Chương 9 Biên tướng tham sân si,-Hiệu úy phiền não chướng
Trăng sáng chiếu vào từ nơi song cửa, ánh đèn lay động khiến ánh trăng cũng lay động theo, bóng của tất cả mọi người đều biến dạng và chập chờn. Ngoài đình viện là tiếng bốn chân của con sói lớn đang giẫm lên trênmặt đất, tiếng ken két vang tới rất rõ ràng.
Trong đại đường hoàn toàn yên tĩnh, sắc mặt mọi người không ai giống nhau.
“Thì ra ngươi tới Thanh Đôn Thú là để sắp đặt một cạm bẫy!” Lệnh Hồ Chiêm đắng chát nói. “Ngươi lấy Khuê Mộc Lang làm mồi, dụ chúng ta đến đây.”
Huyền Trang không nói gì, ngài chỉ nhìn hắn một hồi lâu. “Cũng không coi là đặt bẫy. Bần tăng biết các ngươi sẽ đến, cũng biết Khuê Mộc Lang sẽ đến, chỉ là lấy tự thân mình làm mồi, tứ phương va chạm, cuối cùng va chạm ra chân tướng thôi.”
“Tứ phương? Còn có một phương nữa là ai?” Lệnh Hồ Chiêm hỏi.
Huyền Trang quay đầu sang nhìn Lâm Tứ Mã. “Đương nhiên chính là vị Lâm Thú chủ này rồi.
“Ta…” Lâm Tứ Mã lui lại phía sau mấy bước, trong mắt lộ ra vẻ hoảng sợ.
“Bây giờ ngươi còn nói chính mình đã chém chết Lữ Thịnh ở Quỷ Mị Thích nữa không?” Huyền Trang hỏi.
Thân thể Lâm Tứ Mã rũ ra, hoàn toàn suy sụp ngã xuống đất. Hắn cao to vạm vỡ, có sức đẩy ngã bốn ngựa, dũng mãnh đứng đầu ba quân, vậy mà bây giờ lại không cầm nổi thanh đao trong tay.
Ngư Tảo phẫn hận cười lạnh lùng. “Ngươi đã biết ta là ai thì cũng biết rõ việc này không thể nào che giấu được. Trừ khi ngươi có thể giết sạch tất cả chúng ta, nếu không ngươi thân là biên tướng Đại Đường lại dung túng cho đám thương nhân người Hồ buôn lậu, cấu kết với kẻ khác mưu hại giám quân Lữ Thịnh, nhận ruộng tốt nhà cửa của người ta, mỗi một việc đều đủ để ngươi bị diệt môn diệt tộc!”
“Ta không sai!” Lâm Tứ Mã hai mắt đỏ rực, ngồi dưới đất cười thê thảm. “Tám sĩ tộc lớn thống trị Đôn Hoàng gần nghìn năm qua, nông dân canh tác trồng trọt cho họ, thợ đào hang đục núi làm hang cho họ, mục dân chăn thả trâu ngựa cừu dê cho họ; trong các ngành nghề khác họ đều có phường hội, thợ đá tác tượng, thợ vẽ cùng thợ nặn đắp tượng và làm bích họa; trong nhóm thợ rèn, thợ mộc và thợ nề đều có tổ chức. Nghìn năm qua bách tính nghèo khổ chúng ta vẫn sống như vậy, mỗi một nhà mỗi một hộ mỗi một người đều dốc hết sức ra để phục vụ cho sĩ tộc, ai cũng không thể thoát được khỏi tấm lưới khổng lồ này. Lúc trẻ chăn thả trên núi ở trấn Tử Đình, ta cũng đã từng nhìn lên bầu trời, ta cũng đã từng đứng trên đỉnh núi nhìn xuống dưới chân núi. Nhưng ta lại có thể làm được gì? Nhà ta chỉ là thợ nồi hèn mọn nhất, đời đời làm nồi, sửa nồi mà sống. Từ trước đến nay chưa bao giờ có một người thanh bần nào ở Đôn Hoàng có thể mặc vào áo bào lụa, có thể đi vào trong phán cung chạm vào sách vở.”
“Đó là do chính các ngươi đã không cố gắng!” Lệnh Hồ Chiêm lạnh lẽo nói. “Còn trẻ không cố gắng, về già tất bi thương. Sách vở người người đều có thể đọc, sĩ tộc chúng ta lại chưa bao giờ từng cấm thi thư!”
“Ta không cố gắng?” Lâm Tứ Mã nhảy dựng lên, không nén được giận kéo y bào ra, để lộ lồng ngực chằng chịt những sẹo. “Ta chém giết ở biên cương Đại Đường suốt nhiều năm qua, bao nhiêu lần tưởng chết may sao vẫn sống, như vậy mà còn là không cố gắng? Đúng là các ngươi chưa từng cấm thi thư, nhưng bọn ta một nhà ba nam đinh, Trung Nguyên đất rộng, mỗi nam đinh có trăm mẫu ruộng, ở Đôn Hoàng này mỗi một hộ chỉ có thể có sáu mươi mẫu ruộng. Đồng ruộng mỗi mẫu hai thạch, mỗi một hộ thu hoạch một trăm hai mươi thạch, sau khi xay giã còn lại bảy mươi hai thạch. Một gia đình sáu người mỗi năm ăn hết bốn mươi lăm thạch, phải nộp tô sáu thạch, một năm chỉ có thể để ra được hai mươi mốt thạch kê mạch; ngoài đổi những nhu yếu phẩm hàng ngày như muối ăn, dầu giấm, nông cụ, đồ sắt còn phải dự phòng việc gấp như thiên tai, bệnh tật, hiếu hỉ; còn phải nộp lụa hai trượng, bông ba lượng; ngoài ra còn phải gánh vác lao dịch, quan phủ và sĩ tộc còn muốn bắt nam đinh đi tu sửa kênh mương. Người một nhà cả ngày lao động còn không hết việc, nhà ai dám để con cháu không làm mà đi đọc sách?”
Lệnh Hồ Chiêm cứng họng, một hồi lâu sau mới nói, “Đây không phải do sĩ tộc Đôn Hoàng ta chèn ép, cả thiên hạ Đại Đường đều là như thế.”
“Đúng vậy!” Lâm Tứ Mã buồn bã nói. “Cho nên, người, một khi đã từng ngẩng mặt lên nhìn không trung thì sẽ không có cách nào để chấp nhận sự hèn mọn thêm được nữa. Cái lồng giam này bao trùm Đôn Hoàng, bao trùm Đại Đường, ai cũng không thể thoát ra được, ta đành phải tìm lối đi khác thôi. Năm ấy Lệnh Hồ thị các ngươi đến tìm ta, yêu cầu ta bán đứng Lữ Thịnh để đổi lấy đại trạch, ruộng tốt và vị trí Phó úy Tuyên Tiết chính bát phẩm hạ, ta liền đồng ý không cần suy nghĩ. Ha ha…” Lâm Tứ Mã cười thảm. “Vì sao không đồng ý chứ? Đây là cơ hội ta đã chờ mong cả một đời mà!”
Lâm Tứ Mã điên cuồng cười lớn, người đàn ông vạm vỡ ấy vậy mà lại cười như một đứa trẻ.
“Lâm Thú chủ.” Huyền Trang thở dài. “Trong quá trình hãm hại Lữ Thịnh, ngươi đã làm những chuyện gì?”
Lâm Tứ Mã lau nước mắt, cười nói, “Kỳ thực ta cũng không làm gì. Lúc trước nói với pháp sư, mỗi câu đều là thật, chỉ có kết cục là giả dối thôi. Hôm đó chúng ta trốn vào trong Quỷ Mị Thích, ta đánh ngất Lữ Thịnh, trói hắn lại rồi giao cho Lệnh Hồ Đức Mậu; ngoài ra ta còn đốt cháy đen thi thể của một chiến hữu, chém rơi đầu giả mạo làm Lữ Thịnh, sau đó giao cho quan phủ.”
“Giao cho Lệnh Hồ Đức Mậu?” Huyền Trang nhìn Lệnh Hồ Chiêm. “Các ngươi đúng là gan to hơn trời, không ngờ lại dám tự ý giam cầm một vị Trạng nguyên Đại Đường, Lục sự tham quân của Tây Sa Châu!”
