Chương 11 Tây xuất Ngọc Môn gặp cố nhân
Trong Ngọc Môn Quan, dưới ánh sao đầy trời, mọi người đang cuồng hoan trắng đêm. Người Hồ tinh thông vũ nhạc chơi các loại nhạc cụ, mọi người vừa múa vừa hát, ồn ào náo động. Ba người Huyền Trang im lặng đứng bên cạnh, tỏ ra không hề hài hòa chút nào.
Trên đài cao, đám sứ giả người Hồ đã sớm xuống chơi, chỉ có Khuê Mộc Lang đang cô độc ngồi ngay ngắn trên ngai, dường như nhìn xuống nhân gian huyên náo này, lại dường như nhìn nơi sao trời xa xăm kia.
Khuê Mộc Lang vẫy tay, có người thổi kèn lệnh, tiếng kèn lệnh thê lương lập tức đè xuống tất cả những ồn ào huyên náo; đám người dần dần yên tĩnh lại, đống lửa bùng cháy bập bùng.
“Pháp sư Huyền Trang, vì sao không uống chút rượu?” Khuê Mộc Lang hỏi.
“Bần tăng là tăng nhân, không uống rượu,” Huyền Trang đáp.
“Thật đáng tiếc, ngươi đến Ngọc Môn Quan, vậy mà ngay cả một ngụm rượu bản tôn cũng chưa thể chiêu đãi ngươi,” Khuê Mộc Lang nói. “Mọi việc đã xong, pháp sư có thể yên tâm đi rồi. Đợi bản tôn luyện hóa ra thiên y, tự nhiên sẽ nói một câu với Thái Sơn Phủ Quân quản lý việc luân hồi, để ngươi một lần nữa chuyển thế làm người, lại tiếp tục tu hành.”
Ngư Tảo rút hoành đao ra keng một tiếng. “Lữ… Lữ lang, ta quyết không cho phép chàng sát hại pháp sư!”
Khuê Mộc Lang nhìn nàng một cái, thản nhiên nói, “Cái gì là sát hại? Cùng lắm chỉ làm mất thời gian hai mươi năm tu hành của hắn mà thôi. Tính mạng của phàm nhân các ngươi quá mức ngắn ngủi; sáu, bảy mươi năm tầm thường ấy chẳng qua chỉ là sáu, bảy mươi ngày trên trời. Cái gọi là sát hại của các ngươi, đó là bởi vì đối với các ngươi, người sau khi chết chính là vĩnh biệt; nhưng đối với thiên nhân mà nói, bất kể kiếp này và kiếp sau có biến hóa thành hình dạng như thế nào, ta vẫn có thể nhìn thấy linh thể ấy, sao lại nói là sát hại được?”
Ngư Tảo ngẩn ngơ, nhất thời không biết nên cãi lại hắn ra sao.
“Pháp sư Huyền Trang, tu hành đại đạo há là công quả một đời, có lẽ mười đời trăm đời cũng chưa thể thành công được. Ta cắt đứt tu hành kiếp này của ngươi, chỉ làm chậm trễ việc tu hành của ngươi hai mươi năm thôi,” Khuê Mộc Lang nói. “Đêm nay ngươi hãy đi đi, kiếp sau làm lại.”
Khuê Mộc Lang sai người chất đống củi xung quanh một tảng đá xanh, đều là gỗ cứng như hồ dương và liễu đỏ, sau đó định trói Huyền Trang lên trên tảng đá xanh. Lý Thiền rút hoành đao ra, Ngư Tảo kéo cung cứng chặn ở phía trước Huyền Trang. Mười lăm tinh tướng mặt không biểu cảm đi tới, mỗi người cầm một thanh mạch đao to lớn, trận chiến giữa hai bên chỉ phút chốc nữa là sẽ bùng nổ.
Khuê Mộc Lang đứng ở trên đài cao, nhẹ nhàng phun ra một hơi; trong trời đêm, một sợi tơ màu lửa lạnh ngắt xẹt tới, cây cung cứng trong tay Ngư Tảo lập tức bốc cháy rừng rực. Ngư Tảo sợ hãi kêu lên, đập cung xuống đất, nhưng lại không dập tắt được ngọn lửa đó. Chỉ sau chốc lát, một cây cung cứng đã bị đốt cháy thành tro.
“Đây chính là tam muội chân hỏa, không có gì là không đốt được, pháp sư Huyền Trang tuyệt đối sẽ không cảm thấy đau khổ,” Khuê Mộc Lang thản nhiên nói. “Các ngươi không bảo vệ nổi hắn đâu. Ta chỉ cần bắn chân hỏa lên trên người hắn, hắn sẽ lập tức cháy thành tro tàn, các ngươi hoàn toàn không thể ngăn cản được.”
Ngư Tảo và Lý Thiền nhìn nhau một cái, đều hơi tuyệt vọng.
Ngư Tảo quát to. “Lữ lang, chàng không thể giết pháp sư, ngài ấy là bạn tốt của chàng mà! Chàng đã quên tình hữu nghị của hai người ở Trường An năm đó hay sao?”
Khuê Mộc Lang cười nhẹ. “Nói bao nhiêu lần ngươi mới chịu tin rằng Lữ Thịnh đã chết, trước mặt ngươi chẳng qua chỉ là thể xác của hắn mà thôi. Vừa rồi ngươi cũng đã nhìn thấy tinh tướng giáng trần, ngươi cho rằng còn có khả năng gọi về người trước đó hay sao?”
Toàn thân Ngư Tảo run rẩy. “Đó chính là nói… ngươi đã giết Lữ lang?”
“Giết… bản tôn không hiểu cho lắm…” Khuê Mộc Lang lắc đầu nói.
“Ta giết ngươi…” Ngư Tảo điên cuồng hét lên, xông tới chỗ đài cao nhưng lại bị các tinh tướng ngăn cản, không tiến lên được một tấc nào nữa.
“Thập Nhị Nương!” Huyền Trang vội vàng gọi Ngư Tảo dừng lại, đi tới nói nhỏ. “Không được lỗ mãng, quên lời bần tăng đã nói rồi sao? Lữ Thịnh chưa chắc còn sống, nhưng cũng chưa chắc đã chết. Chúng ta đến đây không phải là vì tìm kiếm chân tướng hay sao? Hai người các ngươi cứ đợi một chút, đừng sốt ruột, bất kể xảy ra chuyện gì cũng đều không được kích động.”
“Nhưng thưa sư phụ, ngài sắp bị chết cháy đến nơi rồi đấy ạ!” Lý Thiền vội nói.
