô to. “Cứu ta! Cứu ta!”

Lệnh Hồ Chiêm cả người đầy máu ngồi dưới đất, lại cầm một cây trường cưng, giương cung đặt tên ngắm vào Lâm Tứ Mã.

“Người này không thể chết,” Huyền Trang trầm giọng nói.

Ngư Tảo và Lý Thiền đều dùng hoành đao ngăn Lệnh Hồ Chiêm lại. Lệnh Hồ Chiêm đành phải bất đắc dĩ hạ cung tên xuống. Lâm Tứ Mã kêu to xông vào, một chú cấm sinh vội vàng đóng cửa phòng. Lâm Tứ Mã toàn thân máu me, ngã bệt xuống đất, thở dốc nói. “Đa tạ, đa tạ pháp sư…”

Sau đó lại lập tức trợn mắt nhìn về phía Lệnh Hồ Chiêm. Lệnh Hồ Chiêm khinh thường quay mặt đi, phớt lờ hắn.

Lâm Tứ Mã cũng không có tâm tư tính toán với hắn, mọi người trong đại đường cũng vô cùng căng thẳng, đao cung trong tay ngắm chuẩn cửa phòng, vừa sợ hãi vừa hoảng hốt, mồ hôi chảy ra ướt đẫm người.

Trong đình viện, tiếng kêu thảm thiết và tiếng chém giết vẫn vang lên không ngừng, thỉnh thoảng có tiếng cơ thể người ngã xuống, lại có người đập vào trên tường đại đường. Uỵch một tiếng, lập tức có một chùm máu tươi bắn lên song cửa.

“Lý Tiến sĩ, làm thế nào bây giờ?” Lệnh Hồ Chiêm hỏi.

Lý Thuần Phong cười khổ. “Cứ chờ một lát, thần thông của kẻ này vượt qua dự tính của ta, pháp thuật ấy rất khó phá.”

“Còn chờ nữa thì người cũng chết hết rồi!” Ngư Tảo cả giận nói.

Huyền Trang đột nhiên không nói một lời đi tới trước cửa đại đường, đứng trong cửa gọi. “Lữ Thịnh huynh, có phải ngươi cần thiên y không? Bần tăng ở đây, có thể tha cho người vô tội không?”

Tiếng chém giết ngoài đình viện đột nhiên im bặt. Một lát sau có tiếng bước chân và tiếng la hét hoang mang lo sợ vang lên, hiển nhiên đám thú binh và bộ khúc trong đình viện đều đã chạy trốn tứ tán cả, sau đó chìm vào trong yên tĩnh.

Một hồi lâu sau, mọi người trong đại đường vẫn không hề dám cử động.

“Pháp sư!” Giọng của Ngư Tảo hơi nghẹn ngào. “Hắn thật sự là Lữ Thịnh sao?”

Hai mắt Huyền Trang cũng hơi đỏ lên, cố gắng đè thấp tâm tình của mình xuống. “Thập Nhị Nương, dù là phải hay không thì người mà cô nương và bần tăng tưởng niệm kia cũng đã không thể tìm lại được nữa rồi!”

“Vì sao? Vì sao?” Ngư Tảo khóc lớn. “Vì sao Lữ lang lại biến thành thế này? Chàng rốt cuộc còn sống hay đã chết?”

“Sống và chết, người phàm tục chúng ta sao có thể dễ dàng mà phân biệt được?” Nước mắt của Huyền Trang cũng chậm rãi rơi xuống, ngài điềm đạm nhìn nàng. “Ngoại đạo gọi nhân là thần, chết ở đây rồi sinh ở đó, dạo bước qua lục đạo, ấy chính là dáng vẻ của Lữ Thịnh bây giờ. Hắn là người mà ta đã từng thấy nhưng lại rơi xuống cõi tà ma, nhập thân vào sống chết luân hồi… Thập Nhị Nương, bất luận là còn sống hay đã chết, Lữ Thịnh trước kia cũng đã sớm không còn tồn tại, còn vì sao lại biến thành hình dạng ấy…”

Huyền Trang chậm rãi nhìn quanh trong đám người, thấy Lâm Tứ Mã, Lệnh Hồ Chiêm và Sách Dịch. “Ba vị đều có mặt ở đây, cũng nên công bố đáp án của việc này rồi chứ?”