“Pháp sư đoán sai rồi,” Lệnh Hồ Chiêm lạnh lẽo nói. “Chuyện đã đến nước này, ta cũng không tiếp tục che giấu nữa. Không phải là chúng ta tự ý giam cầm Lữ Thịnh, mà là đã trải qua thương nghị của Thứ sử Đỗ Dữ và Trưởng sử châu, giam giữ hắn trong địa lao huyện nha Đôn Hoàng, hơn nữa còn bí mật gửi công văn báo cáo với triều đình.”
“Nói bậy!” Ngư Tảo quát lên. “Rõ ràng là các ngươi hãm hại Lữ Thịnh, lại dùng xác chết cháy giả mạo chàng bị giết, tại sao còn dám giao chàng cho quan phủ?”
Lệnh Hồ Chiêm cười lạnh lùng. “Thập Nhị Nương tử, đây là hai việc khác nhau. Có người hãm hại Lữ Thịnh hay không là một việc, Lữ Thịnh thông địch phản quốc lại là một việc khác. Nếu là một Lục sự tham quân Tây Sa Châu tầm thường phản quốc cũng đành, nhưng một Trạng nguyên hai khoa của Đại Đường phản quốc, tới ngay cả Hoàng đế Bệ hạ cũng không thể nào chịu nổi. Việc Lệnh Hồ thị bọn ta làm chính là để giữ thể diện cho triều đình, cầm một cái đầu đến tuyên bố Lữ Thịnh đã chết, còn Lữ Thịnh thật sự thì giao cho quan phủ bí mật xử lý.”
Huyền Trang vỡ lẽ. “Thì ra lại là Hoàng đế đích thân cái quan định luận. Lệnh Hồ Đức Mậu đúng là mưu tính sâu xa, như vậy chẳng những ông ta giúp Lệnh Hồ thị thoát ra khỏi chuyện này mà còn khiến cho Lữ Thịnh hoàn toàn thân bại danh liệt.”
“Cũng không coi như Hoàng đế cái quan định luận,” Lệnh Hồ Chiêm nói. “Sau khi tấu chương được báo lên, Bệ hạ không hề trả lời dù chỉ một câu, giữ lại không công bố. Điều đó kỳ thực cũng nằm trong dự liệu của phụ thân ta, Hoàng đế không chịu nổi sự nhục nhã này nên đã làm như không hay biết. Sau đó Bệ hạ tước chức quan của đám người Đỗ Dữ, lại không nghe không hỏi về Lữ Thịnh trong lao ngục, hiển nhiên chính là đang hi vọng hắn sẽ chết ở trong ngục, không được nhắc đến việc này nữa.”
Nước mắt Ngư Tảo rơi như mưa.
Huyền Trang hỏi. “Sau đó Lữ Thịnh đi ra từ trong ngục, biến thành Khuê Mộc Lang thế nào?”
“Ta không biết.” Lệnh Hồ Chiêm thản nhiên đáp. “Hôm ta đón dâu, hắn đột nhiên xuất hiện, giết người bắt người trên phố. Sau đó chúng ta vào trong ngục xem xét, thấy cùm sắt rơi xuống hai tên quan coi ngục chết dưới vuốt sói. Rốt cuộc là Lữ Thịnh hóa thành sói hay sói hóa thành Lữ Thịnh, ta thật sự không biết, nhưng bất kể bọn chúng là ai, đều là thù địch mà ta phải giết chết!”
“Năm đó lúc còn ở trên thiên đình, bản tôn đã vô số lần xuyên qua mười vạn dặm bụi trần nhìn xuống hạ giới, thấy chúng sinh như kiến, sáng sinh chiều chết. Thiên nhân nhắm mắt một cái, ngủ gật một chút, chính là một đời của các ngươi. Ân thù của các ngươi trong mắt bản tôn cực kì nực cười, bản tôn uống rượu ngủ một đêm, ân thù đó liền tiêu tan cùng với tính mạng của các ngươi rồi, cho nên tất cả đều hoàn toàn vô nghĩa.” Trong đình viện đột nhiên vang lên tiếng ken két, dường như là Khuê Mộc Lang đang đi tới cửa đại đường, miệng nói tiếng người. “Pháp sư, ngươi muốn bản tôn đợi đến bao giờ?”
Lý Thiền quát lên. “Ngươi muốn thế nào?”
“Lần này bản tôn tới là để cướp lấy thiên y,” Khuê Mộc Lang thản nhiên nói. “Mấy ngày nay bản tôn đã nghĩ ra một biện pháp, thiên y chính là vật bất tán bất diệt, nếu đốt cháy Huyền Trang thành tro tàn, thiên y tất nhiên sẽ lại tái hiện. Cho nên pháp sư hãy theo bản tôn tới Ngọc Môn Quan một chuyến đi thôi. Ta đã chuẩn bị đài tam muội chân hỏa, bảo đảm ngươi chỉ chớp mắt đã hóa thành tro.”
“Đừng hòng!” Lý Thiền giận dữ quát.
Huyền Trang ngăn cản hắn, lạnh nhạt nói, “Bần tăng chỉ hỏi một vấn đề, rồi sẽ theo ngươi đến Ngọc Môn Quan. Lữ Thịnh đang ở nơi nào?”
“Đến Ngọc Môn Quan, bản tôn sẽ để ngươi nhìn thấy hắn,” Khuê Mộc Lang nói. “Vừa rồi có một việc ngươi đã đoán sai. Lúc ở hang Mạc Cao, lí do ta không giết ngươi là bởi vì Lữ Thịnh đã dặn ta không được hại đến tính mạng của ngươi, nhưng ta không hề đáp ứng hắn buông tha cho ngươi hai lần. Huyền Trang, ngươi có đi hay không?”
“Được, ta đi theo ngươi,” Huyền Trang đáp.
Ngư Tảo và Lý Thiền kinh ngạc, cùng nói, “Không thể…”
Ngay cả Lý Thuần Phong cũng lên tiếng khuyên nhủ. “Pháp sư, lúc ở Trường An ta đã nghe nói về danh tiếng của ngài, ngài là thiên lý mã của Phật môn, mang theo hi vọng chấn hưng Phật môn. Ngài xuất quan tây du, trên đường mặc dù gian nguy nhưng lại là để chứng thực đại đạo, cần gì phải vứt bỏ tính mạng ở chỗ này chứ?”
Huyền Trang cười đáp, “Đa tạ Lý Tiế n sĩ. Có điều đối với bần tăng mà nói, ra khỏi Trường An chính là đường tây du, mỗi tai mỗi kiếp trên đường đều là đại đạo mấp mô, bần tăng không dám trốn tránh. Huống hồ…” Huyền Trang nhìn ra ngoài cửa, vẻ mặt đau buồn, “... năm ấy bần tăng và Lữ Thịnh từng có một ước định, rằng phải cùng nhau chứng thực đại đạo trong lòng. Đạo của ta và hắn bất đồng, đường đi cũng khác, nhưng thế giới tương lai mà hai chúng ta muốn cùng mở ra lại giống nhau. Nếu như giờ hắn đã ngã xuống giữa đường, ta muốn biết vì sao hắn lại thất bại, vì cớ gì mà con đường ấy lại không đi được, như vậy ta mới biết đường của ta nên đi thế nào. Bất kể là địch hay bạn, là thiện hay ác, bần tăng đều nhớ rõ rằng các vị đã trang điểm cho thế giới Đại Thiên này ra sao, đã tô điểm cho nhân gian này lấp lánh thế nào.” Huyền Trang thản nhiên nhìn mọi người, cúi người thật sâu và chắp tay lại, tay phải của ngài lập tức bị đâm tới mức đầm đìa máu tươi, nhưng trên mặt ngài lại mang một nụ cười nhã nhặn.
Sau đó Huyền Trang xoay người bước tới cửa đại đường, đang định mở cửa thì một người đã tóm lấy cánh tay ngài. Ngài quay đầu nhìn lại, hóa ra là Sách Dịch.
“Pháp sư, xin hãy chờ một lát, để ta mở đường cho ngài đi!”
Sách Dịch cười cười, mở cửa bước ra ngoài rồi nhẹ nhàng khép cửa lại.
Cửa không hề đóng kín, để lộ một khe hở, từ trong đại đường nhìn ra ngoài chỉ thấy thân sói màu trắng đã chiếm hết tầm nhìn. Dường như Sách Dịch đang đứng mặt đối mặt với Khuê Mộc Lang.