“Nếu bần tăng thật sự chết cháy, tất nhiên Lữ Thịnh đã chết rồi. Nếu bần tăng không bị chết cháy, nhất định Lữ Thịnh vẫn còn sống, bần tăng chỉ có thể đánh cuộc một lần,” Huyền Trang nói.
“Pháp sư, ngài có thể nói rõ được không? Ta không hiểu lắm.” Ngư Tảo vẻ mặt ngỡ ngàng.
“Nghe không hiểu liền đứng ở bên cạnh xem.” Huyền Trang nói rồi đi thẳng lên tảng đá xanh to lớn. “Nào, trói bần tăng vào, trói chặt một chút.”
Hai tên tinh tướng đi tới, dùng xích sắt trói Huyền Trang vào cọc gỗ bên cạnh tảng đá xanh. Ngư Tảo định xông lên liền bị Lý Thiền giữ lại, ra sức lắc đầu, hai người đành phải trơ mắt nhìn củi được chất đống xung quanh Huyền Trang.
Trên đài cao, Khuê Mộc Lang duỗi ngón tay ra, đầu ngón tay bốc lên một ngọn lửa màu lam cực kỳ mờ nhạt. Hắn phất tay một cái, ngọn lửa gần như là vô hình ấy vẽ ra một vệt nhỏ như sợi tơ trên không trung, bắn về phía Huyền Trang. Lần này tốc độ của sợi tơ không hề nhanh, thậm chí còn hơi chậm, tới mức mọi người có thể nhìn thấy được quỹ tích vận hành của ngọn lửa ấy trên không trung. Nơi ngọn lửa đi qua, không gian dường như bị đốt thành hư không, run rẩy một chút. Huyền Trang mở to mắt ra nhìn, trong hai mắt tràn ngập ham muốn học hỏi và khám phá; có lúc ngài cau mày suy nghĩ, có lúc lại lộ ra nụ cười đã hiểu. Lý Thiền ở bên cạnh nhìn mà không ngừng lắc đầu.
Sợi tơ nhỏ chậm rãi đến gần Huyền Trang, đúng lúc ấy, một người phụ nữ dung mạo tuyệt sắc đột nhiên chạy ra từ trong chướng thành. Nàng nâng váy dài vội vã chạy tới, đầy mặt kinh hoàng. Người của Ngọc Môn Quan nhìn thấy nàng liền lũ lượt cúi người thi lễ, thậm chí có người còn quỳ xuống đất.
“Khuê lang, không thể!” Người phụ nữ đó chạy đến phía trước Huyền Trang, dang rộng hai tay muốn chắn cho ngài khỏi sợi tơ lửa.
Khuê Mộc Lang kinh ngạc, bỗng nhiên đứng bật dậy, tung người bay xuống từ trên ngai, vẽ ra từng vệt tàn ảnh giữa không trung. Trong tàn ảnh ấy dường như có người sói đang biến ảo, nhanh như chớp đã đến trước mặt người phụ nữ kia rồi đưa tay chụp một cái giữa không trung, sợi tơ lửa đã bị hắn giữ trong lòng bàn tay. Trong bàn tay hắn lập tức phát ra tiếng xèo xèo, có mùi da thịt cháy khét, sợi tơ lửa lập tức tắt đi.
“Ngươi… Nương tử, nàng đi ra đây làm gì?” Khuê Mộc Lang tức giận. “Vừa rồi thật sự là quá hung hiểm!”
Bất kể là Huyền Trang hay Ngư Tảo, Lý Thiền đều kinh ngạc há to miệng. Nương tử? Không ngờ Khuê Mộc Lang này lại còn có nương tử?
Người phụ nữ ấy định nắm bàn tay của Khuê Mộc Lang, nhưng Khuê Mộc Lang lại né tránh như bị điện giật. Nàng buồn bã âm u một lát, rồi dịu dàng nói. “Lần sau sẽ không làm thế nữa. Đau không?”
“Không đau.” Khuê Mộc Lang được người phụ nữ đó dịu dàng trấn an, liền lập tức hết giận. “Nhưng lần sau tuyệt đối không được làm chuyện nguy hiểm như vậy nữa. Có lúc chính ta cũng không thể khống chế được tam muội chân hỏa.”
“Vâng.” Người phụ nữ ấy ngoan ngoãn gật đầu. “Khuê lang, thiếp muốn xin chàng đừng giết tăng nhân này, nhưng sự tình khẩn cấp, không kịp nói rõ với chàng. Giữa tình thế cấp bách thiếp mới phải bất chấp an nguy. Lần sau thiếp sẽ chú ý.”
“Không giết hắn? Vì sao?” Khuê Mộc Lang hơi cau mày.
“Chàng biết là ta tin Phật. Vừa rồi nghỉ ngơi trong phủ, ta bất giác ngủ mất, trong mơ đột nhiên xuất hiện một thần nhân giáp vàng,” Người phụ nữ đó nói.
Khuê Mộc Lang kinh ngạc. “Thần giáp vàng? Thần giáp vàng nào dám xông vào nhà của ta, vào trong mơ của nàng? Hắn nói với nàng cái gì?”
Người phụ nữ đó nói, “Khuê lang không cần tức giận, thần giáp vàng ấy cũng không hề có ác ý, ngài ấy nói thiếp dựng tháp tạc tượng, công đức rất nhiều, nhưng lang quân nhà thiếp giờ lại muốn giết tăng, phạm vào năm tội nghiệt. Nếu phạm tội này, vợ chồng chúng ta mai sau chắc chắn phải gặp đại kiếp, không được viên mãn. Thiếp liền bừng tỉnh, vội vã chạy tới đây, lại phát hiện ra đúng là chàng đang muốn xử tử tăng nhân.”
Hai mắt Khuê Mộc Lang ngập tràn vẻ dữ tợn, ngẩng mặt lên trời rồi nheo mắt nhìn, cười lạnh lùng. “Tên thần nhãi nhép nào trên trời mà dám to gan quản đến việc nhà của ta? Đợi sau này ta điều tra ra, nhất định sẽ không tha cho hắn! Nương tử chớ sợ, tăng nhân này muốn giết liền giết, cái gọi là đại kiếp nạn… Để ta xem thần linh nào trên trời dám để cho ta ứng kiếp!”
