Chương 10 Thần linh cao giọng nói,-kinh động người trên trời
Sau khi đi vào Quỷ Mị Thích, Huyền Trang, Lý Thiền và Ngư Tảo tiếp tục đi về hướng tây lệch nam. Khuê Mộc Lang không hề đi cùng bọn họ mà ngồi chồm hỗm ở trên lưng ngựa, không nhanh không chậm duy trì khoảng cách hai dặm phía trước. Mấy canh giờ sau, Khuê Mộc Lang bỏ lại một túi nước rồi một mình đi trước. Nhóm ba người Huyền Trang nhặt túi nước lên, cũng lẳng lặng uống, giữa hai nhóm người hình thành một sự hiểu ngầm rất ăn ý.
Cho dù là sau khi đêm đến, Khuê Mộc Lang cũng không hề ở cùng với ba người bọn họ. Ba người Huyền Trang cởi chăn nỉ trên lưng ngựa xuống, quấn quanh người rồi nằm xuống trên sa mạc, vừa nằm liền ngủ. Đêm khuya trong sa mạc không có người, cũng không biết Khuê Mộc Lang ở đâu, chỉ có tiếng sói hú lờ mờ như truyền đến từ nơi rất xa, thấm đẫm những cô tịch và bể dâu.
Ngày thứ hai họ đến bờ sông Sơ Lặc, đường cũng dễ đi hơn rất nhiều. Mọi người dọc theo bờ bắc sông Sơ Lặc đi về hướng tây, trước mặt là nước sông cuồn cuộn, bên bờ sông mọc đầy lau sậy rậm rạp, liễu đỏ và cam thảo; các loại thuỷ điểu không biết tên bay trên sông, bơi trên nước; một số cáo thỏ cừu dê nhảy nhót trong bãi cỏ cao.
Bờ nam sông chính là đường Đại Thích thời Tây Hán từ Đôn Hoàng đi đến Lâu Lan, Thiện Thiện và Yên Kỳ. Tây Hán thi công Trường Thành, có vô số ụ khói lửa. Đường Đại Thích bây giờ không khai thông, ngoài thương nhân người Hồ buôn lậu ra thì có rất ít người đi qua đây. Trường Thành đổ nát, ụ khói lửa tàn tạ, Đại Đường cũng sửa chữa lại một số chỗ, có thú binh đóng quân.
Lúc này trời đã hoàng hôn, thỉnh thoảng Huyền Trang còn có thể nhìn thấy trên ụ khói lửa ở bờ bên kia có bóng người lờ mờ và khói bếp đang bốc cao.
Ngư Tảo đột nhiên hét lên một tiếng kinh hãi, Huyền Trang vội vàng quay lại xem, chỉ thấy Ngư Tảo vẻ mặt hoảng hốt nhìn
Khuê Mộc Lang phía trước. Huyền Trang chăm chú nhìn, thấy Khuê Mộc Lang cách họ xa hơn một dặm, đang ngồi trên lưng ngựa đi trong một khóm liễu đỏ, hình bóng cứ lúc ẩn lúc hiện. Mà trong lúc ẩn hiện này, Khuê Mộc Lang lại đang chậm rãi biến thân, hình sói từ từ biến mất, không ngờ lại biến thành một người đàn ông mặc trường bào áo trắng! Tư thế ngồi trên ngựa của hắn cũng từ ngồi chồm hỗm biến thành cưỡi ngựa!
Huyền Trang, Ngư Tảo và Lý Thiền thúc ngựa đuổi theo. “Khuê Mộc Lang” đã biến hình đang dừng ngựa đứng trên cồn cát bên bờ sông Sơ Lặc, ngắm nhìn bờ bên kia, áo trắng như tuyết, thân hình vạm vỡ.
Sau khi ba người đến nơi, Khuê Mộc Lang đó lạnh lùng quay đầu liếc họ một cái. Ngư Tảo lập tức đưa tay lên che miệng, trên mặt vừa ngạc nhiên lại vừa vui mừng. Thật không ngờ người xuất hiện trước mắt họ lúc này chính là Lữ Thịnh!
“Lữ lang…” Ngư Tảo cất tiếng gọi.
Mặc dù hiện giờ Khuê Mộc Lang đang ở trong hình dáng Lữ Thịnh, nhưng ánh mắt nhìn ba người họ lại lạnh giá và trống rỗng, không hề có chút tâm tình nào, dường như trước mắt họ là một bức tượng được khắc bằng băng tuyết. Mọi người lập tức hiểu ra, rằng đây vẫn là Khuê Mộc Lang!
Mặc dù Huyền Trang và Lữ Thịnh đã mấy năm không gặp, nhưng ngài biết người trước mắt tuyệt đối không phải Lữ Thịnh. Lữ Thịnh là người tao nhã ung dung, cao nhã hào hiệp, cho dù xem thiên hạ như bàn cờ, năm tháng là cuộn tranh, lại vĩnh viễn luôn khiêm cung lễ độ. Còn người trước mặt về khí chất chính là một người khác, lạnh lẽo và quỷ quyệt, sự khống chế đối với vẻ mặt và ánh mắt hiển nhiên đã không phải cùng một người, giống như hai linh hồn khác nhau bị nhét vào trong một thể xác vậy.
Huyền Trang không nói gì, chỉ nhìn hắn thương cảm.
Khuê Mộc Lang cũng không hề nói gì, ngắt một lá liễu đỏ cuốn thành kèn thổi, tiếng kèn lá chói tai vang lên, khóm lau sậy ở bờ bên kia đột nhiên đổ xuống một mảng, một chiếc bè gỗ to lớn chậm rãi hiện ra từ trong bãi lau sậy. Bốn gã người Hồ ra sức chèo bè gỗ sang bờ bắc, cùng quỳ lạy trên bờ cát. “Tôn thần, ngài đã trở về!”
Khuê Mộc Lang cưỡi ngựa đi thẳng lên trên bè gỗ. Người Hồ mời ba người Huyền Trang xuống ngựa, trèo lên bè gỗ, lại dắt ngựa của họ lên bè rồi chèo sang bờ bên kia.
Vượt qua lau sậy và liễu đỏ trên bãi sông, trước mắt chính là Trường Thành thời Hán, theo sông Sơ Lặc kéo dài đến vô cùng vô tận. Trên Trường Thành là những ụ khói lửa và vọng canh san sát, mặc dù đã nhiều năm thiếu tu sửa nên đổ nát tan hoang, thậm chí có những nơi đã xuất hiện cả đoạn sụp đổ, có điều khí thế hùng vĩ nguy nga ấy vẫn làm cho mọi người phải khiếp sợ trước thành tựu quân sự hiển hách của Đại Hán năm đó.
Bên trong Trường Thành chính là hùng quan biên tái sáng ngời trong sử sách hàng nghìn năm, Ngọc Môn Quan! Năm Nguyên Thú Tây Hán thứ hai, Hán Vũ Đế lệnh cho Phiêu Kỵ Tướng quân Hoắc Khứ Bệnh xuất binh Hà Tây, tiến đến Hồ Cư Diên rồi xuôi nam về núi Kỳ Liên, vây diệt Hung Nô, giết Chiết Lan Vương, chém Lư Hầu Vương, ép Hồn Tà Vương giết chết Hưu Đồ Vương sau đó dẫn bản bộ đầu hàng. Hán Vũ Đế lập bốn quận Vũ Uy, Trương Dịch, Tửu Tuyền và Đôn Hoàng tại nơi này, lần lượt di chuyển hơn sáu mươi vạn người Trung Nguyên đến bốn quận, từ đó Đại Hán vững vàng khống chế Hà Tây.