Không biết Sách Dịch nói gì, Khuê Mộc Lang miệng nói tiếng người, âm thanh nặng nề. “Ngươi tội gì phải khổ như vậy?”
“Cũng không có gì là khổ với không khổ,” Sách Dịch nói. “Đời này lão hủ sa vào thuật số, mặc dù dòm ngó thiên đạo nhưng lại dùng mấy thứ ấy vào việc bói toán, xem phong thuỷ, xem nốt ruồi, giải mộng với xem ngày kết hôn cho người ta; đến tận lúc bị Lữ Thịnh vặn cho thua tan tác, ta mới phát hiện ra rằng đời này mình dò xét thiên cơ vậy mà lại chỉ vì để kiếm tiền tài của người khác. Từ khi đó, đại thuật sĩ Đôn Hoàng Sách Dịch đã chết rồi, đêm nay dù có chết thêm lần nữa thì cũng chẳng qua là chết một thể xác thôi. Lúc ấy vì cứu ngươi, ta sẵn sàng đoạn tuyệt với gia tộc, cũng chưa hề nghĩ đến chuyện được ngươi báo đáp, nhưng hôm nay ta lại muốn ngươi báo đáp ta. Ta không cần biết ngươi là Khuê Mộc Lang hay là Lữ Thịnh, ngươi đều phải đáp ứng ta một việc, đó là để cho pháp sư Huyền Trang tây du Thiên Trúc, chứng thực đại đạo.”
“Ngươi làm gì?” Khuê Mộc Lang rống giận.
Mọi người kinh hãi, cùng nhìn qua khe cửa trông ra bên ngoài. Cũng không biết Sách Dịch đang làm gì, qua khe cửa chỉ nhìn thấy thân hình Khuê Mộc Lang từ từ lui lại. Cuối cùng thân hình Sách Dịch hiện lên nơi khe cửa, một bộ vuốt sắc của Khuê Mộc Lang cắm ở ngực Sách Dịch. Sách Dịch đi từng bước một về phía trước, móng vuốt đó càng lúc càng đâm sau vào trong thân thể của ông ta, cuối cùng đâm thủng cả trái tim.
“Ta sẽ không đáp ứng ngươi đâu!” Khuê Mộc Lang cả giận nói.
Khóe miệng Sách Dịch chảy máu, thoáng nhìn vào khe cửa một cái rồi cuối cùng thân thể mềm nhũn, tuột ra khỏi vuốt sói trên ngực. Một chùm máu tươi lập tức bắn ra, Sách Dịch ngã xuống đất, trên mặt ông ta vẫn mang nụ cười, lẩm bẩm nói. “Tượng viết, ‘Trạch diệt mộc, Đại Quá. Quân tử dĩ độc lập bất cụ, độn thể vô muộn.’ ”
“Sách lão trượng!” Huyền Trang kêu một tiếng sợ hãi, đang định lao ra thì Lâm Tứ Mã bước tới chặn ở trước mặt ngài.
Lâm Tứ Mã nhặt lên một thanh mạch đao dài bảy thước từ bên cạnh, than thở. “Pháp sư, Sách Dịch đã là người phải chết, muốn chết được chết. Đêm nay còn có một người phải chết, chính là mạt tướng.”
“Lâm Thú chủ, không thể coi nhẹ sinh mạng như thế!” Huyền Trang sốt ruột nói.
Lâm Tứ Mã búng vào mạch đao, cảm khái nói, “Mạt tướng vì tư lợi của bản thân mà đã làm rất nhiều chuyện sai, dung túng buôn lậu, thu của đút lót, hãm hại Lữ Thịnh, cấu kết thổ phỉ; rất nhiều rất nhiều việc, nói cũng nói không hết, luận theo luật Đường đều là tội chém đầu. Nhưng năm đó ta đã từng ngẩng mặt lên nhìn không trung, làm sao cam lòng chết trong hình ngục thối hoắc như một con chó?” Lâm Tứ Mã bỗng mở tung cửa ra, rống to. “Ta là biên tướng của Đại Đường, để ta mở đường tây du cho pháp sư đi!”
Khuê Mộc Lang ngồi chồm hỗm ở trong đình viện, thân hình to lớn sừng sững kiên cường, bên cạnh là thi thể của Sách Dịch.
Lâm Tứ Mã vung mạch đao bảy thước lao vào Khuê Mộc Lang, gầm lên giận dữ, ánh đao thấu xương như sấm như sét. Khuê Mộc Lang cười lạnh lùng, thân thể loáng một cái đã đến phía sau Lâm Tứ Mã, vuốt sắc vồ vào cổ hắn. Lâm Tứ Mã vặn người, mạch đao xoay ngược lại chém về phía Khuê Mộc Lang. Keng một tiếng, mạch đao va chạm với vuốt sắc, tia lửa ban ra bốn phía, một người một thú đều lảo đảo.
“Sức mạnh thật lớn.” Khuê Mộc Lang cười lạnh lùng.
Đám người Lý Thuần Phong, Huyền Trang, Lý Thiền, Ngư Tảo và Lệnh Hồ Chiêm tới tấp đi ra đình viện, căng thẳng nhìn trận chiến diễn ra trong đình viện. Khuê Mộc Lang thân hình phiêu hốt, nhanh như chớp, lúc ẩn lúc hiện; còn Lâm Tứ Mã đao dài tay dài, ánh đao tung hoành, trong vòng một trượng hai thước xung quanh giống như đang tràn ngập ánh đao, cả không gian đều bị chém vỡ tan. Mạch đao thỉnh thoảng lại chém vào hồ dương, tường viện và xe cộ xung quanh, chém vào nơi nào đổ gãy nơi đó, bụi đất mịt mù, vụn gỗ bay tán loạn.
Lâm Tứ Mã vừa hét lên vừa chiến đấu, sự hung hãn nhiều năm của gã biên tướng tham lam thành tính này giống như đã hoàn toàn bị kích thích, một người một đao không ngờ lại chém giết thảm thiết như khiến nghìn người cũng phải lui tránh, nhưng vẫn không chống nổi thần thông bí thuật của Khuê Mộc Lang. Vuốt sói lạnh lẽo dường như bất cứ lúc nào cũng có thể xuất hiện rồi biến mất trên hư không, mỗi một lần đều sẽ xé ra một vết máu ở trên người của Lâm Tứ Mã. Chỉ sau chốc lát, trên người Lâm Tứ Mã đã máu thịt tung tóe, mình đầy thương tích, có những nơi thậm chí tới ngay cả xương trắng cũng lộ ra ngoài.
Nhưng Lâm Tứ Mã lại không thèm để ý, thậm chí còn cười ha hả, hát ca dao trong quân đội Đại Đường. “Nhận lệnh từ quân chủ, đi thảo phạt loạn thần. Cùng ca ‘Phá trận nhạc’, cùng chung hưởng thái bình…”
Lời ca vừa mới dứt tiếng, vuốt sắc đã lóe lên trong màn máu; cổ Lâm Tứ Mã bị xé rách toạc, đầu rơi xuống đất, máu từ cổ phun thẳng lên trời; chỉ còn lại thi thể không đầu vẫn đang nắm mạch đao đứng sừng sững suốt một hồi lâu, rồi cuối cùng ầm ầm ngã xuống nền đất.
Huyền Trang không cầm được nước mắt, ngài vẫn nhớ đoạn ca dao mà Lâm Tứ Mã vừa hát chính là năm ấy sau khi Tần Vương dẹp tan Vương Thế Sung, Lữ Thịnh điền từ mới vào khúc cũ, vạn người đồng ca ngoài thành Trường An nghênh đón tướng sĩ khải hoàn, sau đó trở thành bài hát trong quân đội Đại Đường.
Giờ Mão ngày mới. Một vầng mặt trời đỏ mọc lên trên đại mạc, thành trì biên cương như máu. Những người chết đêm qua vẫn chưa được thu liệm, thi thể ngổn ngang, tay cụt chân gãy nằm lại khắp nơi.
Đám người Lệnh Hồ Chiêm và Lý Thuần Phong đứng ở trên tường thành, im lặng đưa tiễn.
Huyền Trang đi ra khỏi Thanh Đôn Thú, cưỡi một con ngựa, quay lưng về phía mặt trời đi về hướng tây. Ngư Tảo và Lý Thiên cưỡi ngựa đi theo sau lưng ngài, trên lưng ngựa chở lương khô, nước uống và chăn nỉ. Trong sa mạc xa xa, một con sói lớn đang ngồi chồm hỗm ở trên lưng ngựa chờ đợi Huyền Trang.