“Đành rằng nói như vậy, nhưng phu quân chàng là thiên thần, thiếp chỉ là phàm nhân, tai ương chẳng lành này không dám ứng ở trên người chàng, mà có lẽ sẽ ứng ở trên thân thiếp.” Người phụ nữ đó thở dài. “Hơn nữa thiếp là người tin Phật, mắt thấy chàng giết chết tăng nhân mà vẫn thờ ơ, chỉ sợ cũng không chịu nổi cảm giác tội lỗi ở trong lòng.”
Khuê Mộc Lang do dự một lát. “Nhưng nếu không giết hắn, không luyện ra thiên y, thân thể nàng sẽ luôn…”
“Cho dù luyện ra thiên y, cởi bỏ nguyền rủa trên người thiếp, nhưng tâm của thiếp lại bị nguyền rủa, hơn nữa trọn đời không thể giải được.” Người phụ nữ ấy dáng vẻ dịu dàng, nhưng ngôn từ lại một bước cũng không nhường.
Khuê Mộc Lang bực bội nhìn nàng, lại nhìn Huyền Trang. “Ban đêm gió lớn, nàng cứ đi về trước đi. Người đâu, dẫn Huyền Trang vào động phủ của ta.”
Đám tinh tướng đi tới gạt củi ra, cởi trói cho Huyền Trang.
Khuê Mộc Lang cùng người phụ nữ đó trở lại chướng thành, hai tên tinh tướng cũng đẩy Huyền Trang đi theo.
“Sư phụ, hai chúng ta làm thế nào?” Lý Thiền gọi với theo.
“Chờ.” Huyền Trang không quay đầu lại.
“Ngươi… ngươi nói cái gì?”
Trong chùa Trường Lạc ở Đôn Hoàng, Lý Diễm cả kinh nhảy dựng lên, suýt nữa ngã từ trên ghế dựa xuống. Ánh nến chiếu vào mặt Lý Diễm, ông ta vẻ mặt kinh hãi trợn mắt nhìn Vương Quân Khả. “Bản vương… bản vương cần tạo phản khi nào? Ngươi… ngươi đây là vu oan cho bản vương!”
Vương Quân Khả lại cực kì ung dung, cười nhạt. “Đại vương lúc này đương nhiên chưa cần phải tạo phản.”
“Lúc này chưa tạo phản?” Lý Diễm không nén được giận. “Ngươi nói là sau này bản vương phải tạo phản sao?”
“Đại vương, Bệ hạ đã lệnh cho Thông sự xá nhân Thôi Đôn Lễ mang chiếu mệnh đến Qua Châu, triệu ngài vào triều, bây giờ Thôi Đôn Lễ đã qua Lương Châu rồi,” Vương Quân Khả nói.
Lý Diễm lập tức sững sờ, trên người không biết vì sao bỗng cảm thấy rét lạnh.
Thôi Đôn Lễ này tất nhiên Lý Diễm biết, là trực hệ của Thôi thị Bác Lăng, là Thông sự xá nhân phẩm bậc tòng lục phẩm thượng, quản lý Tứ phương quán chuyên môn phụ trách sự vụ tứ di, chịu trách nhiệm đi sứ, chiếu mệnh và tuyên lao.
“Ngươi làm sao biết Bệ hạ phái Thôi Đôn Lễ đến triệu ta vào triều?” Lý Diễm lẩm bẩm.
Vương Quân Khả cười nói, “Trước khi ngài cầu hôn, ta đã có ý hỏi nữ nhi của Trương thị cho khuyển tử, vì vậy thư nhà qua lại rất thường xuyên. Ta yêu cầu mỗi lần gửi thư nhà đến đều phải viết một số chuyện đại sự của triều đình, đặc biệt là vấn đề liên quan đến Hà Tây. Hiện giờ có rất nhiều đồng đội cũ của ta đang ở trong Bộ Binh, vì vậy liền nhờ Giá bộ ty dùng trạm dịch của triều đình đưa tin.”
Kì thực trạm dịch của triều đình nghiêm cấm đưa thư cho tư nhân, có điều Tây Sa Châu cách Trường An ba nghìn dặm, lưu quan đến nhậm chức cùng người nhà mấy năm khó gặp, thông tin cũng cực kì bất tiện, vì vậy đối với Thứ sử một phương như Vương Quân Khả, triều đình cũng chỉ mở một mắt nhắm một mắt coi như không biết.
“Bệ hạ triệu ta vào triều cũng là chuyện bình thường, dù sao bản vương đã ở Qua Châu ba năm rồi,” Lý Diễm nói.
“Nếu nói Thôi Đôn Lễ đến tuyên triệu ngài, đây là chuyện bình thường, nhưng lại cũng không bình thường,” Vương Quân Khả nói. “Thông sự xá nhân phụ trách chuyện thừa chỉ tuyên lao, để Thôi Đôn Lễ đến truyền chỉ là sự coi trọng của Bệ hạ đối với ngài. Nhưng không bình thường ở chỗ Thôi Đôn Lễ phụ trách Tứ phương quán, có chức trách trấn an tứ di, Qua Châu không phải tứ di, Bệ hạ phái hắn đến đây rốt cuộc là có thâm ý gì?”
“Ngươi cho rằng Bệ hạ có thâm ý gì?” Lý Diễm lạnh lùng hỏi.
“Không có ý gì khác, đã trấn an tứ di, tất nhiên là sợ tứ di loạn.” Vương Quân Khả lộ ra nụ cười đầy ẩn ý. “Vì sao Bệ hạ lại sợ tứ di loạn?”
“Có lẽ… có lẽ…” Lý Diễm hoang mang lo sợ. “Có lẽ là Bệ hạ đang hoạch định tấn công Đông Đột Quyết, nên để Thôi Đôn Lễ đến Qua Châu thăm hỏi một phen.”
“Vậy ta liền nói tiếp một tin tức nữa.” Vương Quân Khả nhìn Lý Diễm chằm chằm, nói từng chữ từng câu một. “Sau khi Thôi Đôn Lễ rời khỏi Lương Châu, Lý Đại Lượng lập tức triệu tập năm nghìn quân chạy tới Cam Châu!”
Lý Diễm cau mày. “Cam Châu nằm dưới quyền phủ Đô đốc Lương Châu, Lý Đại Lượng phái binh đến Cam Châu, liên quan gì đến…” Lý Diễm đột nhiên trợn mắt. “Ngươi nói là… ngươi nói là…”
Lý Diễm toàn thân run rẩy, câu nói cuối cùng đó không ngờ lại không dám nói ra!