Lệnh Hồ Chiêm lau máu trên khóe miệng, ngang ngược nói, “Ta không biết đáp án gì cả. Ta đến đây để giết Khuê Mộc Lang vì nó đã bắt thê tử của ta đi. Lữ Thịnh kia là thứ gì thì có quan hệ gì với ta đâu?”

Huyền Trang lạnh nhạt nói, “Lữ Thịnh chẳng những có quan hệ với ngươi mà còn có quan hệ rất lớn, bởi vì thê tử mới cưới Địch Văn của ngươi ban đầu là được hứa gả cho Lữ Thịnh!”

“Ngươi…” Lệnh Hồ Chiêm đột nhiên tái mặt. Hắn quay đầu sang, căm tức nhìn Sách Dịch. “Lão thất phu, ta nhất định phải giết chết ngươi!”

Mặt Sách Dịch không chút biểu cảm. “Trước lúc đến gia chủ đã ra lệnh cho ta chết ở Thanh Đôn Thú, ai giết cũng đều không sao cả.”

“Không được trút giận sang người Sách lão trượng,” Hưyền Trang nói. “Kì thực dù Sách lão trượng không nói, bần tăng cũng đã sớm nghi ngờ rằng Lữ Thịnh còn sống.”

Mọi người đều nhìn ngài chằm chằm, Huyền Trang suy nghĩ một lát. “Chuyện này phải nói từ ngày đầu tiên bần tăng đi vào Đôn Hoàng. Ngày ấy bần tăng đến Lữ trạch ở phường Thành Hóa, nhìn thấy ba tầng pháp trận vu, đạo và cơ quan trong sân, năm xưa cũng là Sách Dịch lão trượng tham gia bố trí, Địch Pháp Nhượng và Địch Xương nói rằng để đối phó với ma quỷ của Lữ phụ sau khi chết gây chuyện. Hôm nay Lý Tiến sĩ của khoa Chú cấm cũng ở đây, xin hỏi đối phó với ma quỷ có cần dùng đến cơ quan thuật hay không?”

Lý Thuần Phong lắc đầu. “Phù chú là đủ rồi.”

“Đúng thế. Vậy thì vì sao trong đình viện lại phải dùng cơ quan thuật phức tạp như thế để phối hợp với vu cổ thuật và đạo pháp?” Huyền Trang lạnh lùng nói. “Không có nguyên nhân nào khác, chính là để săn giết mãnh thú cỡ lớn!”

Lệnh Hồ Chiêm nghẹn lời không nói được gì.

Sách Dịch cười khổ. “Quả thật như pháp sư nói.”

Huyền Trang chăm chú nhìn ông ta. “Nhưng pháp trận đó cuối cùng lại không phát động, lúc bần tăng đến đã mục nát không còn ra hình thù gì nữa. Nếu bần tăng không đoán sai, mấy năm nay lão trượng bị gia tộc ghét bỏ, hẳn là vì lão trượng đã tiết lộ tin tức này cho Khuê Mộc Lang hoặc Lữ Thịnh rồi, đúng không?”

Sách Dịch kinh ngạc một hồi lâu rồi vái dài một cái. “Pháp sư biết tâm ý của ta, chết cũng không tiếc!”