Huyền Trang quay đầu ngựa. “Thập Nhị Nương, Lý Sâm, hai người vẫn nên về đi. Lần này bần tăng đi nhất định sẽ chết, không có biện pháp bảo đảm an toàn cho hai ngươi đâu.”
Ngư Tảo lạnh nhạt nói, “Pháp sư, từ trước đến nay ta không cần bất cứ ai bảo vệ. Dù có chết ta cũng phải được thấy chân tướng.”
“Tội gì phải thế.” Huyền Trang hiểu tâm ý của nàng. “Bây giờ Ngọc Môn Quan đã là hang ổ của yêu ma rồi, dù cô nương được thấy chân tướng thì lại thế nào?”
“Ta luôn không cam lòng,” Ngư Tảo nói. “Ta đã chuẩn bị chấp nhận chân tướng tàn khốc nhất, nhưng nếu không được tận mắt nhìn thấy, ta nghĩ ta sẽ vĩnh viễn quanh quẩn ở nơi đại mạc này. Sống và chết, nếu đem so với một số việc thì chưa phải là lớn nhất.”
Huyền Trang không nói gì nữa, quay sang hỏi Lý Thiền. “Còn ngươi?”
“Ta…” Lý Thiền nhìn Ngư Tảo một cái. “Sư phụ, thực ra mấy ngày nay ta vẫn không rõ, ngài đối mặt với nguy hiểm cửu tử nhất sinh mà tây du, rốt cuộc là cần đi tìm thứ gì? Cho dù có tìm được thì vạn dặm cát lún, nếu như ngài không thể trở về thì lại có ý nghĩa gì? Nhưng bây giờ ta đã hiểu được một chút rồi.”
“Sao?” Huyền Trang cảm thấy hứng thú.
“Sư phụ,” Lý Thiền cười nói. “Ta không phải một đứa con trai tốt, cũng không phải một… thiếu gia tốt; mắt thấy trong nhà làm ăn không tốt, phụ thân ngày đêm âu sầu, vậy mà lại không hề có nhiệt huyết đi chia sẻ chức trách này, cũng không biết nên làm thế nào. Nhưng giờ đây ta đã yêu một người, ta sẵn sàng đi theo nàng ấy đến muôn đời muôn kiếp. Ta không biết cuối cùng sẽ là thành công hay thất bại, nhưng ta sẵn sàng đi tiếp bất chấp khó khăn nguy hiếm, bất kể sống chết. Bởi vì điều này làm cho ta cảm nhận được rằng chính mình còn sống, còn có máu để mà đốt cháy.”
Ngư Tảo cười lạnh lùng. “Lần đầu tiên ta nghe thấy có người nói một cách hào hùng như thế về chuyện trêu hoa ghẹo bướm của một tên quần là áo lượt… ơ?” Nàng đột nhiên hiểu ra, đôi mày lập tức dựng lên. “Người ngươi nói là ta đó hả?”
“Đúng vậy!” Lý Thiền mỉm cười nhìn nàng. “Nàng có thể lấy đao chém ta.”
Ngư Tảo hầm hầm nổi giận nhưng lại không thể làm gì được, oán hận không thèm để ý đến hắn nữa.
Ba người đang định thúc ngựa phi nhanh thì đột nhiên hai tên bộ khúc dìu Lệnh Hồ Chiêm từ trong Thanh Đôn Thú đi ra. “Pháp sư!”
Huyền Trang ghìm ngựa lại. “Lệnh Hồ Hiệu úy.”
Lệnh Hồ Chiêm đẩy bộ khúc ra, vất vả đi tới bên cạnh Huyền Trang. “Pháp sư có thể qua bên này nói chuyện được không?”
Huyền Trang xuống ngựa, cùng với Lệnh Hồ Chiêm đi sang bên cạnh.
Lệnh Hồ Chiêm thấp giọng. “Pháp sư, ta tới là muôn cầu ngài một việc.”
“Mời nói,” Huyền Trang nói.
Lệnh Hồ Chiêm nhìn về phía Khuê Mộc Lang xa xa, nghiến răng nghiến lợi. “Pháp sư, ta muốn nói cho ngài biết rằng Lệnh Hồ Chiêm ta không phải là kẻ hèn nhát. Vốn ta cũng nên giống như Lâm Tứ Mã kia, kể cả không địch lại mà chết cũng không hề tiếc nuối. Nhưng mà… nhưng mà…”
Lệnh Hồ Chiêm lộ vẻ đau khổ cùng cực, cơ mặt vặn vẹo.
“Bần tăng biết,” Huyền Trang điềm đạm nói. “Lần này bần tăng đi chính là để giải trừ họa Khuê Mộc Lang, không muốn lại có thêm người chết nữa.”
“Nhưng ta thật sự muốn rút thanh đao này ra…” Lệnh Hồ Chiêm lẩm bẩm. “Đêm qua vốn còn có một người phải chết, đó chính là ta. Lúc ta tới đây đã thề rằng nếu không giết được Khuê Mộc Lang thì sẽ không thu hài cốt, không táng tổ phần. Nhưng bây giờ ta thế này, không dám dễ dàng nói đến chuyện chết.”
“Bần tăng biết,” Huyền Trang nói. “Lệnh Hồ Hiệu úy, người chết thì đã chết rồi, người sống nếu không thể phá được tham sân si, cứ mãi chìm trong phiền não chướng, ngươi cũng sẽ giống như Khuê Mộc Lang này, là người mà ta từng thấy nhưng lại rơi vào cõi tà ma, rồi cuối cùng luân hồi sống chết.”
“Phiền não chướng, tham sân si…” Lệnh Hồ Chiêm nhắc lại. “Si vì sao cũng gọi là một chướng?”
“Si còn được gọi là vô minh, người si chính là si ngu, tâm tính chúng sinh mê ám, không hiểu lý lẽ. Cho nên Phật gia nói, các phiền muộn sinh ra, đều là vì si cả.” Huyền Trang giải thích.
“Không hiểu lý lẽ… Không hiểu lý lẽ…” Lệnh Hồ Chiêm lẩm bẩm. “Từ năm Vũ Đức thứ chín Địch Văn bị bắt đi đến bây giờ, ta cố chấp săn giết Khuê Mộc Lang, trong ba năm giao thủ với hắn tám lần. Người đời đều cho rằng ta cùng Địch Văn yêu nhau quá đậm sâu, phải báo thù cho nàng. Nhưng pháp sư biết không, kỳ thực ta và Địch Văn gặp mặt nhau không quá hai lần, bây giờ ngay cả hình dáng của nàng thế nào ta cũng không còn nhớ rõ nữa!”
“Sao?” Huyền Trang lại hơi kinh ngạc. “Địch nương tử chẳng phải là thê tử của ngươi hay sao?”
“Đúng vậy!” Lệnh Hồ Chiêm đắng chát nói. “Mặc dù Lệnh Hồ thị cùng Địch thị đời đời giao hảo, hai họ có nhiều người thông hôn, nhưng bất luận là Lệnh Hồ thị hay Địch thị đều là sĩ tộc Hán gia nghìn năm, luôn chú ý lễ giáo môn phong. Đặc biệt là từ khi Ngũ Hồ loạn Hoa tới nay, lối sống của rợ Hồ lan tràn, sĩ tộc chúng ta càng tuân thủ nghiêm ngặt lễ pháp, ta cùng Địch Văn trước khi cưới căn bản không hề gặp mặt nhau. Chỉ có hai lần trước đó từng gặp, một lần là ngày Thượng tị năm nàng mười ba tuổi, tổ chức lễ trừ tà bên kênh nước, một lần là trong tang lễ của một vị phu nhân Địch thị trong tộc ta năm nàng mười sáu tuổi. Hôn sự của chúng ta cũng là do trưởng bối trong tộc sắp xếp, họ nói đời này Lệnh Hồ thị và Địch thị phải thông hôn, thể là hai chúng ta liền thành thân.”
Huyền Trang nhìn hắn thương xót, xuất thân từ sĩ tộc, thông hôn kỳ thực là một nghĩa vụ mà con em sĩ tộc phải thực hiện. Từ xưa đến nay môn phiệt sĩ tộc coi trọng nhất hai điều: Một là hôn nhân, hai là làm quan. Chính là dựa vào quan chức để duy trì địa vị chính trị của cao môn đại tộc, dựa vào thông hôn để duy trì giới hạn giữa sĩ tộc và hàn tộc.