“Không sai!” Vương Quân Khả trầm giọng nói. “Hôm đó lúc ở trạm dịch châu thành, ta đã từng nói với ngài về quan hệ bí ẩn của Thứ sử Cam Châu Trương Bật cùng với Lý Đại Lượng, hai người bọn hắn năm đó ở trại Ngõa Cương là sinh tử chi giao! Sau khi để Lý Đại Lượng tọa trấn Lương Châu, Bệ hạ sắp xếp người mình tin cậy nhất là Trương Bật đến Cam Châu, mục tiêu là nhằm vào ai, chuyện này không cần nói cũng biết. Sau khi Thôi Đôn Lễ đến Qua Châu tuyên triệu, nếu như mọi chuyện trôi chảy đương nhiên mọi người cùng vui; nếu chuyện có gì không thuận, quân Cam Châu của Trương Bật lập tức có thể lao thẳng tới Túc Châu. Còn Thứ sử Túc Châu Ngưu Tiến Đạt cũng là tướng cũ của Ngõa Cương, có giao tình với Trương Bật, nếu Ngưu Tiến Đạt theo Trương Bật, binh hai nhà gộp lại, chỉ trong chốc lát thôi là một vạn năm nghìn đại quân sẽ đến dưới thành Qua Châu!”
“Ta… ta…” Tay chân Lý Diễm lạnh buốt, vừa kinh vừa sợ. “Sao lại đến mức đó! Sao lại đến mức đó! Ta chưa bao giờ có suy nghĩ phản bội Bệ hạ, trời xanh chứng giám!”
“Có lẽ Đại vương thực sự không có suy nghĩ phản bội Bệ hạ, nhưng Bệ hạ lại không muốn đặt an nguy của cả Hà Tây ở trong một ý niệm của ngài,” Vương Quân Khả lạnh lẽo nói. “Đại vương ngài giao hảo với Bùi Tịch, hai tháng trước Bùi Tịch đã bị tịch biên lưu đày, vì vậy trước khi tấn công Đông Đột Quyết đương nhiên phải bắt ngài trước để giữ cho Hà Tây yên ổn. Vạn nhất ngài không muốn khoanh tay chịu chết như Trường Lạc Vương Lý Ấu Lương, nhất định muốn chống lại đến cùng, Bệ hạ đã dốc hết quân lực cả nước ra để tấn công Đông Đột Quyết ở mặt bắc, ngài ở đây vừa động, chẳng phải là cả Hà Tây đều sẽ nát vụn hết ra hay sao?”
Lý Diễm như bị sét đánh, trên mặt như khóc như cười, ngồi tê liệt trên ghế dựa. Vương Quân Khả rót một chén rượu nho đưa cho ông ta, Lý Diễm đờ đẫn nhận lấy, cánh tay run rẩy, lại không đưa được lên tới miệng.
“Bệ hạ… triệu ta về triều… sẽ xử trí ta thế nào?” Lý Diễm lẩm bẩm, dường như là đang tự hỏi.
“Có thể tham khảo chuyện xưa của Trường Lạc Vương.” Vương Quân Khả đáp. “Năm ấy có người tố giác Trường Lạc Quận vương Lý Ấu Lương và Đô đốc Lương Châu bí mật nuôi quân, kết giao ngoại bang, có thể mưu phản. Bệ hạ lệnh Vũ Văn Sĩ Cập tiếp nhận chức vụ Đô đốc Lương Châu, xét xử vụ án này. Khi đó Lý Ấu Lương muốn tới Trường An để tự biện bạch, nhưng còn chưa kịp đi thì Vũ Văn Sĩ Cập đã tới Lương Châu. Thể là Lý Ấu Lương định chạy lên bắc rồi sang Đột Quyết, lại bị Vũ Văn Sĩ Cập chặn đứng. Bệ hạ phái Thị ngự sử Tôn Phục Ca thẩm vấn, sau đó lập tức ban cho cái chết.”
Lý Diễm ngơ ngác như người mất hồn, trên trán mồ hôi như mưa.
“Vụ án này có một điểm đáng ngờ, ta nghĩ mãi vẫn chưa rõ ràng, khi đó Lý Ấu Lương đã dự định đến Trường An để tự biện bạch, vì sao Vũ Văn Sĩ Cập vừa tới liền có ý đồ chạy trốn đến Đột Quyết? Bây giờ nghĩ lại, chỉ sợ là ông ta đã biết Vũ Văn Sĩ Cập mang sát ý mà đến!” Vương Quân Khả cười lạnh lùng. “Cái gọi là bí mật nuôi quân, kết giao ngoại bang, tội danh này đặt ở trên người biên tướng nào cũng đều có thể tìm được bằng chứng. Nếu như Bệ hạ muốn ngài sống, ngài ngoan ngoãn theo Thôi Đôn Lễ trở về Trường An, có thể tước thành thứ dân, bảo toàn tính mạng. Nếu như Bệ hạ muốn ngài chết, ngài qua cổng bắc thành Qua Châu ra ngoài, đi mười mấy dặm cũng coi như là chạy đến Đột Quyết. Cho nên Bệ hạ sẽ xử trí ngài như thế nào, hạ quan quả thực khó mà phỏng đoán. Có điều Bệ hạ đã điều năm nghìn đại quân đến Cam Châu, sự coi trọng đối với ngài chỉ sợ là vượt xa Lý Ấu Lương rồi.”
Tay Lý Diễm run rẩy, cuối cùng cũng đưa được chén rượu lên đến miệng uống, rượu nho thơm ngọt lúc này lại trở nên đắng chát và khó nuốt. “Ta biết Bệ hạ sẽ bắt ta, chỉ là không ngờ sẽ nhanh như vậy. Ta đã từng nghĩ đi nghĩ lại xem khi đến ngày đó, ta nên lựa chọn như thế nào; nhưng khi chuyện tới trước mắt, ta lại phát hiện ra mình hoàn toàn không thể lựa chọn.”
“Làm sao lại không thể lựa chọn?” Vương Quân Khả hỏi.
“Làm sao có thể có lựa chọn đây?” Lý Diễm cười thảm. “Năm Trinh Quán nguyên niên ta đến nhậm chức, Bệ hạ liền phái Lý Đại Lượng đến Lương Châu, phái ngươi đến Tây Sa Châu. Như hôm trước ngươi đã nói, cựu tướng Ngõa Cương đã bao vây xung quanh ta, rõ ràng bố cục được định đã lâu, chỉ đợi khi nào hành động. Ta làm gì có lựa chọn nữa? Việc ta có thể lựa chọn chỉ là ngồi ở trong nhà, chờ đợi sứ giả tới mang đến một dải lụa trắng ban chết, hoặc là một sợi xích sắt trói ta lại.”