“Sau khi thấy pháp trận đó, tiếp theo bần tăng có một nghi vấn, pháp trận săn giết mãnh thú cỡ lớn vì sao lại phải bố trí trong sân nhà của Lữ Thịnh? Vấn đề này khi ấy không trả lời được, thế là bần tăng nghĩ, có mãnh thú kiểu gì mà phải dùng đến pháp trận để giết? Đôn Hoàng chính là vùng sa mạc, không hề có mãnh thú cỡ lớn. Huống hồ đã phải dùng tới pháp trận để săn giết thì đương nhiên mãnh thú đó phải có một số thuật yêu dị, cả Đôn Hoàng này, thậm chí là cả Tây Sa Châu chỉ có Khuê Mộc Lang mới phù hợp thôi!” Trong mắt Huyền Trang lấp lánh ánh sáng, suy luận từng bước. “Thế là sự tình lại quay về điểm xuất phát: Vì sao lại săn giết Khuê Mộc Lang trong nhà Lữ Thịnh? Vì sao người bố trí pháp trận lại chắc chắn rằng Khuê Mộc Lang sẽ đến căn nhà cũ của Lữ gia? Khi đó bần tăng mới đến, rất nhiều sự tình đều không quá rõ ràng, nhưng có một điểm không có gì phải nghi ngờ nữa, ấy là giữa Khuê Mộc Lang và Lữ Thịnh nhất định có mối quan hệ mặt thiết.”

“Thì ra khi đó sư phụ đã suy đoán được rồi!” Lý Thiền khen. “Thế vì sao ngài lại không nói?”

“Bần tăng muốn sống lâu hơn một chút,” Huyền Trang đáp.

“Ngươi chớ có ngắt lời.” Ngư Tảo đá hắn một cước, Lý Thiền vội vàng ngậm miệng lại.

“Nhưng chuyện sau đó khiến bần tăng nghi ngờ. Đầu tiên là lúc ở hang Mạc Cao, Khuê Mộc Lang đuổi giết bần tăng và Lý Sâm, khi ấy thực ra Khuê Mộc Lang có cơ hội để giết chết chúng ta, nhưng lại không hề động thủ,” Huyền Trang nói tiếp.

Lý Thiền hồi tưởng về đêm kinh tâm động phách ấy, không nhịn được mà rùng mình một cái. “Quả thật là thế, lúc ở trên sạn đạo, với tốc độ và sức nhảy của Khuê Mộc Lang, thực ra giết chết chúng ta không hề khó.”

Ngư Tảo cũng im lặng nhớ lại.

“Khi đó bần tăng còn tưởng Khuê Mộc Lang sợ làm hỏng thiên y, nhưng sau đấy nhận được bản thảo Tam tự thư của Lữ Thịnh từ chỗ Thập Nhị Nương.” Huyền Trang lấy một chiếc túi gấm từ trong lòng, mở ra, bên trong là ba bản thảo sách. “Đây chính là bản thảo Tam tự thư, gồm Tự lộc mệnh, Tự trạch kinh và Tự táng thư, đều là bản thảo mà năm xưa Lữ Thịnh viết lúc ở Trường An. Bần tăng đã từng đọc kĩ ba bản thảo ấy, nhưng so với bản thảo này thì có mười mấy chỗ khác nhau, ví dụ như trong Tự trạch kinh thậm chí còn tăng thêm vài đoạn chữ viết.”

Sau khi kết bạn với Lữ Thịnh, Huyền Trang đã đọc ba tác phẩm mà hắn viết ở Trường An năm Vũ Đức thứ sáu rất kĩ, nên mới nhận ra có rất nhiều điểm khác so với bản ở Đôn Hoàng bây giờ.

“Văn chương trong bản ở Đôn Hoàng đã trải qua trau chuốt và chỉnh sửa, văn phong mạch lạc hơn, nhung vẫn cùng một dòng. Đây phải là việc làm của chính tác giả, cho nên bắt đầu từ khi ấy bần tăng đã nghi ngờ Lữ Thịnh còn sống. Mà việc Khuê Mộc Lang mang bản thảo tới in ấn cũng đã nói rõ về mối quan hệ giữa Khuê Mộc Lang và Lữ Thịnh. Vậy thì rốt cuộc giữa Khuê Mộc Lang và Lữ Thịnh là quan hệ gì?” Huyền Trang nhìn Ngư Tảo. “Đến tận lúc bần tăng từ miệng Ngư Tảo biết năm ấy Lữ Thịnh cầu hôn Địch thị, tiếp đó đến huyện nha Đôn Hoàng xem xét hồ sơ vụ án cũ Khuê Mộc Lang bắt cóc Địch Văn, phát hiện mục tiêu của Khuê Mộc Lang khi ấy chính là bắt cóc Địch Văn; mà nó chỉ giết vài người, còn lại đa số người là chết vì bị vật sắc chém. Đến lúc này chân tướng đã trở nên rõ ràng rồi.”