Để che chắn mặt tây bắc, Hán Vũ Đế hao phí thời gian ba mươi năm xây dựng một nghìn tám trăm dặm Trường Thành, kéo dài từ Vĩnh Đăng, Lan Châu đến Ngọc Môn Quan, lại xây từ Ngọc Môn Quan đến La Bố Bạc. Đây chính là Trường Thành Tây Tái của Đại Hán.
Tiết điểm mấu chốt của Trường Thành Tây Tái chính là Ngọc Môn Quan.
Trong gần năm trăm năm từ Tây Hán đến Ngụy Tấn, bất kể dụng binh hay là thương mậu đối với các nước Tây Vực, các vương triều Trung Nguyên phần lớn đều đi qua Ngọc Môn Quan.
Lúc hưng thịnh, Ngọc Môn Quan đóng quân mấy vạn, kinh sợ vạn dặm Tây Vực. Theo “Nhật nguyệt sở nhập, phong tự ngọc môn” trong “Sơn hải kinh,” Hán Vũ Đế cho rằng Ngọc Môn Quan là cực tây của Đại Hán, vì vậy đặt tên là Ngọc Môn Quan; mà Ngọc Môn cũng là cửa ngọc trong vườn ngự uyển của đế vương, bởi vậy cái tên này đồng thời có ý là biên giới đất nước của Thiên tử.
Đến tận thời Bắc triều, La Bố Bạc từ từ tàn lụi, thành Lâu Lan bỏ hoang, đường Đại Thích từ Ngọc Môn Quan đến Thiện Thiện và Cao Xương ngày càng khó đi. Sau khi khai thông đường Mạc Hạ Diên Thích từ Qua Châu đến Cao Xương, nhà Tùy di chuyển Ngọc Môn Quan về đông đến Qua Châu. Thời điểm Ngọc Môn Quan mới bắt đầu trấn giữ con đường tơ lụa mới, đó cũng là lúc Ngọc Môn Quan cũ hoàn toàn bị vứt bỏ, từ đây chỉ còn lại tiếng vọng trong dư âm thơ từ của người Đường và những người đời sau.
Năm Vũ Đức thứ chín, sau khi hạ phàm, Khuê Mộc Lang chiếm cứ Ngọc Môn Quan cũ, từ đây Ngọc Môn Quan trở thành một tòa thành ngoài vòng giáo hoá.
Trường Thành xây trên đất cao bên bờ sông, đám người Huyền Trang đi theo Khuê Mộc Lang từ đoạn sụp đổ đi vào Trường Thành, lập tức cả Ngọc Môn Quan đều xuất hiện trước mắt.
Ngọc Môn Quan không phải một quan ải đơn độc mà là một hệ thống phòng ngự nhiều tầng, chia thành hai bộ phận gồm Trường Thành và quan thành. Trường Thành được cấu thành bởi thân tường, địch đài và đài khói lửa. Phương hướng phòng bị chủ yếu của Trường Thành Ngọc Môn Quan là Hung Nô và Đột Quyết bây giờ ở phía bắc, cơ bản kéo dài dọc theo bờ nam của sông Sơ Lặc, dựa vào sông Sơ Lặc và tường thành vững vàng chặn đứng kẻ thù ở phía bắc. Còn quan thành là công trình xây dựng bao gồm quan ải, thành lũy, đình và chướng, cùng Trường Thành tạo nên một hệ thống phòng ngự nhiều tầng.
Ngọc Môn Quan có một quan thành chủ yếu chặn ngang đường, mặt bắc là Trường Thành và sông Sơ Lặc, mặt nam là sa mạc và khe rãnh hoang vu. Trong quan thành, phía nam là một tòa binh thành, là nơi đóng quân hàng ngày của quân tốt, cũng có thể là nơi cư trú của một số gia quyến quân nhân và bình dân. Còn ở phía bắc quan thành có một tòa chướng thành vuông vức cao tới ba trượng, thân tường dày đến một trượng, cực kì chắc chắn. Chướng có nghĩa là màn chắn, đóng quân ở đây đồng nghĩa với việc làm màn chắn cho quan thành. Vào đời Hán, đây chính là sở chỉ huy của phủ Đô úy Ngọc Môn.
Bây giờ Ngọc Môn Quan đã hết sức rách nát rồi, khắp nơi đổ nát thê lương, thê lương như một thanh bảo kiếm đã han gỉ nghìn năm, tuy nhiên lại tràn ngập hơi thở của cuộc sống. Trong tường thành xây dựng không ít nhà cửa, có nhiều hộ cư dân, có người xua bò dê ngựa đến bên sông Sơ Lặc chăn thả, có người chăm sóc đồng ruộng kê mạch, thậm chí còn có vườn nho trải dài liên miên. Đây rõ ràng là một thế giới Đào Nguyên rơi vào giữa sa mạc rộng lớn, đâu có dáng vẻ âm trầm đáng sợ của hang ổ quỷ dữ như người ta nói? Khuê Mộc Lang vừa xuất hiện ở đoạn Trường Thành sụp đổ, trong quan thành đã có không ít cư dân vẻ mặt kích động chạy tới nghênh đón, từ tướng mạo và cách ăn mặc của mọi người thì có người Hán, có người Túc Đặc, có người Đột Quyết, có người Thổ Dục Hồn, có nam có nữ, có già có trẻ, thậm chí còn có một đội giáp sĩ áo giáp đầy đủ hành quân bước tới. Cánh quân này ước chừng một lữ, tay cầm thương mâu, trên vai đeo bội đao, lưng đeo túi tên, thoạt nhìn thì thấy cực kỳ tinh nhuệ.
Trong đó bốn gã giáp sĩ khiêng một chiếc ngai to lớn đi tới trước ngựa của Khuê Mộc Lang. Chiếc ngai này được đóng bằng gỗ hồ dương, cực kì tinh xảo, ba mặt có lan can, bên trên điêu khắc nhật nguyệt sao trời và các loại thiên tượng phức tạp.
Đám giáp sĩ quỳ xuống đất trước ngựa của Khuê Mộc Lang, chiếc ngai vừa khéo cao bằng bàn đạp trên ngựa. Khuê Mộc Lang giẫm bàn đạp, bước lên ngai rồi ngồi nghiêm chỉnh. Bốn tỳ nữ người Hồ nâng một bộ bào phục màu đỏ vàng và mũ miện quỳ bên cạnh, nhẹ chân nhẹ tay mặc lên người Khuê Mộc Lang. Hai vai bào phục thêu nhật nguyệt, sau lưng thêu sao trời.
“Đây là phạm thượng…” Lý Thiền lẩm bẩm nói.
Ngư Tảo thấp giọng hỏi. “Nghĩa là sao?”