Một môn phiệt sĩ tộc thường phải trải qua hàng trăm hàng nghìn năm mới hình thành, cho dù sau khi thay đổi triều đại, chưa hề có quyền có thế về mặt chính trị thì chỉ dựa vào sự thừa nhận mạnh mẽ từ mặt xã hội cũng vẫn duy trì được đẳng cấp từ vài chục đến trăm năm. Sự đả kích thật sự đối với sĩ tộc lại đến từ hôn nhân, sĩ tộc tuyệt đối không thể thông hôn với hàn tộc. Trong Thị tộc chí thời Bắc Ngụy đã quy định: Có thể từ tiện tịch nhập vào lương tịch, doanh môn tạp hộ, thương nhân Mộ Dung, tuy có gia phả, lại không thông hôn. Nếu có vi phạm, loại bỏ sĩ tịch.
Mà sự suy sụp thật sự của lễ giáo sĩ tộc chính là thời Bắc triều, gả con gái cho hàn tộc thứ tộc để đòi lấy sính lễ kếch xù, cò kè mặc cả giống như thương nhân, thậm chí ghi rõ giá cả. Điều này trực tiếp dẫn đến lễ pháp môn phong duy trì mấy trăm năm của sĩ tộc bắt đầu sụp đổ.
Vấn đề sĩ tộc Đôn Hoàng cần đối mặt còn nghiêm trọng hơn, họ sống ở biên cương nơi lối sống của người Hồ rất phổ biến, những người Hồ đó đừng nói là dòng dõi, ngay cả lễ pháp hàng ngày của người Hán cũng không hề tuân theo. Tại một số khu vực của người Hồ đã quy thuận và được giáo hóa ở ngoài thành Đôn Hoàng, trong hôn nhân vẫn thịnh hành chế độ kế tục, sau khi chồng chết liền lấy em trai hoặc con trai của chồng.
Sĩ tộc Đôn Hoàng muốn duy trì được môn phiệt hiển hách của mình thì càng phải cố chấp tuân theo lễ pháp môn phong.
Có một điểm khác chính là Đôn Hoàng nằm ở trung khu mậu dịch, từ Bắc triều đến Tùy Đường, rất nhiều hàn tộc tạp tính thông qua buôn bán kiếm được rất nhiều của cải, hoặc trải qua thay đổi triều đại đột nhiên giành được quan cao chức lớn; mà những gia tộc này một khi đã có chỗ dựa về của cải hoặc quan chức, tất nhiên sẽ thách thức địa vị xã hội của sĩ tộc. Trước như Lữ thị trăm năm trước, sau như Thứ sử Vương Quân Khả bây giờ. Vì vậy tại khu vực rời xa Trung Nguyên, tương đối cô lập và nửa phong bế như Đôn Hoàng này, sự thông hôn của các sĩ tộc lại càng cấp bách.
“Mặc dù ta và Địch Văn không hề quen biết, cũng chưa động phòng, nhưng nàng là thê tử ta cưới hỏi đàng hoàng. Đêm hôm đó Khuê Mộc Lang bắt Địch Văn trên phố dài Đôn Hoàng, chẳng những là sự nhục nhã tột cùng của Lệnh Hồ thị ta mà cũng là sự nhục nhã tột cùng của Lệnh Hồ Chiêm ta,” Lệnh Hồ Chiêm nói. “Nếu khi đó nàng bị giết thì cũng thôi, không ảnh hưởng gì đến trinh tiết, nhưng nàng lại bị bắt… Một cô nương trẻ trung xinh đẹp bị người ta bắt đi sẽ gặp phải chuyện gì, pháp sư chắc hẳn cũng rất rõ ràng. Đêm qua pháp sư suy đoán khi đó ta giết người là để che giấu tin tức Lữ Thịnh xuất hiện, điều này đương nhiên quan trọng, nhưng kỳ thực đối với ta mà nói, ta giết người là bởi vì bọn chúng một mực khẳng định Địch Văn bị người bắt đi chứ không phải bị sói bắt đi!”
Lệnh Hồ Chiêm nhấn rất mạnh vào hai chữ người và sói này, Huyền Trang lập tức hiểu được.
Đối với gia phong và danh dự của sĩ tộc mà nói, đây quả thực có sự khác biệt về mặt bản chất. Bị sói bắt đi, chẳng qua là bị ăn thịt, bị người bắt đi lại liên quan đến vấn đề trinh tiết. Bất kể là Lệnh Hồ thị hay Địch thị đều không chịu nổi sự sỉ nhục này.
“Khi đó ta thật sự hoảng lên, suy nghĩ đầu tiên không phải sự sống chết của vợ mới cưới mà là người khác sẽ nhìn nhận ta thế nào. Ta không phải là con trưởng nhưng lại thông tuệ từ nhỏ, gia tộc điều động tài nguyên tốt nhất để bồi dưỡng ta. Hai mươi mốt tuổi ta đã làm Hiệu úy Tuyên Tiết chính bát phẩm thượng, hai mươi ba tuổi làm Hiệu úy Dực Huy tòng thất phẩm thượng, phẩm trật mỗi năm tăng một bậc, bây giờ đã là Hiệu úy Trí Quả chính thất phẩm thượng, Trấn tướng Tây Quan, nắm giữ trong tay binh lực của cả châu thành Đôn Hoàng. Theo sự an bài của gia tộc, sau này ta sẽ không đi ra ngoài làm quan, phải giúp Lệnh Hồ gia trấn giữ căn cơ ở Qua, Sa. Ta từ nhỏ luôn thuận buồm xuôi gió, có vô số người đố kị ta, ta lại không bao giờ tranh giành với bọn họ, luôn tỏ ra lạnh nhạt thờ ơ. Nhưng trong lòng ta cực kì lưu tâm, bởi vì ta không thể nào khoan dung cho người khác vượt qua ta, càng không thể khoan dung cho việc chính mình có tì vết, trở thành đối tượng chê cười bàn tán của những người đó.”
Lệnh Hồ Chiêm nói thao thao bất tuyệt, dường như muốn trút hết những buồn bực đã tích tụ suốt cả một đời.
“Nhưng đêm hôm ấy ta đã hoàn toàn bị hủy diệt. Ta giết chết tất cả những nô bộc và bộ khúc có can đảm nói ra chữ người, nhưng dù ta có thể che giấu được bách tính bình dân thì tám sĩ tộc lớn vẫn đều biết hết chân tướng. Pháp sư, mối sỉ nhục chung của cả hai nhà tụ tập ở trên người một mình ta. Ba năm nay ta lao tâm khổ tứ săn giết Khuê Mộc Lang, làm cho chính mình tỏ ra hung ác cùng cực, trên mặt tràn đầy sát khí, chỉ là muốn khiến mọi người e ngại, không dám nhắc đến hai chữ ‘Địch Văn’. Ba năm nay ta vờ như tình sâu nghĩa nặng với Địch Văn, thề chết báo thù cho vợ mới cưới, chỉ là muốn để cho người khác biết ta làm như vậy vì tình nghĩa phu thê chứ không phải vì sự nhục nhã của bản thân mình.”
Lệnh Hồ Chiêm đột nhiên không cầm được nước mắt, đưa hai tay lên che mặt. Trên mặt hắn vẫn có máu tươi, bàn tay cũng dính đầy máu. Huyền Trang im lặng nghe, không nói một câu. Phật gia nói, tất cả phiền muộn sinh ra, đều là vì si cả.
“Mỗi người ở Đôn Hoàng đều biết ta yêu Địch Văn sâu nặng, có lúc ngay cả ta khi tỉnh dậy lúc nửa đêm cũng không khỏi cảm thấy đắng chát, giống như người mù cưỡi ngựa mù đi lại bên mép vực sâu,” Lệnh Hồ Chiêm lẩm bẩm nói. “Địch Văn chưa qua cửa đã chết, hôn ước của Lệnh Hồ thị và Địch thị kỳ thực cũng chấm dứt, nhưng bởi vì ta hành động như vậy nên đến nay hai nhà vẫn phải duy trì cuộc thông hôn giả dối này. Mà chính ta cũng bị mắc kẹt ở trong đó, không thể yêu người khác, không thể lại có hôn ước rồi lấy vợ sinh con. Ba năm nay ta lùng giết Khuê Mộc Lang tám lần, mỗi lần đều tay không mà về, kì thực ta đã cực kì mệt mỏi rồi, nhưng vẫn không thể không làm bộ làm tịch trước mặt người khác, vừa nghe thấy ba chữ ‘Khuê Mộc Lang’ đã làm ra vẻ nổi giận đùng đùng, kích động lỗ mãng.”