“Đêm nay hạ quan đến gặp Đại vương, chính là muốn mang tới cho Đại vương thêm một lựa chọn,” Vương Quân Khả nhìn Lý Diễm, chậm rãi nói.
Lý Diễm sửng sốt một lát. “Ngươi cho bản vương thêm một lựa chọn thế nào?”
“Mưu phản!” Vương Quân Khả nhẹ nhàng đáp.
Âm thanh ấy rất nhẹ, nhưng nghe vào trong tai Lý Diễm lại không khác gì sấm sét, chấn động đến mức khiến lông tóc trên người ông ta dựng đứng hết cả, ngoài mặt biến sắc.
“Lớn mật!” Lý Diễm hổn hển tức giận, đập chén rượu xuống đất, xông tới giá binh khí rút ra một thanh kiếm sắc kề vào bên cổ Vương Quân Khả. “Không ngờ ngươi lại có ý niệm này, quả thực đáng chết!”
Vương Quân Khả ngẩng mặt lên, đón mũi kiếm, chậm rãi đứng dậy, Lý Diễm sợ hãi lui lại.
“Đêm nay hạ quan tới chùa Trường Lạc chứ không phải mời Đại vương đến phủ Thứ sử chính là muốn để Đại vương được tự mình lựa chọn,” Vương Quân Khả nói. “Đại vương có thể bắt ta giao cho Bệ hạ, biết đâu lại có thể thoát được một mạng.”
“Ngươi cho rằng ta không dám bắt ngươi?” Lý Diễm nghiến răng nghiến lợi nói.
“Đại vương bắt ta, ta khoanh tay chịu trói. Đại vương chém ta tại chỗ cũng có thể, chỉ cần bảo kiếm nhẹ nhàng đưa, lập tức sẽ cắm vào cổ họng ta,” Vương Quân Khả thản nhiên nói. “Sở dĩ ta bất chấp sống chết nói ra những lời này là vì ta và Đại vương, hai nhà chúng ta là quan hệ thông gia. Hôn sự của Ngư Tảo và Thế tử đã nạp thái xong, tiền lụa sính lễ đã đưa đến phủ ta, chỉ chưa xem ngày và đón dâu, hai nhà trên thực tế đã là quan hệ thông gia rồi.”
Lý Diễm ngẩn ra, chán nản thu hồi bảo kiếm. “Là bản vương đã liên lụy ngươi. Nhưng mà…” Trên mặt Lý Diễm lộ ra vẻ thẫn thờ. “Ngươi sớm đã biết tình cảnh của bản vương, vì sao vẫn sẵn sàng kết thông gia với ta?”
Vương Quân Khả nói đắng chát. “Chuyện đã đến nước này, hạ quan cũng không kiêng kị Đại vương. Ngài biết ta mà, tâm nguyện lớn nhất của ta chính là lập nên phiệt duyệt Vương thị, tiến thân sĩ tộc. Bởi vậy có thể kết thân với Đại vương đương nhiên là may mắn của Vương thị ta. Khi ấy ta cũng có một chút tư tâm, cho rằng Bệ hạ dù muốn bắt ngài thì cũng sẽ dùng thủ đoạn tương đối nhẹ nhàng; sở dĩ ngài không được Bệ hạ dung thứ chẳng qua là vì có giao hảo với Kiến Thành thôi, cho dù phế bỏ ngài thì vương tước cũng sẽ giao cho Thế tử kế thừa.”
Lý Diễm cười khổ. “Ngươi nghĩ như vậy, hôm đó kì thực bản vương cũng đoán được. Có thể được như thế đã là may mắn tột cùng của bản vương rồi.”
“Đúng vậy!” Vương Quân Khả thở dài. “Hạ quan cũng không nghĩ tới Bệ hạ lại phòng bị ngài đến mức này, không ngờ lại điều động quân Lương Châu áp sát. Như vậy bản thân ngài có thể làm thứ dân đã là vạn hạnh rồi, tước vị Lâm Giang Quận vương sợ là cũng chẳng còn. Ôi, kết thân với tội dân, đường làm quan kiếp này của Vương Quân Khả ta xem như cũng kết thúc.”
Lý Diễm im lặng gật đầu, thành khẩn nói, “Quân Khả, ngươi biết bản vương cực kì tán thưởng ngươi, ngươi là hãn tướng Đại Đường, từ trại Ngõa Cương chém giết đến Thứ sử một châu quả thực không dễ, không thể bởi vì bản vương mà mất đi cơ hội lập công sa trường. Ngươi hủy việc hôn nhân này đi! Trong thư từ hôn thậm chí có thể chỉ trích bản vương một phen, như vậy cũng có thể làm cho Bệ hạ nhìn thấy sự trung thành của ngươi.”
Vương Quân Khả vẻ mặt cảm động, chắp tay nói, “Đa tạ Đại vương, Nhưng… đã muộn rồi! Bây giờ chẳng những ba châu Qua, Sa, Túc, mà tới cả Trường An cũng biết chuyện ngài và ta đã kết thông gia. Nếu lúc ngài gặp khó khăn mà ta lại từ hôn, dư luận trong triều sẽ nhìn ta như thế nào? Xưa nay Vương Quân Khả ta tiếng tăm không tốt, mọi người đều nói ta dụng binh tác chiến gian trá xảo quyệt, nhưng đó là hành quân đánh trận, vì cầu thắng không từ thủ đoạn; còn làm người, ta chưa từng nuốt lời hứa bao giờ. Vận mệnh đã như thế, ta liền cùng Đại vương gánh vác thôi.”
Lý Diễm nhắm hai mắt lại, cố gắng kìm nén để nước mắt không chảy ra. “Quân Khả, ngươi đã đối đãi ta như vậy, ta há có thể không báo đáp? Bản vương tự hỏi một thân này vẫn còn có một chút giá trị, thay vì giao cho Thôi Đôn Lễ kia, không bằng giao cho ngươi để ngươi lập công. Ngươi bắt ta lại giao cho Thôi Đôn Lễ, cứ nói phát hiện ta có dấu hiệu tạo phản, bởi vậy mà đại nghĩa diệt thân, triều đình tất sẽ trọng thưởng. Ngươi cũng có thể sớm thoát khỏi nỗi khổ cát vàng nơi Tây Vực này, trở lại Trường An.”