“Thứ nhân và quan lại bên ngoài có thể mặc màu vàng, nhưng màu đỏ vàng chính là màu dành riêng cho Hoàng đế.” Lý Thiền giải thích.
Sau khi Khuê Mộc Lang mặc áo bào vào, bốn gã giáp sĩ nâng ngai lên cao, bước đi giữa đám người.
Tất cả mọi người đều tới tấp quỳ rạp xuống đất, lớn tiếng hô “Lang thần,” ai nấy đều vẻ mặt cuồng nhiệt mà thành kính quỳ lạy. Huyền Trang nhìn cảnh tượng này, không khỏi cảm thấy hết sức chấn động. Còn Khuê Mộc Lang lại không lộ ra chút cảm xúc nào, dường như đã quen với cảnh tượng ấy đến mức cảm thấy rất bình thường rồi. Vô số người quỳ rạp bên đường hình thành một lối đi, điểm cuối của lối đi dẫn đến một tòa đài cao ở giữa quan thành.
Đài cao được xây bằng đất đầm chắc chắn, cao một trượng, phương viên hai trượng, mặc dù không lớn nhưng cực kì vuông vức, bên cạnh có một sườn dốc xây bậc thang. Trên bãi đất trống dưới đài là mười một tảng đá lớn cùng bốn hố tròn được phân bố không theo quy tắc nào, hố sâu hai thước, không biết được dùng để làm gì.
Đám giáp sĩ khiêng ngai đi lên bậc thang, đặt ngai xuống chính giữa đài cao. Hai bên đài cao là hơn mười người Hồ phục sức sang trọng đang ngồi, tất cả đều vội vàng đứng dậy, từng người nâng hộp lễ vật trong tay lên rồi quỳ rạp xuống đất hành đại lễ, trong miệng hô lớn:
“Khả hãn Thống Diệp Hộ Tây Đột Quyết phái sứ giá bái kiến Lang thần, tham quan giáng thần thịnh điển, dâng lên một đôi ngọc bích!”
“Dục Cốc Thiết Đông Đột Quyết phái sứ giả bái kiến Lang thần, tham quan giáng thần thịnh điển, cống hai thớt thiên mã!”
“Khả hãn Thiết Lặc Di Nam phái sứ giả bái kiến Lang thần, tham quan giáng thần thịnh điển, dâng một hộc dạ minh châu!”
“Bồ tát Hồi Hột Kỳ Cân phái sứ giả bái kiến Lang thần, tham quan giáng thần thịnh điển, dâng sáu thanh bảo đao Damascus!”
“Thổ Dục Hồn Vương Mộ Dung Phục Doãn phái sứ giả bái kiến Lang thần, tham quan giáng thần thịnh điển, dâng một trăm cân vàng!”
Ba người Huyền Trang bị giáp sĩ ngăn cản, không được trèo lên trên đài cao, chỉ có thể đứng cùng một chỗ với bách tính Ngọc Môn Quan nhìn lên. Nghe thấy những người Hồ này không ngờ lại là Khả hãn và Vua các nơi phái đến triều bái, đám người Huyền Trang cũng không thể không kinh ngạc.
“Sư phụ.” Lý Thiền thấp giọng hỏi. “Vì sao nhiều Khả hãn và Quốc vương nước lớn như vậy đều đến bái kiến hắn?”
“Bởi vì chủ thượng nhà ta là Lang thần!” Một người bên cạnh thấp giọng cười, nói.
Ba người quay đầu sang nhìn, thấy đứng bên cạnh họ là một người đàn ông trung niên dáng người phúc hậu.
Người đàn ông trung niên ấy chắp tay thi lễ với Huyền Trang. “Trưởng sử Ngọc Môn Quan Triệu Phú ra mắt pháp sư Huyền Trang.”
“Ngươi biết bần tăng?” Huyền Trang kinh ngạc hỏi.
Triệu Phú cười nói, “Không hề biết. Có điều mấy ngày trước Khuê thần đã nói rõ với tại hạ trước khi đến Thanh Đôn Thú, dặn dò rằng phải tiếp đãi ngài thật chu đáo. Hôm nay ngài cùng với Khuê thần vừa đến đây, tại hạ liền biết là ngài!”
“Ngọc Môn Quan này có Trưởng sử?” Ngư Tảo cười lạnh lùng. “Chẳng lẽ là tự phong?”
Triệu Phú không hề tức giận, cười ha hả. “Cái danh ‘Thiên tử’ của Hoàng đế chẳng qua cũng chỉ là tự xưng, Khuê thần lại là chính thần trên trời hạ phàm, khó mà nói được bên nào cao quý hơn. Chẳng lẽ Trưởng sử Khuê thần phong lại không so được với Trưởng sử Thiên tử phong hay sao? Ngọc Môn Quan không những có Trưởng sử mà còn có cả Biệt giá, Tư mã và Tham quân.”
Ngư Tảo nhất thời yên lặng.
Huyền Trang hỏi. “Xin hỏi Triệu Trưởng sử, vì sao Ngọc Môn Quan này lại có nhiều bách tính như vậy? Dường như là Hồ Hán đều có.”
“Hồi bẩm pháp sư.” Triệu Phú cung kính trả lời. “Sau khi hạ giới, Khuê thần chọn Ngọc Môn Quan làm chỗ thần ẩn, bách tính các nước Tây Vực nghe danh quy thuận, bây giờ đã có hai trăm mười lăm hộ, hơn sáu trăm bảy mươi người. Phần lớn bách tính ở đây là tội phạm chạy trốn khỏi án tử, mục nô, nông hộ mất ruộng đồng, binh hộ trốn tránh quân dịch đến từ Đại Đường và các nơi ở Cao Xương, Thiện Thiện, Yên Kỳ, Thổ Dục Hồn và Đông Đột Quyết, cũng có một số là người Hán bị Thổ Dục Hồn và Đột Quyết bắt đi, làm quà biếu tặng để hầu hạ Khuê thần.”
Lý Thiền hỏi. “Vì sao những Khả hãn và Quốc Vương Tây Vực này lại cung kính với Khuê thần của các ngươi như thế?”
“Tất nhiên là Pháp sư cũng biết.” Triệu Phú cười tủm tỉm đáp.
Huyền Trang gật đầu. “Các bộ tộc Đột Quyết, Thiết Lặc và các nước Thổ Dục Hồn xưa nay đều sùng bái Lang thần, nghe nói tổ tiên của người Đột Quyết chính là do sói mẹ sinh ra.”
Ngư Tảo giật mình kinh ngạc. “Sói mẹ sinh ra? Sinh ra loài người?”
“Truyền thuyết của người Đột Quyết chính là như vậy,” Huyền Trang nói. “Họ A Sử Na của Đột Quyết trước đây từng bị nước láng giềng tiêu diệt, chỉ còn lại một đứa bé mới khoáng mười tuổi; binh lính thấy nó còn nhỏ, không đành lòng giết, liền chém chân nó rồi ném vào trong đầm lầy. Có sói cái lấy thịt nuôi đứa bé ấy. Đứa bé lớn lên, kết hợp với sói, sói cái mang thai. Vua nước láng giềng nghe nói đứa bé này còn sống liền phái sứ giả tới giết hắn. Sói trốn vào núi tây bắc của nước Cao Xương, nấp kín trong đó, sinh được mười con trai. Sau đó mỗi đứa con mang một họ, một trong số đó lấy họ A Sử Na.”