Lệnh Hồ Chiêm cười khổ nhìn ngài. “Pháp sư, ta đã tự chế tạo ra một tù ngục cho chính mình.”
Huyền Trang không biết nên nói thế nào cho tốt. Lệnh Hồ Chiêm có tài năng và trí tuệ hơn người, cũng nhìn thấu triệt rõ ràng về tình thế của mình, nhưng hắn lại tự tạo lao ngục rồi nhốt mình vào trong đó. Phật pháp độ người, càng cần tự độ.
“Nghe nói Phật gia có cách gọi là sám hối, nói rõ và ăn năn tội lỗi quá khứ trước mặt Phật và sư trưởng để diệt tội?” Lệnh Hồ Chiêm hỏi.
Huyền Trang gật đầu. “Trước kia tạo ra nhiều ác nghiệp, đều do một lẽ tham sân si. Sinh ra từ thân từ tâm ý, hết thảy nay ta đều sám hối.”
“Hết thảy nay ta đều sám hối…” Lệnh Hồ Chiêm nhắc lại, vẻ mặt đờ đẫn. “Những lời này pháp sư hãy coi như là lời sám hối của ta đi. Còn về chuyện ta cầu pháp sư… Lần này đến Ngọc Môn Quan, pháp sư có thể giúp ta hỏi Khuê Mộc Lang kia một câu, rằng hài cốt của Địch Văn táng ở nơi nào được không? Nếu ta có thể tìm được hài cốt của nàng, thu lại quy táng tổ phần, cũng xem như kết thúc sự đau khổ suốt ba năm nay.”
“Việc ấy nhất định bần tăng sẽ làm.” Huyền Trang gật đầu. “Có điều lần này đến Ngọc Môn Quan, bần tăng tám chín phần mười sẽ bị thiêu chết ở đó, làm sao có thể báo tin tức cho ngươi nghe được?”
“Nếu pháp sư nhận được tin tức, liền dùng vôi trắng vẽ vòng tròn trên tường đất của cổng thành Ngọc Môn Quan, tự nhiên sẽ có người tới tìm pháp sư,” Lệnh Hồ Chiêm nói.
Huyền Trang vỡ lẽ, Lệnh Hồ thị cùng Khuê Mộc Lang đã đấu với nhau suốt nhiều năm qua, hẳn là sẽ cài vào một số tai mắt, đó là chuyện tất nhiên. Huyền Trang không nói gì nữa, hai tay hơi chắp lại rồi xoay người thúc ngựa mà đi.
Lệnh Hồ Chiêm im lặng đứng, vẻ mặt quạnh quẽ như trải qua bể dâu, quay lại phân phó bộ khúc. “Chúng ta về Đôn Hoàng thôi!”
Xử lý xong công việc giải quyết hậu quả ở Thanh Đôn Thú, Lệnh Hồ Chiêm cùng Lý Thuần Phong dẫn người của khoa Chú cấm và các bộ khúc sống sót trở lại Đôn Hoàng. Lệnh Hồ Chiêm nóng lòng muốn về nhà, ngày đầu tiên đã đi trăm dặm; lúc giờ Tuất chiều tối, trạm dịch Thổ Diêu Tử đã hiện lên xa xa trong tầm mắt.
Lúc đi bảy mươi tên bộ khúc, lúc về chỉ có hơn bốn mươi người, cộng thêm người của khoa Chú cấm, một đội ngựa kéo thành hàng dài trên đường sa mạc. Lý Thuần Phong vốn ở giữa đội ngũ, lúc này thúc ngựa chạy nhanh đuổi kịp Lệnh Hồ Chiêm, hai con ngựa sánh vai mà đi.
“Lệnh Hồ huynh,” Lý Thuần Phong nói. “Lần này hạ quan không thể hàng phục được Khuê Mộc Lang, để xảy ra tử thương nặng nề, cực kì hổ thẹn.”
“Lý Tiến sĩ không cần quá khiêm tốn.” Lệnh Hồ Chiêm không để ý. “Ta cùng Khuê Mộc Lang đấu suốt ba năm, biết rõ sự lợi hại của hắn. Mấy năm nay ngươi là người duy nhất có thể không rơi xuống thể hạ phong, toàn thân mà lùi ở trước mặt hắn. Nếu ngươi quen thuộc với pháp môn của Khuê Mộc Lang hơn, chưa chắc đã không thể hàng phục được hắn.”
Trên mặt Lý Thuần Phong mang nụ cười hờ hững. “Dường như ngươi không hề bất ngờ trước kết quả như vậy.”
Hai mắt Lệnh Hồ Chiêm co lại, cảnh giác đánh giá Lý Thuần Phong.
“Trước lúc xuất phát ở hương Lệnh Hồ, Lệnh Hồ huynh khảng khái tuyên bố ‘chết không quy táng’, có sự bi tráng của người tráng sĩ chỉ đi không về bên dòng sông Dịch lạnh giá. Mà giờ sau khi sự bại lại vội vội vàng vàng trở về, chỉ mong về sớm, điều này làm cho ta thật sự không hiểu.” Lý Thuần Phong lời lẽ sắc bén.
Sắc mặt Lệnh Hồ Chiêm sa sầm. “Lý Tiến sĩ đang chế giễu ta sao?”
Lý Thuần Phong cười, xua tay. “Đâu có, đâu có. Lệnh Hồ huynh là người làm đại sự, ta chỉ có kính nể.”
“Lời này là thế nào?” Lệnh Hồ Chiêm lạnh lùng nhìn hắn chằm chằm.
“Bởi vì cả chiến dịch Thanh Đôn Thú này chính là một ván cờ,” Lý Thuần Phong thản nhiên nói. “Bây giờ người đã chết đủ, thế cờ đã thành, Lệnh Hồ huynh đương nhiên phải trở lại Đôn Hoàng để chủ trì đại cục.”
Lệnh Hồ Chiêm lập tức ghìm ngựa, chiến mã hí dài một tiếng, đột nhiên dừng lại. Ngựa của Lý Thuần Phong chạy thêm mấy trượng mới dừng bước, quay đầu đối diện với ngựa của Lệnh Hồ Chiêm. Hai người cứ thế im lặng đối mặt, giữa hai bên dường như có bão táp cuồn cuộn.
Các kỵ sĩ đi theo cũng phát hiện tình hình khác thường, lũ lượt đi chậm lại, quan sát từ xa xa.
“Mấy năm nay tám sĩ tộc lớn của Đôn Hoàng vây quét Khuê Mộc Lang nhưng nhiều lần thất bại, vài ngày trước ngươi thậm chí còn điều động cả trấn binh để đại chiến một trận ở hang Mạc Cao nhưng vẫn không thể giết chết được Khuê Mộc Lang, còn bị xử trí bằng quân pháp, đánh mất chức Trấn tướng Tây Quan.” Lý Thuần Phong nói từng chữ từng câu, vẻ mặt binh tĩnh ung dung. “Cho nên đối với các ngươi mà nói, biện pháp duy nhất để bắt được Khuê Mộc Lang chính là điều động đại quân! Nhưng muốn điều động đại quân lại không phải việc các ngươi định đoạt, là Thứ sử Vương Quân Khả định đoạt. Vương Thứ sử xem ra không hề muốn xuất binh, cho nên các ngươi liền ép hắn không thể không xuất binh.”
Lệnh Hồ Chiêm lẳng lặng nhìn hắn, không nói một lời.
Lý Thuần Phong cũng không để ý, tiếp tục nói, “Trước đó nạn sói ở hang Mạc Cao mặc dù tử thương không ít quân dân nhưng lại chưa đạt đến mức độ ép Vương Quân Khả phải xuất binh, cho nên các ngươi liền vạch kế cuộc chiến Thanh Đôn Thú này. Hừ, Khuê Mộc Lang đánh vào Thanh Đôn Thú, tàn sát hơn mười thú binh, thậm chí Thú chủ Lâm Tứ Mã cũng chết, đây chính là sự khiêu khích thực sự đối với quân đội. Vương Quân Khả nếu còn không xuất binh, chớ nói các tướng quân đội Tây Sa Châu không đáp ứng, sợ rằng triều đình cũng không đáp ứng. Lệnh Hồ huynh, ngươi vội vã trở lại châu thành như vậy chính là muốn tiếp nhận quân đội đúng không?”