Vương Quân Khả lập tức sững sờ, ngơ ngác nhìn Lý Diễm một hồi lâu, sau đó hai mắt đỏ lên, vái dài sát đất. “Lòng nhân hậu của Đại vương làm cho Quân Khả thật sự, thật sự… thấy xấu hổ vô cùng!”
“Những lời bản vương nói là thật.” Lý Diễm nghiêm túc nói. “Tây Sa Châu này là địa bàn của ngươi, vậy bản vương sẽ không đi nữa, ở đây đợi Thôi Đôn Lễ. Chờ hắn đến ngoài thành, ngươi sai người tới bắt ta là được.”
“Đại vương hậu nghĩa, Quân Khả thật sự là…” Vương Quân Khả hơi thất thần, dường như đang do dự, một lát sau lại kiên quyết lắc đầu. “Loại chuyện này thứ cho Quân Khả không làm được! Đại vương, đêm nay ta tới khuyên ngài mưu phản, không phải là muốn thăm dò ngài. Trên thực tế, mấy ngày trước ta đã vạch kế cho Đại vương rồi, không bằng Đại vương nghe ta giải thích cặn kẽ một phen rồi hãy quyết định sau.”
Lý Diễm buồn bã đáp. “Được rồi, ngươi nói đi.”
“Đại vương cũng biết, Bệ hạ nghe tấu chương của Đô đốc Đại Châu Trương Công Cẩn, vẫn đang trù tính phát động cuộc chiến diệt quốc với Đông Đột Quyết. Nếu ta liệu không sai, một tháng nữa vào thu chính là thời kì xuất binh tốt nhất.” Ánh mắt Vương Quân Khả lấp lánh. “Công diệt Đông Đột Quyết chính là một trận quốc chiến, quy mô khổng lồ. Hạ quan đã tỉ mỉ suy diễn, trận chiến này ít nhất phải chia quân thành ba đường, một đường là từ phương hướng Định Tương, chủ công Vân Trung; một đường là từ Đại Châu xuất binh, đánh chiếm vùng trung bộ Đông Đột Quyết; còn một đường khác rất có thể sẽ xuất binh từ Linh Châu, cắt đứt hướng di chuyển về phía tây của Đông Đột Quyết. Lương Châu chính là cửa ngõ phía tây của Linh Châu, một khi Linh Châu xuất binh thì Lương Châu nhất định phải có trọng binh trú đóng để bảo vệ bên cánh của cánh quân phía tây.”
Vừa nói đến chuyện khởi binh, Vương Quân Khả liền thao thao bất tuyệt, đưa tay chém vù vù trên không, giống như trước mắt chính là một tấm địa đồ thiên hạ, là kim qua thiết mã, là sa trường tranh hùng. Lý Diễm đương nhiên cũng không xa lạ gì với chiến sự, hai mắt khép hờ, trước mắt liền xuất hiện tuyến đường tiến quân do Vương Quân Khả phác họa, thậm chí quy mô quân lực, tướng lĩnh thống quân và đại thế đều hiểu rõ trong lòng.
“Nếu ngài khởi binh vào lúc này, chúng ta cùng xem một chút binh lực trong tay,” Vương Quân Khả nói. “Tây Sa Châu ta có thể sử dụng một nghìn năm trăm trấn thú binh, đợi ấn tín đối chiếu của Bộ Binh được đưa đến, ta liền có thể chiêu mộ năm nghìn phủ binh, đây chính là sáu nghìn năm trăm người.”
Lý Diễm giật mình kinh ngạc. “Quân Khả, ngươi… Mục đích thật sự của ngươi khi xin điều động phủ binh… không phải là tiêu diệt Khuê Mộc Lang, mà là giúp ta tạo phản?”
“Đương nhiên,” Vương Quân Khả cười nói. “Khuê Mộc Lang là kẻ thù của sĩ tộc, liên quan gì đến ta? Hơn nữa hắn chỉ có vẻn vẹn ba trăm kỵ binh, nếu ta thật sự phải phá hắn, một nghìn trấn thú binh là đủ rồi. Trong tấu chương ta gửi cho Bệ hạ nói phải phòng bị Đông Đột Quyết và Thổ Dục Hồn chỉ là lý do để thuyết phục Bệ hạ thôi, mục đích thật sự là đang vạch kế cho Đại vương ngài!”
Lý Diễm không khỏi cười khổ, càng kinh hãi không thôi trước sự quyết đoán và mưu đồ của Vương Quân Khả. Lúc chính mình còn không thấy rõ nguy cơ, hắn đã tiên đoán được tình thế quẫn bách của mình hôm nay; lúc chính mình còn chưa nghĩ ra nên ngồi chờ chết hay là vào kinh thành tự biện bạch, hắn đã kết luận mình chỉ có thể mưu phản, thậm chí đã bắt đầu trù bị binh lực. Tầm mắt bậc này, quyết đoán bậc này, mưu đồ bậc này, thật sự là khiến cho mọi người nghĩ mà thấy sợ hãi.
Có lẽ trong thời khắc phi thường, chỉ có nhân vật như vậy mới có thể cứu vãn được nguy vong của mình! Lý Diễm thầm nghĩ trong lòng.
Vương Quân Khả tiếp tục nói, “Qua Châu có thể sử dụng hai nghìn năm trăm trấn thú binh, Thứ sử Độc Cô Đạt là người của ngài, một khi khởi binh có thể làm giả ấn tín đối chiếu của Bộ Binh để chiêu mộ phủ binh, tăng thêm tới sáu nghìn người. Như thế tổng binh lực của hai nhà chúng ta chính là một vạn hai nghìn năm trăm người.”
“Độc Cô Đạt tất nhiên nghe bản vương, nhưng dù vậy, vẻn vẹn trên một vạn hai nghìn người cũng không có cách nào cát cứ Qua, Sa được!” Lý Diễm khổ não. “Lương Châu là trọng trấn quân sự, đóng quân khoảng năm vạn người, chúng ta hoàn toàn không chịu được một đòn.”
“Hạ quan đã vạch kế cho Đại vương, há lại có thể cẩu thả như thế?” Vương Quân Khả cười nói. “Đại vương chẳng lẽ đã quên, chỗ Ngưu Tiến Đạt ở Túc Châu còn có năm nghìn binh mã sao?”
“Nhưng Ngưu Tiến Đạt sẽ không cùng bản vương tạo phản.” Lý Diễm cười khổ.