Lệnh Hồ Chiêm cười lạnh lùng. “Như vậy thì có gì rõ ràng chứ? Khi đó đội ngũ đón dâu của ta bị tàn sát, rất nhiều người bị thương quá nặng, không thể cứu chữa, ta không đành lòng để bọn chúng chịu đau khổ nên mới phải giúp bọn chúng một tay.”

“Không.” Huyền Trang lắc đầu, vẻ mặt bi thương. “Sở dĩ ngươi phải giết người là bởi vì cần diệt khẩu.”

“Chớ có mà nói xằng nói bậy!” Lệnh Hồ Chiêm sắc mặt dữ tợn, nắm chặt cán đao trong tay.

Ngư Tảo lập tức giương cung lên, đặt tên rồi ngắm thẳng vào hắn.

Huyền Trang không hề để ý, chỉ lạnh lùng nhìn hắn. “Bởi vì người hôm đó cướp Địch Văn đi là Lữ Thịnh! Hoặc nói giống như hôm nay, có hình dạng của Lữ Thịnh! Các ngươi tuyên bố Lữ Thịnh phản quốc bị giết, nhưng hắn lại xuất hiện lành lặn trên phố dài Đôn Hoàng, các ngươi không thể che giấu lời nói dối, đành phải ra tay động thủ giết người!”

Lệnh Hồ Chiêm toàn thân run rẩy, hoành đao trong tay rơi xuống đất. Trước mắt hắn đột nhiên hiện lên cảnh tượng của đêm dài đẫm máu năm Vũ Đức thứ chín. Khi ấy Lữ Thịnh tóc tai bù xù ôm Địch Văn bay lên trời, sau đó chính mình xách kiếm đi trong đám người, sắc mặt nhất định là rất dữ tợn và rất đáng sợ?

“Ngươi nói thứ này là người hay sói?”

“Ngươi nói xem, ngươi nhìn thấy là người hay sói?”

Ánh kiếm lóe lên rồi lại lóe lên, hắn xách kiếm đi qua đám người, vô số người liên tiếp ngã xuống; trên người hắn đã dính đầy máu, trên mặt hắn đã dính đầy máu, nhưng sự bạo ngược trong lồng ngực vẫn chồng chất và tích tụ lại như một ngọn núi lửa ngột ngạt.

Hắn ném trường kiếm xuống, ngẩng mặt la hét, dường như chính mình cũng đã hóa thành một con sói.

“Bắt đầu từ thời điểm ấy, trong lòng bần tăng cũng đã hiểu rõ, rằng Khuê Mộc Lang và Lữ Thịnh hẳn là cùng một người. Việc bần tăng được biết việc Địch gia đã đáp ứng hôn sự này từ miệng của Sách lão trượng chẳng qua chỉ là nghiệm chứng cho suy đoán của bần tăng thôi,” Huyền Trang lẩm bẩm nói. “Bần tăng không biết một người làm thế nào mà lại biến thành một con sói, cũng không biết rốt cuộc Lữ Thịnh bây giờ và Khuê Mộc Lang có phương thức cùng tồn tại ra sao, thậm chí không biết từ ý nghĩa phàm tục mà nói thì rốt cuộc Lữ Thịnh coi như đã chết hay vẫn còn sống; nhưng bần tăng biết, rằng hảo hữu chí giao năm ấy của bần tăng giờ đây đã không phải là con người. Khi đó ở hang Mạc Cao, sở dĩ nó không giết bần tăng là vì nó nhận ra được bần tăng nó vẫn có thể nhớ về tình hữu nghị năm ấy, là nó đang niệm tình nghĩa năm ấy.”

Nước mắt của Huyền Trang rơi xuống tựa mưa.