“Không ngờ lại có chuyện hoang đường như thế… ” Ngư Tảo lẩm bẩm nói.
Huyền Trang nhìn nàng một cái. “Đây là chính sử ghi lại. Trong ‘Ngụy thư’ còn ghi lại một việc, Thiền vu Hung Nô sinh được hai người con gái, dung mạo rất đẹp, người trong nước đều cho rằng đó là thần. Thiền vu nói, ‘Ta có hai đứa con gái này, sao có thể gả cho người được, phải gả cho trời’. Thiền vu liền xây đài cao tại vùng không người ở phía bắc đất nước, an trí hai người con gái ấy trên đài, nói mời trời cao đến đó đón đi. Ba năm sau, mẹ của hai nàng muốn đón các con về nhà, Thiền vu nói không thể, phải kiên nhẫn chờ đợi. Lại một năm nữa, có một con sói già ngày đêm canh giữ ở dưới đài gầm rú, nó đào chân đài làm hang sói, rất lâu không đi. Em gái nói ‘Cha ta an trí ta ở đây, muốn dâng cho trời cao. Nay có sói đến, hẳn là thần vật, là thiên thần’. Em gái muốn lấy con sói già này. Chị gái kinh hãi, nói ‘Nó là súc sinh, em làm như vậy là sỉ nhục cha mẹ!’. Em gái không nghe, đi xuống đài cao trở thành vợ sói, hơn nữa còn sinh con, sau đó con đàn cháu đống, cuối cùng trở thành một nước. Người trong nước đó thích hát trường ca, tiếng hát giống như tiếng sói hú vậy.”
Ngư Tảo và Lý Thiền nghe mà trợn mắt há mồm.
“Cho nên đối với các tộc Tây Vực như Đột Quyết mà nói, bọn họ đều là hậu nhân của tộc sói,” Huyền Trang nói. “Bây giờ bên ngoài nha trướng của Đại hãn Đột Quyết còn xây ụ cò đầu sói, tỏ ý không quên gốc gác của mình. Hình vẽ trên ụ cờ chính là đầu sói vàng. Khuê Mộc Lang từ trên trời hạ phàm, đổi với những dân tộc coi sói là tổ tiên này mà nói, đương nhiên là chuyện thần thánh.”
“Pháp sư thật thông thái.” Triệu Phú khen.
“Sư phụ, còn có sách gì mà ngài chưa đọc không?” Lý Thiền hỏi. “Chẳng những kinh sử Nho gia mà ngay cả những thứ như Mao Sơn thuật, Lâu Quan kinh đó cũng đọc nhiều như vậy, không phải điều ngài theo đuổi là đại đạo Phật pháp hay sao?”
Huyền Trang thoáng nhìn Khuê Mộc Lang trên đài cao một cái, lẩm bẩm nói, “Ta và Lữ Thịnh năm ấy suy nghĩ giống nhau, đã muốn tìm ra chính pháp vạn thế không đổi, liền hận không thể trúng được cả sáu khoa!”
“Nhưng mà…” Ngư Tảo vẫn có vẻ không rõ. “Vì sao lại có nhiều người đều cho rằng chính mình là đời sau do sói sinh ra như vậy?”
“Bởi vì…” Huyền Trang dừng lại một lát. “Chúng ta ai cũng đều không biết người là từ đâu tới.”
Lúc này trên đại mạc mặt trời đã lặn, màn đêm dần dần buông xuống, xung quanh có vô số ngọn đuốc và ánh đèn sáng lên, đột nhiên có tiếng kèn dài vang vọng. Đám người Huyền Trang chấm dứt nói chuyện, cùng nhau nhìn lại. Chỉ thấy Khuê Mộc Lang vẫn ngồi ngay ngắn trên ngai, còn bên ngoài bãi đất trống lại có mười lăm người đàn ông to lớn vạm vỡ chỉnh tề đi tới. Mười một người đi trước mặc minh quang khải giáp, trên đầu đội mũ sắt, mặt nạ hạ xuống, trên tấm giáp lạnh cứng rèn hình đầu sói dữ tợn, chính là tinh tướng mà đêm đó Huyền Trang đã gặp ở hang Mạc Cao. Còn bốn người phía sau lại mặc thường phục bình thường, trên đầu cũng không đội thứ gì, tóc tai bù xù, trên mặt vừa có vẻ sợ hãi lại vừa có vẻ hưng phấn.
Mười một tinh tướng đứng trên mười một tảng đá lớn, im lặng đứng trang nghiêm, còn bốn người bình thường đó lại nằm ở dưới hố tròn, xung quanh có người lấp đất xuống hố để chôn vùi họ. Sau khi hố đất bị lấp đầy, người dưới hố dường như có giãy giụa, mặt đất thỉnh thoảng lại rung động, mọi người dùng xẻng vỗ phẳng rồi đẩy cối đá tới đè chặt trên mặt đất.
“Phải chôn sống bọn họ sao?” Lý Thiền và Ngư Tảo kêu lên.
“Đây là làm gì?” Huyền Trang kinh ngạc, đang định tiến lên thì Triệu Phú đã vội vàng kéo ngài lại.
“Pháp sư không cần hoang mang, bọn họ sẽ không chết, đây là tiếp đón tinh tướng hạ phàm,” Triệu Phú đáp. “Chòm sao Khuê tổng cộng có mười sáu ngôi, sao chính chính là Khuê thần, có mười lăm tinh tướng hầu xung quanh. Ba năm trước sau khi Khuê thần hạ giới liền tiếp đón mười lăm tinh tướng xuống, linh thể nhập hồn trên người phàm nhân. Thân thể phàm nhân của mười lăm tinh tướng mặc dù sẽ tử vong, nhưng linh thể lại bất diệt. Mấy ngày trước chết mất bốn tinh tướng ở Đôn Hoàng, hôm nay Khuê thần phải tiếp đón bọn họ xuống một lần nữa, nhập vào trên người của bốn phàm nhân đó.”
Mọi người lập tức há to miệng, đặc biệt là Ngư Tảo. Nàng đã mấy lần giao thủ với những tinh tướng này, một năm trước thậm chí còn chém chết một tên, không ngờ những tinh tướng này lại còn có thể sống lại nhiều lần!
“Bây giờ thành Đôn Hoàng đang ngày càng có địch ý với Ngọc Môn Quan ta, chưa biết chừng sẽ xâm chiếm quy mô lớn. Chỉ cần có mười lăm tinh tướng ấy, kể cả có dăm ba trăm người đến đánh cũng có thể giết bọn chúng thua tan tác.” Triệu Phú nói đầy tự tin.
Lời này Ngư Tảo cũng không thể không thừa nhận. Những tinh tướng ấy võ thuật rất kém, gặp phải loại cao thủ thật sự như Vương Quân Khả, hai ba người cùng lên cũng không thắng được hắn. Nhưng dựa vào thân hình không sợ đao thương mũi tên và một thân thần lực, một khi đối đầu với sĩ tốt bình thường, quả đúng là người nào cản người đó liền chết. Mười lăm người tập kết xung trận, dăm ba trăm người cũng chỉ có thể dựa vào vô số tính mạng mới có thể chống lại được bọn chúng.