Vương Quân Khả lắc đầu. “Đương nhiên là Ngưu Tiến Đạt không chịu tạo phản, nhưng chúng ta lại có thể dùng được binh mã dưới tay hắn. Mấy ngày nay ngài và ta liền định ngày đưa đón dâu, mời Thế tử đến Đôn Hoàng đón dâu, tới Qua Châu thành thân. Ngưu Tiến Đạt thân là thuộc hạ của ngài, dù thế nào cũng sẽ tới tham gia tiệc mừng, đến lúc đó bí mật bắt hắn lại, đoạt ngư phù, sau đó chúng ta dẫn đại quân tiếp quản Túc Châu.”
Lý Diễm lập tức gật đầu. “Chỉ cần có thể bắt lại Ngưu Tiến Đạt, đoạt được ngư phù, việc tiếp quản Túc Châu đương nhiên không thành vấn đề.”
“Đúng. Như vậy trong tay chúng ta liền có đại quân một vạn tám nghìn người, chúng ta lập tức đông kích Cam Châu, đánh tan Trương Bật,” Vương Quân Khả nói. “Đến lúc đó Thôi Đôn Lễ chắc chắn đã bị bắt lại. Để tránh phải tấn công thành trì vững chắc, chúng ta có thể lấy danh nghĩa Thôi Đôn Lễ áp tải ngài về kinh, cần phái đại quân bảo vệ…”
“Chờ đã, chờ đã…” Lý Diễm đột nhiên nhớ đến một vấn đề. “Quân Khả, về mặt binh pháp, những điều ngươi nói đương nhiên không có vấn đề gì. Cho dù Lý Đại Lượng điều năm nghìn người cho Trương Bật, chúng ta nắm một vạn tám nghìn người trong tay, tất nhiên có thể đánh hạ được thành Cam Châu. Nhưng… nhưng vì sao các sĩ tốt lại theo bản vương tạo phản, đi tấn công Cam Châu?”
“Đương nhiên là các sĩ tốt sẽ không chịu theo chúng ta tạo phản.” Vương Quân Khả ngạc nhiên nói, thấy Lý Diễm trố mắt ra nhìn hắn mới biết là ông ta thật sự không rõ, đành phải kiên nhẫn giải thích. “Muốn sĩ tốt theo chúng ta tạo phản là chuyện không cần phải nghĩ. Cho nên lúc khởi binh chúng ta không thể lấy danh nghĩa tạo phản, mà là phụng lệnh triều đình chiêu mộ quân đội tấn công Đột Quyết. Đợi chỉnh hợp xong quân đội ba châu Qua, Sa, Túc, chúng ta đến ngoài thành Cam Châu, tuyên bố rằng Trương Bật cấu kết Đột Quyết, đi vào Cam Châu dẹp loạn, như vậy chẳng phải là được rồi sao?”
“Sau đó thế nào?” Lý Diễm ngơ ngác hỏi, ông ta thật sự không hiểu. “Đánh hạ Cam Châu, chẳng phải sĩ tốt sẽ biết chính mình mới là phản tặc thật sự sao?”
Vương Quân Khả cười to. “Tất nhiên là thế. Nhưng sau một trận liều chết công lược, khi trên tay đám sĩ tốt dính máu của tướng sĩ Đại Đường, ai còn có thể quay lại được nữa? Sau khi đánh hạ Cam Châu, chỉ cần ta không chấp hành quân kỷ, những sĩ tốt này vừa mới giết người, sẽ như ác ma thoát khỏi giam cầm mà cướp bóc Cam Châu, giết người cướp tiền. Hừ, ta ba ngày không phong đao, trong tay ai lại không dính máu bách tính bình dân? Cứ như vậy, còn ai dám có lòng dạ khác? Hơn nữa mấy trăm năm qua Hà Tây độc lập với chính quyền Trung Nguyên, xưa nay vẫn có thói cát cứ…”
“Chờ đã, chờ đã…” Lý Diễm trợn mắt há mồm nhìn Vương Quân Khả, toàn thân run rẩy. “Ngươi… ngươi muốn đồ thành?”
Chướng thành Ngọc Môn Quan bây giờ chính là động phủ của Khuê Mộc Lang, bên trong cũng không lớn, phương viên một mẫu; mặt bắc và mặt tây mở hai cổng thành, cổng thành hẹp, trên đỉnh hình tam giác, tường dày hơn ba thước tạo thành lối đi sâu hun hút. Huyền Trang cùng với Khuê Mộc Lang và người phụ nữ kia đi vào chướng thành. Sát tường phía nam của chướng thành xây một tòa nhà, cao đến hơn hai trượng, hình thù kỳ vĩ; góc đông nam có đường cái, có thể trèo lên nóc nhà; nóc nhà dày và bằng phẳng có xây tường chắn tên và khe bắn tên, kì thực là một ụ chiến đấu, ở giữa có đường dẫn lên tường thành.
Góc tây bắc trong thành có một tòa nhà hơi thấp bé, chính là nơi cư trú của đám tì nữ hầu hạ người phụ nữ đó. Giữa hai tòa nhà có một lối đi rộng rãi thông đến hai cổng thành.
Huyền Trang cùng với Khuê Mộc Lang và người phụ nữ nọ đi vào trong động phủ này. Trần nhà của động phủ cao tới hai trượng, bên trong cực kì rộng rãi, không gian được chia ra bằng màn trướng và rèm châu; chính giữa xây một đài cao, có bậc thềm bảy cấp, mỗi một cấp đều khảm ngọc thạch, chạm trổ hoa sen. Trên đài cao là một chiếc ngai to lớn, điêu khắc tinh xảo, lan can và chân ngai có hình vẽ phức tạp, khảm vàng, ngọc và minh châu, phát sáng lấp lánh dưới ánh đèn chiếu xuống. Dưới ngai là một tấm thảm lông cừu trắng như tuyết, từ đài cao dọc theo bậc thềm kéo xuống tận mặt đất.
Trên mặt đất bày mười mấy chiếc bồ đoàn đan bằng lau sậy. Huyền Trang không nói một lời, tới ngồi xếp bằng trên một chiếc bồ đoàn.
Khuê Mộc Lang dẫn người phụ nữ đó đi lên đài cao, hai bên bậc thềm có bốn tỳ nữ đang đứng. Khuê Mộc Lang sai tì nữ dìu người phụ nữ ấy, hai tì nữ nơm nớp lo sợ đi tới, đưa tay ra rồi lại do dự. Khuê Mộc Lang lạnh lùng liếc bọn họ một cái, các tì nữ cắn răng, đưa tay đỡ người phụ nữ đó, lập tức trên mặt lộ ra vẻ đau khổ, cả người run rẩy, trán toát mồ hôi.