“Lý Tiến sĩ, đúng là ngươi thiên tư thông tuệ, nhưng ta sẽ không thừa nhận những gì mà ngươi vừa nói.” Lệnh Hồ Chiêm thầm giật mình trong lòng, sầm mặt đáp. “Ngươi nói đến mức độ này, rốt cuộc là muốn làm gì?”
“Lệnh Hồ huynh quả thực rất sảng khoái.” Lý Thuần Phong cười to. “Ta đến Đôn Hoàng là được Âm phi và Âm Thị lang nhờ vả, phải hàng phục Khuê Mộc Lang, mục tiêu nhất trí với tám sĩ tộc lớn ở Đôn Hoàng các ngươi. Lý Thuần Phong ta mới vào quan trường, chức quan mặc dù rất thấp, nhưng không phải không có lòng tiến tới. Nếu có thể hàng phục được Khuê Mộc Lang khiến cho trong ngoài triều chú ý, thì kể cả phải dùng tính mạng để đánh bạc cũng có gì là không được? Nhưng Lệnh Hồ huynh, ta không muốn làm con rối trong tay người khác, để mất tính mạng một cách uổng phí!”
Sắc mặt Lệnh Hồ Chiêm không đổi. “Lời này là thế nào?”
Lý Thuần Phong cười lạnh lùng. “Các ngươi thuật lại với ta rằng Khuê Mộc Lang chỉ là sơn tinh dã quái tầm thường, không hề nói hắn thần thông sâu không lường được tới như vậy! Ngày hôm trước đấu với hắn một phen, hắn tinh thông đại đạo kim đan cùng Thiên Cương tam thập lục biến, yêu nghiệt bậc này đâu phải ta vội vàng ra trận như thế liền có thể dễ dàng hàng phục được? Không đánh mất tính mạng ở Thanh Đôn Thú đã là may mắn lắm rồi! Cho nên, Lệnh Hồ huynh, nếu các ngươi muốn thật tình mời ta hàng yêu phục ma thì phải thành thật với nhau, không được có gì lừa gạt. Nếu các ngươi chỉ muốn lợi dụng ta một phen thì giờ đây chiến dịch Thanh Đôn Thú đã kết thúc, các ngươi cũng đã đạt được mục đích rồi, ta liền đặt mình ở bên ngoài việc này, trở lại Trường An. Nếu còn định gài bẫy hãm hại thì chính là khinh sư môn sau lưng Lý Thuần Phong ta mềm yếu dễ dàng bị ức hiếp!”
Lệnh Hồ Chiêm hai tay ôm quyền, thành khẩn nói, “Thuần Phong huynh, Lệnh Hồ Chiêm ta và Lệnh Hồ thị tuyệt không có tâm tư đặt bẫy hại ngươi! Trong chuyện này có lẽ có một chút hiểu lầm, hẳn là sai lầm trong nhận định thực lực của ngươi, của ta và của địch thủ. Đêm hôm kia ngươi đấu với Khuê Mộc Lang, thật sự là thần thông trác tuyệt, phép thuật tinh thông; ba năm nay chúng ta mời tới vô số thuật sĩ cao nhân, thực lực của Thuần Phong huynh chính là số một! Đợi trở lại Đôn Hoàng, ta tự sẽ phân trần về phía phụ thân và các vị gia chủ, đối đãi thành tâm, cùng diệt Khuê Mộc Lang, còn xin Thuần Phong huynh giúp ta một tay!”
Lý Thuần Phong nhìn xoáy vào hắn, dường như đang phán đoán thành ý của hắn.
“Tám sĩ tộc lớn chúng ta chỉ muốn kẻ địch chết, danh tiếng tiêu diệt Khuê Mộc Lang hoàn toàn thuộc về Thuần Phong huynh!” Lệnh Hồ Chiêm nói thêm.
“Được!” Lý Thuần Phong đưa tay ra, hai người nắm tay nhau, gạt bỏ mọi không vui vừa rồi.
Lệnh Hồ Chiêm tâm tình rất tốt, lúc này mọi người đã đến trước trạm dịch Thổ Diêu Tử, tất cả đều giảm bớt tốc độ, đi về phía cổng của thú dịch.
Lúc mọi người đang định vào trạm dịch nghỉ ngơi thì đột nhiên có một con khoái mã chạy đến từ phía nam, người trên ngựa mặc Hồ phục, trên đầu đội mũ có mạng, mạng vải mỏng màu đen che đến nửa người, trên người toàn là cát bụi. Ngựa chạy nhanh như gió thổi qua, dáng người kỵ sĩ cực kì mảnh dẻ, dường như là một phụ nữ.
Lệnh Hồ Chiêm nhìn một cái, đột nhiên ngẩn ra. Kỵ sĩ đó nhìn thấy Lệnh Hồ Chiêm, thân thể run lên nhè nhẹ, phi nhanh mà đến, gọi. “Cửu Lang!”
Âm thanh lanh lảnh, quả nhiên là một phụ nữ.
Lệnh Hồ Chiêm nhìn Lý Thuần Phong một cái. “Lý huynh, mời ngài vào trong trạm dịch nghỉ ngơi trước, ta đi xem xem xảy ra chuyện gì.”
“Được.” Lý Thuần Phong mỉm cười gật đầu, cùng người của khoa Chú cấm và đám bộ khúc đi vào trong trạm dịch Thổ Diêu Tử.
Lệnh Hồ Chiêm vội vàng thúc ngựa tới đón, hai con ngựa gặp nhau trên dịch đạo hoang vu. Người phụ nữ ấy vén mạng tiên mũ lên, lộ ra một khuôn mặt tiều tụy nhưng lại xinh đẹp vô song mang đầy tình cảm nhìn Lệnh Hồ Chiêm.
“Điệu Nương, quả nhiên là nàng.” Lệnh Hồ Chiêm kinh ngạc
Thì ra người phụ nữ này chính là đích nữ của Trương Tệ, Điệu Nương.
Lệnh Hồ Chiêm vội vàng đỡ nàng xuống ngựa, phát hiện thân thể Điệu Nương đã cứng đờ, hiển nhiên đã vất vả bôn ba một thời gian dài.
“Xảy ra chuyện gì? Tại sao cô nương lại đến đây?” Lệnh Hồ Chiêm hỏi liên tiếp.
Điệu Nương hai mắt ngấn lệ, dịu dàng nhìn hắn. “Cửu Lang, hôm qua Thanh Đôn Thú có khói lửa báo động, vũ hịch trong quân cấp báo chuyện xảy ra về Đôn Hoàng. Khuê Mộc Lang giết nhiều người như vậy, ta vô cùng lo lắng cho chàng nên muốn đến Thanh Đôn Thú tìm chàng, lại may mắn gặp được chàng ở đây.”
“Cô nương…” Tim Lệnh Hồ Chiêm đau như thắt, nhưng lại không biết làm gì hơn.
Từ sau khi Địch Văn bị Khuê Mộc Lang bắt năm Vũ Đức thứ chín, Lệnh Hồ thị và Địch thị liền tuyên bố với bên ngoài rằng Địch Văn đã chết, hôn nhân của hai nhà trên thực tế cũng đã kết thúc. Lệnh Hồ Chiêm là nhân tài kiệt xuất trong thế hệ trẻ của Lệnh Hồ thị, đương nhiên không thể không thành thân, ngay cả Địch Xương cũng ngầm thừa nhận sự thật này. Vài chục năm nay Trương thị và Lệnh Hồ thị không còn quan hệ quá mức mật thiết, mấy năm qua Lệnh Hồ thị thế lớn, Trương Tệ cũng có lòng thông hôn, Điệu Nương còn thầm thương trộm nhớ Lệnh Hồ Chiêm; chỉ có điều bởi vì nỗi nhục Địch Văn bị bắt, hơn nữa Lệnh Hồ Chiêm vẫn xem Địch Văn là thê tử nên Điệu Nương đành phải giấu kín mối thâm tình này ở trong lòng.
Lệnh Hồ Chiêm không phải không biết, nhưng vẫn đành phụ lòng người đẹp.