Trên đài cao đốt đuốc hừng hực, chiếu sáng khuôn mặt của Khuê Mộc Lang. Khuê Mộc Lang ngẩng đầu lên nhìn trời, bầu trời đêm màu xanh đen lấp lánh ánh sao, giống như những chiếc đinh bạc đóng ở trên trời cao, vô cùng vô tận, hằng hà sa số.
Trên trời có sao trời huy hoàng, dưới đất có ánh lửa sáng rực. Giờ khắc này, tất cả mọi người đều nhìn lên bầu trời, trong lòng tự nhiên sinh ra sự kính sợ muốn quỳ lạy. Đối mặt với trời đêm sao sáng mãi mãi vĩnh hằng, tất cả mọi người đều phải run rẩy, trên trời rốt cuộc là thế giới ra sao? Vì sao thiên nhân có thể mãi mãi trường tồn, mà cuộc đời của chính mình lại nhỏ bé và ngắn ngủi như thế?
Khuê Mộc Lang chậm rãi đứng dậy, quay đầu nhìn về phía Tây Thiên, lần đầu tiên lộ ra vẻ mặt phức tạp khó tả, dường như đang nhớ về những năm tháng lúc ở trên trời. Hắn chính là sao Khuê, ngôi sao đầu tiên trong chòm Bạch Hổ trấn thủ phương tây, xoay tròn xung quanh Tử Vi. Nghìn vạn kiếp vẫn vĩnh hằng như vậy, hắn nhất định là rất cô quạnh. Cho dù có đóng ở trên ười thì đó cũng chỉ là một chiếc đinh thôi.
“Đời người vì sao nhiều đường hẹp, chỉ vì muốn độ cả đất trời. Âm dương nhất định đều mai phục, trời đất phải giấu đại sát lục.” Đây là lần đầu tiên Khuê Mộc Lang lên tiếng trong ngày hôm đó, âm thanh to rõ và thê lương, mang theo tiếng thở dài cổ xưa. “Lúc ta ở trên trời đã từng vô số lần nhìn ra nơi vũ trụ hồng hoang, trên thông ba mươi sáu tầng trời, dưới thấu nhân gian hạ giới, đều là cô quạnh hoang vu như nhau. Ta trấn thủ ở phía tây Tử Vi, phía đông của ta có một ngôi sao gọi là Quân Nam Môn, đi qua chỗ đó, lại đi qua Phụ Lộ liền đi vào Các Đạo. Vương Lương đánh xe chạy qua bên Các Đạo, hắn cứ quất một roi liền sáng lên một ngôi sao lấp lánh, rất lâu không tắt. Ta đã từng đi trên Các Đạo, từ chỗ đó nhìn ra xa sẽ thường xuyên thấy sao chết đầy trời, rơi xuống biển sâu tối đen như mực. Từ nhân gian của các ngươi nhìn lên, những ngôi sao chết như hoa nở đầy trời, như mưa rơi khắp trời. Ta đi tới điểm cuối của Các Đạo liền đến Bắc Thiên Môn của Tử Vi Viên. Chỗ ấy là nơi ở của Thiên Đế, vùng trung tâm nơi sao trời xoay quanh. Thiên Đế xây dựng tường thành trên trời ở đó, tường bên trái có tám ngôi sao, tường bên phải có bảy ngôi sao. Chúng như hai cánh tay vững vàng bảo vệ thiên đình ở giữa. Ta đã từng thử nhìn vào bên trong một cái, bên trong hư không mịt mờ, cái gì cũng không có, chỉ có Đế Tinh và Hậu Tinh lạnh giá nhìn nhau, lấp lánh ánh sáng cô đơn lạnh lẽo.”
Xung quanh hoàn toàn yên tĩnh, tất cả mọi người đều bất giác quỳ xuống đất, ngẩng đầu lên nhìn bầu trời sao. Trời đất thần bí, đại đạo vô thanh, chỉ có bó đuốc cháy phát ra những tiếng lách tách rất nhỏ.
“Cho nên ta quay ngược trở lại, đi qua Lâu Tú, lão cẩu này chỉ có ba ngôi sao chính, cần mẫn chăn thả cho Thiên Đế để cung phụng tế tự. Ta đã từng hỏi hắn, có muốn cùng ta vào sâu trong biển sao hay không, hắn lại không dám. Thế là ta tiếp tục đi, đi qua Ngoại Bình Thất Tinh, bọn chúng là thuộc hạ của ta, không dám ngăn ta. Ta đi qua tuyến đường vận hành của mặt trời, lại đi qua tuyến đường vận hành của mặt trăng, nhìn thấy Thái Âm Tinh chủ vĩnh hằng bảo vệ lò thuốc bất tử của hắn, cũng nhìn thấy Hi Hòa vung roi đánh xe đưa mặt trời đi xa. Tại nhân gian của các ngươi, đây lại là một lần mặt trời lặn. Ta đi qua Thiên Thương, chỗ đó chứa hạt kê trên trời, mỗi một hạt kê đều thấm đẫm ánh sao, lấp lánh rực rỡ. Ta vòng qua Thiên Thương, đi tới Thổ Tư Không. Lúc này các ngươi ngẩng đầu lên nhìn, liền có thể trông thấy nó.”
Mọi người ngẩng đầu lên, thấy ở xa xa phía tây sao Tử Vi có một ngôi sao rực rỡ mà cô độc.
“Thổ Tư Không quản lý ruộng tốt rộng lớn trên trời, mỗi năm thu hoạch hạt kê nhập vào kho lương. Ta đi lại trên đồng ruộng sau khi thu hoạch, cũng không biết đi bao xa, lúc quay lại nhìn thì đã là một thế giới khác. Ta đi tới cuối trời rồi,” Khuê Mộc Lang hét lên. “Mà cuối trời chính là nhân gian!”
Cánh tay Khuê Mộc Lang lắc một cái, trên tay có thêm một phù chú màu vàng, phù chú ấy không gió tự cháy, hắn quát:
“Sao Khuê xây dựng tất an tường, trên dưới thuận hòa được cát xương. Chôn cất ngại lo âm tuổi khổ, mở cửa khai mương họa chẳng lường
Xem xem quân lệnh thương vong đến, trùng trùng kiện cáo ắt tai ương. Khai trương mở nước gây tai hoạ, ba năm hai lần tổn nhi lang.
Ba Hồn bảy vía tận thành không, chính là đại pháp trường thiên địa.
Các huynh đệ, hạ giới đi theo ta! Để chúng ta lật tung trời này đất này, quỷ thần đều phải quy phục!”
Một luồng ánh sáng từ trên phù chú bắn ra, mọi người ngẩng đầu lên, dường như nhìn thấy trời sao xa xôi vô cùng vô tận ấy đang chấn động, rung lên rồi lóe lên; dường như có mấy vệt sáng lóe lên rồi biến mất ngay trước mắt họ, sau đó bãi đất trống vang lên tiếng ầm ầm, bốn hố đất dường như vừa bị thứ gì đó đánh trúng nổ tung.
Mọi người xôn xao lui lại, thấy đất vàng quay cuồng dưới hố; từng người vươn một cánh tay lên, cánh tay ấy căng lên với tốc độ mắt thường có thể thấy được, biến thành cơ bắp cuồn cuộn. Sau đó bốn bóng người to lớn chậm rãi đứng dậy từ dưới hố đất, bùn đất đổ xuống rào rào từ trên người họ.
Hơn mười sứ giả người Hồ kia đều trợn to mắt nhìn, bốn người lúc trước bị chôn sống giờ đây đứng dậy từ dưới hố đất vàng, trên người mặc dù toàn là đất nhưng vẫn có thể thấy rõ là tướng mạo cũ; có điều cả thân hình họ đã trở nên to lớn, bắp thịt trên người gồ lên, gân cốt rắn chắc, giống như những người khổng lồ đến từ nơi vũ trụ hồng hoang! Bốn người còn có chút ngơ ngẩn, xoay cổ nhìn quanh, phát ra những âm thanh răng rắc.
“Khuê Tam, Khuê Thập, Khuê Ngũ, Khuê Thập Nhị!” Một tinh tướng quát lên. “Còn không tới bái kiến Tinh chủ!”
Bốn người lúc này mới nhìn thấy Khuê Mộc Lang, trên mặt lộ vẻ kích động, bước chân cứng đờ đi tới dưới đài cao, ôm quyền cúi người, trong miệng có tiếng ô ô nhưng lại không nói nên lời.
Khuê Mộc Lang thản nhiên nói, “Đến rồi thì tốt. Các ngươi vừa nhập hồn trên người phàm nhân, còn chưa thể thích ứng, vàỉ ngày nữa sẽ thấy tốt hơn. Đợi đến lúc có thể nói, hãy kể cho mọi người nghe chuyện ở trên trời. Ba năm rồi, có lẽ sẽ có người nhớ nơi đó.”
Bốn người liên tục gật đầu, tiếng trống trận và kèn lệnh xung quanh cùng lúc vang lên, tất cả những người được chứng kiến thần tích lần này đều phấn khởi đến cực điểm. Triệu Phú lập tức sai người chuyển rượu ra, ban rượu cho mọi người ở đây.
Trong Ngọc Môn Quan lúc này, tiếng hoan ca vang lên khắp nơi, tất cả mọi người đều bắt đầu tận tình ăn uống.
Huyền Trang thấp giọng hỏi Triệu Phú. “Bốn người ấy là từ đâu tìm đến?”
Triệu Phú nói, “Là bách tính thuộc các tộc quy thuận Ngọc Môn Quan tự nguyện hiến thân.”
“Bọn họ để tinh tướng nhập hồn, chẳng lẽ không phải chính là chết sao? Người nhà của họ sẽ rất bi thương chứ?” Huyền Trang hỏi.
Triệu Phú nhìn ngài, vẻ mặt như thấy rất kỳ quái. “Có thể để tinh tướng nhập hồn là vinh quang ra sao đối với phàm nhân? Người nhà của họ làm sao lại bi thương chứ? Mời pháp sư xem, người đang khiêu vũ bên đống lửa kia chính là vợ và con trai của một người trong số đó. Trong Ngọc Môn Quan này có hơn phân nửa người đều là đến để đi theo thần linh, là tín đồ cuồng nhiệt của Khuê thần!”
Huyền Trang nhìn đám người đang vui vẻ hát hò nhảy múa xung quanh đống lửa, nhất thời không biết nên nói gì.
Phường Trung Vũ, thành Đôn Hoàng.
Lúc này đã là giờ Tuất ba khắc, sớm đã giới nghiêm, trên phố ngoài phường tĩnh lặng không một tiếng động.
Lệnh Hồ Chiêm cùng Điệu Nương đi tới phường Trung Vũ, cổng phường đã đóng chặt. Có điều Lệnh Hồ Chiêm chính là Trấn tướng Tây Quan, phụ trách chuyện khẩn cấp của cả thành Đôn Hoàng, bởi vậy đương nhiên có quyền lực đi lại trên phố bất cứ lúc nào. Thấy là Lệnh Hồ Chiêm, vũ hậu trông coi cổng phường vội vàng mở cổng nghênh đón hai người họ đi vào.
Lệnh Hồ Chiêm đưa Điệu Nương đến cửa sau của phủ Trương thị, lại nghe quản gia nói Trương Tệ còn chưa về phủ. Điệu Nương hỏi dò mới biết là đã đến phủ Địch thị. Quản gia cũng rất tức giận, mấy ngày nay Trương Tệ bôn tẩu khắp nơi, hi vọng các sĩ tộc khác ra tay viện trợ, cùng chống lại Vương Quân Khả, nhưng hiệu quả không được tốt lắm. Ngày hôm trước ông ta đến phủ Lệnh Hồ thị thậm chí còn bị đóng cửa không tiếp, Lệnh Hồ Đức Mậu mượn cớ không có nhà, không chịu ra gặp.
Sắc mặt Lệnh Hồ Chiêm có vẻ không nén được giận.
Điệu Nương không nói một lời, quay đầu ngựa chạy thẳng đến phường Nho Phong.
Lệnh Hồ Chiêm vội vàng thúc ngựa đuổi theo, hai người phi nhanh trên phố lớn Cam Tuyền trong đêm vắng không người.
“Điệu Nương,” Lệnh Hồ Chiêm vội nói. “Cô nương là một nữ tử, đến Địch phủ có ích lợi gì?”
“Dù sao cũng không thể để cho phụ thân ta không dưng chịu nhục!” Điệu Nương lạnh lẽo nói. “Ta phải tận mắt nhìn xem rốt cuộc những sĩ tộc này sỉ nhục Trương thị ta như thế nào!”
Lệnh Hồ Chiêm chán nản, nếu chính mình không đi, sợ là chỉ trong chốc lát sẽ có nhai sử chạy tới bắt nàng lại, ngay cả cổng phường Nho Phong nàng cũng không vào được, thế là đành phải bất chấp khó khăn cùng với Điệu Nương đi tới phủ Địch thị ở phường Nho Phong.
Đến lối rẽ ra đường phố có cổng chính của Địch phủ, Lệnh Hồ Chiêm ghìm chặt dây cương của Điệu Nương lại, khổ sở van nài. “Điệu Nương, Địch phủ này… ta quả thật không thể cùng cô nương xông vào được!”
Điệu Nương bi thương nhìn hắn. “Ta lại quên mất, chàng là con rể của Địch thị.”
Lệnh Hồ Chiêm vô cùng khó xử. “Điệu Nương, cô nương nghĩ xem, nếu hai người chúng ta xông vào Địch phủ như thế, bất kể là danh dự của Trương thị, Lệnh Hồ thị hay là Địch thị đều sẽ phải chịu tổn hại.”
“Chàng tránh ta như tránh rắn rết vậy sao?” Điệu Nương hỏi.
“Không phải là ta tránh cô nương,” Lệnh Hồ Chiêm nói. “Điệu Nương, tâm ý của cô nương đối với ta, không phải ta không biết, nhưng cô nương cũng biết, không giết được Khuê Mộc Lang thì Lệnh Hồ Chiêm ta luôn không thể tẩy sạch sỉ nhục năm đó, làm sao có thể diện mà nói đến chuyện cưới xin?”