“Cửu Lang, chàng… chàng bị thương à?” Điệu Nương đột nhiên phát hiện một chân Lệnh Hồ Chiêm quấn băng vải, trên băng vải có máu thấm ra, lập tức hoa dung thất sắc.
“Trúng một đao mà thôi, không nặng,” Lệnh Hồ Chiêm nói. “Cô nương đến đây một mình sao? Thân phận của cô nương lại không thể để cho người khác biết, hãy buông mạng che mặt xuống, cùng ta vào trong trạm dịch nghỉ ngơi một lát.”
“Không sao, ta từ biệt phủ ở ngoài thành đến,” Điệu Nương nói. “Trương thị ta đã xảy ra đại sự, lúc này phụ thân cũng không có tâm tư để ý đến ta”
Lệnh Hồ Chiêm ngẩn ra. “Trương thị xảy ra đại sự gì?”
“Chàng còn không biết…” Lúc này Điệu Nương mới tỉnh ngộ, lập tức lộ ra vẻ phẫn nộ. “Cửu Lang, Thứ sử Vương Quân Khả kia động thủ với Trương thị ta rồi!”
Lệnh Hồ Chiêm giật mình, hỏi dò tỉ mỉ, sắc mặt lập tức trỏ nên âm trầm.
Thì ra đêm hôm Khuê Mộc Lang giết người, thú binh Thanh Đôn Thú liền đốt khói lửa, Thú phó suốt đêm chạy tới Đôn Hoàng báo động gấp. Thú chủ Lâm Tứ Mã bị giết, thú binh tử thương nặng nề, đây chính là việc lớn. Vương Quân Khả vặn hỏi Thú phó cặn kẽ.
Thú phó mặc dù không dám nhắc tới ân oán của Lữ Thịnh và các sĩ tộc, nhưng lại không dám che giấu chuyện Lâm Tứ Mã cấu kết thổ phỉ núi Bờm Ngựa, dung túng buôn lậu tham ô tiền lụa. Kế hoạch của tám sĩ tộc lớn giành được thành công, Vương Quân Khả không nén được giận, một mặt phái trấn binh chạy tới Thanh Đôn Thú chi viện, mặt khác điều động binh lực Tây Sa Châu tập kết, bày ra điệu bộ tiêu diệt Khuê Mộc Lang.
Tuy nhiên trong lúc tám sĩ tộc lớn đang vui vẻ chúc mừng, chờ Vương Quân Khả xuất binh thì ông ta lại đột ngột ra tay, nghiêm khắc điều tra đội buôn khả nghi buôn lậu!
Từ khi Đại Đường khai quốc tới nay liền thực hiện lệnh cấm biên, chẳng những người trong nước bình thường bị cấm xuất quan mà ngay cả đội buôn người Đường cũng không thể xuất quan buôn bán. Luật Đường quy định, người vượt biên quan, tù hai năm.
Việc này thực chất chính là đã chắp tay dâng quyền khai thác con đường tơ lụa cho người Hồ, mặc dù cũng hạn chế người Hồ buôn bán rất nghiêm khắc.
Nhưng mà việc buôn bán một vốn nhiều lời ấy vẫn hấp dẫn rất nhiều thế gia tham dự, có điều một là có luật Đường hạn chế, hai là địa vị của thương nhân thấp hèn, sĩ tộc và quan chức cần phải thanh lưu trong sạch nên không được kiêm thêm việc buôn bán, gia đình thương nhân cũng không được ra làm quan; bởi vậy không ít sĩ tộc thấy lợi sáng mắt đã lấy danh nghĩa chi thứ thành lập hãng buôn, bí mật hùn vốn với người Hồ để người Hồ ra vào quan ải, buôn bán theo con đường tơ lụa, còn hãng buôn thì ở một chỗ, nhận tiêu thụ hàng hóa.
Những sĩ tộc lớn này chiếm cứ Đôn Hoàng suốt mấy trăm năm, thế lực phân bố khắp các ngành nghề và các quan ải ở Tây Sa Châu, chẳng hạn như Thị lệnh huyện Đôn Hoàng quản lý giao dịch thị trường chính là tộc nhân của Trương thị. Đôn Hoàng là trọng địa biên giới nằm trên con đường tơ lụa, xưa nay không khí mậu dịch vẫn đậm đặc, triều đình cũng chỉ đành mở một mắt nhắm một mắt cho qua.
Ví dụ như trong hội đấu giá ở hang Mạc Cao, hãn huyết bảo mã trong tay đội buôn Lý thị chính là có lai lịch như vậy, mọi người cũng không thấy có gì lạ. Nhưng có một số sĩ tộc quá tham lam, âm thầm mua chuộc biên tướng như Lâm Tứ Mã để tiến hành buôn lậu, đây chính là hành vi triều đình phải nghiêm khắc tấn công.
Bây giờ Vương Quân Khả lại mượn vụ án của Lâm Tứ Mã, dấy lên cơn bão tấn công buôn lậu.
Đứng mũi chịu sào chính là Trương thị. Bởi vì Trương thị có hai điểm quá rõ ràng: Thứ nhất, Thị lệnh huyện Đôn Hoàng là tộc nhân Trương thị; thứ hai, Trương thị Đôn Hoàng và Trương thị nước Cao Xương là cùng nguồn gốc. Nước Cao Xương chính là quốc gia người Hán duy nhất ở Tây Vực, vương thất họ Khúc, Trương thị và Khúc thị xưa nay cùng chung vui buồn. Suốt mười mấy năm nước Cao Xương xảy ra chính biến Nghĩa Hòa, Khúc thị mất nước lưu vong, chính là Trương thị đã ngăn cơn sóng dữ, ba năm sau trợ giúp Khúc thị phục quốc. Bây giờ Đại tướng quân Trương Hùng chính là người nắm giữ binh quyền của nước Cao Xương, vì vậy hoạt động mậu dịch giữa Trương thị Đôn Hoàng và Trương thị Cao Xương cực kì mật thiết. Theo đường Sáo Can lên bắc mặc dù là nước Y Ngô nhưng Y Ngô là nước nhỏ, không hề dám đắc tội với Cao Xương, có nghĩa là chỉ cần hàng hóa của Trương thị Đôn Hoàng ra khỏi biên giới quốc gia Đại Đường liên có thể thông suốt một đường đến Cao Xương, Yên Kỳ mà không hề gặp phải trở ngại gì.
Trong tám sĩ tộc lớn ở Đôn Hoàng, thu lợi lớn nhất từ buôn bán chính là Trương thị và Lý thị.
“Tin tức Lâm Tứ Mã ở Thanh Đôn Thú dung túng buôn lậu truyền đến đã cho Vương Quân Khả kia một cái cớ, hắn vừa ra tay đã bắt luôn Thị lệnh Trương Khắc Chi, lập tức tịch biên mấy hãng buôn người Hồ và Trương thị Cao Xương, sau đó thông qua sổ sách và dòng tiền lụa lại trực tiếp bắt được sáu tên chủ sự của hãng buôn Trương thị Đôn Hoàng ta,” Điệu Nương nói. “Bây giờ Vương Quân Khả đang tra hỏi những chủ sự đó, nhất quyết phải kéo Trương thị ta vào đại án buôn lậu.”
Sắc mặt Điệu Nương vừa mệt mỏi vừa phẫn hận, lại lộ ra vẻ sợ hãi. Lệnh Hồ Chiêm im lặng nhìn nàng, không biết nên an ủi thế nào.
“Cửu Lang.” Điệu Nương chậm rãi rơi lệ. “Ta biết Vương Quân Khả đó điên cuồng như thế là bởi vì phụ thân ta đã cự tuyệt hôn sự của hắn, là ta đã làm liên lụy phụ thân, liên lụy gia tộc. Phụ thân không muốn ta lo lắng, đưa ta đến biệt phủ ngoài thành ở tạm, nhưng… nhưng trong lòng ta thật sự rất sợ.”
Điệu Nương chậm rãi ôm Lệnh Hồ Chiêm, hai mắt ngấn lệ nhìn hắn, dường như muốn nhận được một sự an ủi, một lời hứa hẹn. Lệnh Hồ Chiêm lại không biết nên nói gì, hắn nhìn qua tấm mạng mờ ảo, nhìn cát vàng mênh mông, lần đầu tiên cảm thấy bất lực và phân vân do dự.