“Vậy đến lúc giết chết được Khuê Mộc Lang thì sao?” Ánh mắt Điệu Nương sáng rực lên, nhìn hắn chằm chằm. “Chàng có bằng lòng lấy ta không?”
“Ta…” Lệnh Hồ Chiêm lộ vẻ bối rối, không biết nên trả lời thế nào.
Điệu Nương cười buồn bã, cũng không nói gì, quay đầu ngựa định đi. Đúng lúc này lại thấy cổng Địch phủ mở ra, bảy, tám tên nô bộc cầm đèn lồng đi ra, Địch Xương đích thân đưa Trương Tệ tới cổng phủ. Lệnh Hồ Chiêm nhanh tay lẹ mắt lập tức nắm lấy cánh tay Điệu Nương. Thân thể Điệu Nương run lên, không hề vùng ra.
“Không cần tiễn nữa,” Trương Tệ chán nản nói.
“Trương công,” Địch Xương thở dài một hơi, chắp tay nói. “Không phải là Địch thị ta không muốn ra tay giúp ngài. Ngài cũng biết, Địch thị ta cũng có lợi ích to lớn trong các đội buôn mậu dịch biên quan, việc làm này của Vương Quân Khả thật sự là khiến cho người người căm hận. Nhưng có một điểm, ấy là Vương Quân Khả kia đã hoàn toàn điên cuồng rồi, hắn đặt chuyện mập mờ này lên mặt bàn chính là muốn hoàn toàn trở mặt, không làm thì thôi, đã làm thì quyết phải làm tới cùng. Hắn là lưu quan, làm mấy năm sẽ điều nhiệm đến nơi khác, nhưng sĩ tộc Đôn Hoàng ta lại đời đời cắm rễ ở hai châu Qua, Sa, việc này một khi trong ngoài triều đều biết, tương lai mai sau sĩ tộc Đôn Hoàng ta đứng chân kiểu gì?”
“Nếu tập hợp lực lượng của tám sĩ tộc lớn chúng ta, một Vương Quân Khả tầm thường sao có can đảm dấy lên cơn sóng gió này? Kể cả hắn muốn trở mặt thì cũng có năng lực gì?” Trương Tệ căm giận nói. “Chính là do một số sĩ tộc lại đặt thân bên ngoài, đứng ngoài cuộc mà nhìn nên mới khiến cho Vương Quân Khả không kiêng nể gì như thế!”
“Trương công, tính tình ngài quá mức cố chấp.” Địch Xương cười khổ. “Vốn là một chuyện cực kì nhỏ bé, trai lấy vợ gái gả chồng là chuyện hiển nhiên. Ngài cự tuyệt hắn, lại muốn các sĩ tộc khác cùng thừa nhận hậu quả với ngài, các nhà có bất mãn cũng là chuyện bình thường mà.”
“Để một con buôn ngựa tới nhà ức hiếp, ta đường đường là sĩ tộc lại phải gả con gái quy hàng, đây mới là điều mà các sĩ tộc khác muốn nhìn thấy sao?” Trương Tệ nói lớn tiếng.
Địch Xương thở dài một hơi. “Trương công, trong châu ngục có quan coi ngục là người Địch thị ta, lén báo cho ta biết, bây giờ mấy tên chủ sự đội buôn người Hồ và chủ sự đội buôn Cao Xương kia đang bị nghiêm hình thẩm vấn, bọn chúng không chịu đựng được bao lâu nữa đâu. Vương Quân Khả giờ đây còn chưa hoàn toàn điên cuồng, Trương Thị lệnh và chủ sự đội buôn Trương thị mới chỉ bị thẩm vấn, chưa hề bị tra tấn. Nhưng nếu khẩu cung của chủ sự Cao Xương và chủ sự người Hồ xuất hiện, vụ đại án này sẽ không có cách nào lật nổi nữa. Xin Trương công hãy quyết đoán nhanh nhất có thể!”
Trương Tệ xanh mặt chắp tay, đứng dậy lên ngựa, dẫn nô bộc xoay người rời đi.
Địch Xương lắc đầu thở dài, trở lại trong phủ.
Trương Tệ dẫn nô bộc rẽ qua góc phố, vừa đi vài bước thì lập tức kinh ngạc, thấy con gái nhà mình Điệu Nương và Lệnh Hồ Chiêm đứng ngay trước mặt ông ta. Điệu Nương hai mắt đẫm lệ, đang khóc nức nở.
“Điệu Nương! Lệnh Hồ… Cửu Lang…” Trương Tệ vô cùng bất ngờ. “Tại sao hai đứa lại ở đây?”
“Phụ thân!” Điệu Nương xoay người xuống ngựa, chạy đến trước ngựa của Trương Tệ, ôm một chân phụ thân khóc nức nỏ.
Lệnh Hồ Chiêm lúng túng. “Hồi bẩm Trương công Điệu Nương lo lắng cho ngài, muốn đến tìm ngài, lại bởi vì giới nghiêm mà không thể xuất hành, tiểu chất… tiểu chất đành phải cùng nàng đi một chuyến.”
Sắc mặt Trương Tệ thay đổi, cuối cùng thở dài một hơi. “Hiền chất mới từ Thanh Đôn Thú về à? Chuyện bên đó xong rồi chứ?”
“Đại sự đã định,” Lệnh Hồ Chiêm nói.
“Cửu Lang, cháu là một chàng trai tốt. Mặc dù ta cùng phụ thân cháu có chút lục đục, nhưng không hề quan hệ gì với cháu,” Trương Tệ nói. “Trên thực tế, bây giờ phụ thân cháu không chịu giúp đỡ ta cũng chính là vì đại sự bên Thanh Đôn Thú đã định, sĩ tộc Đôn Hoàng trông chờ Vương Quân Khả ra tay đối phó với Khuê Mộc Lang, mới không muốn đắc tội hắn.”
“Tiểu chất biết,” Lệnh Hồ Chiêm đắng chát nói. “Không thể lấy sức một mình chém chết tên yêu quái này, tiểu chất thật sự hổ thẹn.”
Trương Tệ lắc đầu, xuống ngựa đỡ con gái, vẻ mặt cảm khái. “Điệu Nương, những lời vừa rồi tất nhiên con đã nghe thấy, không cần phải lo lắng gì. Trương thị ta đặt chân ở Đôn Hoàng suốt bảy trăm năm, triều đại đổi dời, mưa mưa gió gió, có chuyện gì là chưa từng trải qua? Con là con gái ta, ta đương nhiên sẽ bảo vệ con, sẽ không để bất cứ ai ức hiếp con, cũng sẽ không để con phải gả vào gia đình con buôn, thừa nhận sự khổ sở vô tận.”
“Phụ thân,” Điệu Nương lau nước mắt, liếc Lệnh Hồ Chiêm một cái, rồi kiên quyết nói. “Nữ nhi sẵn sàng gả đến nhà họ Vương!”
“Chắc chắn Trương thị sẽ chịu khuất phục!” Vương Quân Khả thản nhiên nói.
Chùa Trường Lạc, trong thư phòng của Lâm Giang Vương Lý Diễm, Lý Diễm và Vương Quân Khả đang ngồi đối diện trò chuyện. Trong phòng có ánh đèn sáng rực.
Lý Diễm hết sức lo lắng. “Ban ngày mặc dù Trương Tệ đã tìm bản vương, nhưng bản vương cùng hắn không có thâm giao gì, không đáng phải nói đỡ cho hắn. Điều khiến bản vương lo lắng lại là ngươi. Quân Khả, ngươi đắc tội với sĩ tộc Đôn Hoàng như vậy, một khi gây ra phản kháng sẽ không phải là chuyện nhỏ. Những sĩ tộc đó có thế lực vững chắc trong triều, vạn nhất bẩm báo lên chỗ Bệ hạ, sợ rằng sẽ không dễ giải quyết.”
“Bọn chúng dám bẩm báo lên đến Bệ hạ sao?” Vương Quân Khả cười ha hả, nói.
Lý Diễm suy nghĩ một lát, cũng bật cười. “Đúng là không dám thật. Không thể không nói, chiêu này của ngươi nắm giữ thời cơ đúng là tinh diệu tuyệt đỉnh, đánh vào chỗ đau của bọn chúng. Xảy ra vụ án Lâm Tứ Mã buôn lậu ở Thanh Đôn Thú, ngươi lấy cớ điều tra buôn lậu triển khai tra xét, việc này ai cũng không nói được gì. Có điều vì một việc hôn nhân mà làm như vậy, có thật sự đáng không?”
“Vì một việc hôn nhân thì không hề đáng, nhưng vì tôn nghiêm của Vương thị ta, như vậy liền đáng,” Vương Quân Khả nói. “Đại vương, ta phái người tới nhà cầu hôn, Trương Tệ kia muốn cự tuyệt thì cứ cự tuyệt thôi, hôn sự mà, là cầu chứ không phải ép. Một nhà có con gái trăm nhà cầu hôn, chuyện bị từ chối cũng không sao cả, nhưng không ngờ hắn lại định gả một thứ nữ cho nhà ta!”
“Cái gì?” Việc này Lý Diễm vẫn là lần đầu tiên nghe nói, lập tức biến sắc mặt, cả giận nói, “Lão thất phu Trương Tệ này, thật sự là khinh người quá đáng!”
Cũng không trách được Lý Diễm lại nổi giận. Lý Diễm bây giờ đã kết thông gia với Vương Quân Khả, đó chính là chuyện cùng vinh cùng nhục. Thế tử nhà mình lấy nữ nhi của Vương Quân Khả, nếu nhi tử của Vương Quân Khả lấy một thứ nữ, thể diện nhà mình cũng mất rất nhiều.
“Quân Khả, ngươi dự định làm như thế nào?” Lý Diễm trầm giọng nói. “Bản vương đứng sau lưng mạnh mẽ ủng hộ ngươi!”
“Đa tạ Đại vương,” Vương Quân Khả nói. “Có điều hiện nay còn chưa cần Đại vương ra tay, vũ khí sắc bén nhất trong tay ta là luật Đường, liền cứ dựa theo luật Đường làm từng bước, ai cũng không thể bắt lỗi được. Lần này ta chậm rãi thu chặt dây thừng trên cổ Trương thị, xem hắn có thấy đau hay không.”
“Bên chỗ các sĩ tộc khác thế nào?” Lý Diễm hỏi. “Bọn chúng vẫn thúc giục ngươi xuất binh Ngọc Môn Quan, ngươi xuất binh không?”
“Đương nhiên phải xuất binh,” Vương Quân Khả cười nói. “Nhưng không cần sốt ruột, dù sao ấn tín đối chiếu để hạ lệnh điều động phủ binh của triều đình còn chưa tới.”
“Ta cũng đang định hỏi ngươi đây.” Lý Diễm nói nhỏ. “Trấn thú binh Tây Sa Châu có thể sử dụng từ một nghìn năm trăm đến một nghìn bảy trăm người, dưới trướng Khuê Mộc Lang nghe nói chỉ có ba trăm. Mặc dù có Ngọc Môn Quan nhưng quan ải ấy đã tàn tạ, bằng bản lĩnh cầm quân của ngươi, đánh tan Ngọc Môn Quan cũng không phải việc gì khó, vì sao nhất định phải đợi ấn tín đối chiếu để điều động phủ binh?”
Vương Quân Khả cười tủm tỉm nói, “Đại vương có biết trong công văn ta thỉnh cầu điều động bao nhiêu người của phủ binh không?”
Lý Diễm nhớ lại một lát. “Công văn ngươi báo lên… năm nghìn người!” Sắc mặt Lý Diễm hơi khó coi. “Ngươi thỉnh cầu điều động năm nghìn phủ binh! Đây quả thực là lấy dao mổ trâu ra để giết gà!”
“Cũng không hẳn. Mời Đại vương xem, trong công văn ta tính toán thế này.” Vương Quân Khả dùng ngón tay chấm rượu nho vẽ trên bàn ăn. “Đầu tiên là chủ lực đi dọc theo dịch đạo tấn công Ngọc Môn Quan của ta, cần một nghìn năm trăm người. Tiếp theo, để phòng bị Khuê Mộc Lang trốn vào thành ma quỷ, cần một nghìn năm trăm người xuyên qua sa mạc, cắt đứt đường lui của hắn. Sau đó cần hai nghìn người hành quân đến Thanh Đôn Thú, ngăn chặn cửa khe núi Thanh Đôn, phòng bị viện binh của người Đột Quyết có thể sẽ đến. Một nghìn người hành quân đến Dương Quan, phòng bị viện binh của người Thổ Dục Hồn có thể sẽ đến. Cuối cùng là năm trăm người tọa trấn châu thành. Mời Đại vương xem, năm nghìn phủ binh cùng một nghìn năm trăm trấn binh chính là dùng như vậy.”
“Cái này…” Lý Diễm lẩm bẩm nói. “Đột Quyết và Thổ Dục Hồn quả thật sẽ chi viện cho Khuê Mộc Lang?”
“Đối với các tộc lấy sói làm tổ tiên ấy mà nói thì rất khó nhận định, có điều lý do này của ta có thể thuyết phục được Bệ hạ.” Vương Quân Khả cười đáp. “Hơn nữa Bệ hạ đang chuẩn bị dụng binh với Đông Đột Quyết, nên người cũng phải phòng bị Đông Đột Quyết phá vỡ cục diện từ Đôn Hoàng.”
“Nhưng vì sao ngươi phải điều động nhiều phủ binh như vậy? Chẳng lẽ quả thật phải giúp đám sỹ tộc kia tiêu diệt hoàn toàn Khuê Mộc Lang?” Lý Diễm không hiểu.
“Lý do Vương Quân Khả ta tiêu diệt Khuê Mộc Lang chính là vì quốc gia, chứ không phải sĩ tộc,” Vương Quân Khả nghiêm nghị nói. “Ta điều động phủ binh là vì Đại vương ngài!”
“Cái gì?” Lý Diễm kinh ngạc. “Vì ta? Ta cần phủ binh làm gì?”
Vương Quân Khả nhìn ông ta, ánh mắt sâu thẳm, ánh đèn chiếu vào, trong mắt hắn dường như có ngọn lửa đang bốc cháy. “Đại vương cần phủ binh để tạo phản!”