“Không cần.” Người phụ nữ ấy gạt tì nữ ra, tự mình ngồi xuống ngai.
Khuê Mộc Lang nhẹ nhàng nói, “Bây giờ thân thể đã đỡ hơn chưa?”
“Mấy ngày nay sau khi chàng đi, lại có một lần đau thắt ngực, hô hấp khó khăn, trong lồng ngực như bị đè nén,” Người phụ nữ đó nói. “Mấy lần còn không thở nổi.”
Khuê Mộc Lang chần chừ một lát. “Nương tử, vẫn là dùng nội đan này của ta trị liệu một phen đi! Có điều nàng phải chú ý, đừng dùng ngón cái bùng vào, nếu bùng bằng ngón cái sẽ nhìn ra bản tướng của ta.”
“Không thể, Khuê lang, như thế sẽ làm chàng bị thương mất!” Người phụ nữ ấy từ chối.
Khuê Mộc Lang lại không trả lời, ngồi xếp bằng trên ngai rồi há miệng ngẩng mặt phun lên, lập tức có ánh sáng bắn ra, phun ra một bảo bối từ trong miệng. Huyền Trang nhìn kĩ viên nội đan đó, thấy nó to bằng quả trứng gà. Sau khi được phun ra, viên nội đan lơ lửng giữa không trung cách Khuê Mộc Lang chừng hơn một thước, hắn đưa tay cầm lấy nó.
Huyền Trang từng nghe nói Đạo gia có bí thuật tu luyện nội đan, nhưng đây là lần đầu tiên ngài nhìn thấy có người luyện ra nội đan. Đạo gia luyện đan chia thành ngoại đan cùng nội đan, lúc đầu Đạo gia đa số luyện chế ngoại đan là chính, cụ thể là dùng lò luyện kim thạch, phối chế dược vật làm mồi, luyện chế thành kim đan bất tử. Chu Dịch tham đông khế của Ngụy Bá Dương thời Đông Hán và Bão phác tử của Cát Hồng thời Đông Tấn là tác phẩm đại thành thượng đỉnh của thuật luyện đan.
So với ngoại đan thì nội đan huyền ảo hơn, chính là lấy cơ thể người làm lò luyện, tinh khí thần làm mồi thuốc, lấy lửa chu thiên mà luyện, dần dần luyện tinh hóa khí, luyện khí hóa thần, luyện thần hợp đạo, cuối cùng kết thành kim đan trong cơ thể, trường sinh bất tử, lập tức phi thăng. Tu luyện nội đan cực kì huyền ảo, cần nuốt mây ăn khí, cái gọi là luyện khí của ngũ nha, phục ánh sáng thất diệu hoàn toàn là một loại môn pháp diệu kỳ huyền ảo rất khó giải thích. Vì thế nên từ thời Tần, Hán tới nay, thuật sĩ Đạo gia chủ yếu luyện ngoại đan, cho dù là đến hiện tại, nghe nói thuật nội đan vẫn rất ít được lưu truyền.
Có điều nghĩ lại, Khuê Mộc Lang này là chính thần trên trời hạ phàm, có nội đan đương nhiên không phải là chuyện khó hiểu.
Nhưng theo lưu truyền của Đạo gia, cho dù là chính thần trên trời thì muốn tu luyện ra một viên nội đan như vậy cũng không biết phải đả tọa bao nhiêu lâu, tu luyện bao nhiêu năm, trải qua bao nhiêu lần sống chết. Đó thật sự là thứ khiến tính mạng của thần tiên trên trời cũng phải gặp nguy hiểm.
Huyền Trang nhìn không hề chớp mắt, thấy Khuê Mộc Lang cầm nội đan, chậm rãi ấn về phía trán của người phụ nữ đó. Bàn tay vừa chạm vào trán nàng, Khuê Mộc Lang đã lập tức lộ ra sắc mặt đau khổ, vẻ mặt dữ tợn, không ngờ lại như đang thừa nhận đau đớn cùng cực, đến tận lúc rời tay ra mới thấy đỡ hơn. Nội đan của hắn vậy mà đã chui hẳn vào bên trong trán của người phụ nữ.
Đột nhiên Huyền Trang bỗng đứng dậy, kinh ngạc nhìn chằm chằm vào bàn tay của Khuê Mộc Lang. Không ngờ trên bàn tay hắn lại hiện đầy chấm đỏ giống như kim châm, đầm đìa máu tươi, giống hệt với tình hình của mình khi đụng vào thiên y trên cánh tay trái! Khuê Mộc Lang cố nén đau đớn, bàn tay lại đặt lên tai trái của người phụ nữ đó, vẻ mặt của hắn còn đau khổ hơn trước, không ngờ còn phát ra một tiếng gầm gừ. Bàn tay chậm rãi dời đi, viên nội đan đó vậy mà lại chui ra từ tai trái. Khuê Mộc Lang tiếp tục đưa nội đan vào từ tai phải, lần này lại hút ra từ trong miệng người phụ nữ đó.
Cứ thế, nội đan không ngừng chui vào chui ra thân thể của người phụ nữ nọ, còn Khuê Mộc Lang đã mồ hôi nhễ nhại, dường như chỉ cần chạm đến da của nàng, Khuê Mộc Lang sẽ đau khổ tột cùng. Cảm giác đau đớn như bị kim đâm vào tận xương tủy này Huyền Trang đã từng tự mình cảm nhận, thật sự không phải là điều mà người bình thường có khả năng chịu đựng được; nhưng Khuê Mộc Lang vẫn kiên trì để nội đan chạy một chu thiên trong cơ thể của người phụ nữ ấy, sau đó mới há mồm nuốt nội đan vào miệng, mồ hôi nhễ nhại ngồi trên ngai.
Lại nhìn người phụ nữ kia, không ngờ tinh khí thần của nàng lúc này đã trở nên tốt hơn trước rất nhiều, sắc mặt hồng hào, tinh thần no đủ.
“Khuê lang, chàng không sao chứ?” Người phụ nữ ấy lo lắng hỏi, tay gần như muốn đặt lên vai của Khuê Mộc Lang, nhưng cuối cùng lại không dám đụng vào.
“Không sao, ta hao tổn quá mức, cần nghỉ ngơi một lát!” Khuê Mộc Lang trìu mến nhìn người phụ nữ ấy một cái rồi nhắm hai mắt lại, dường như là đã chìm vào trong trạng thái thiền định.
Người phụ nữ đó thở dài một hơi, không dám kinh động hắn, gót sen nhẹ nhàng đi xuống dưới đài cao, đứng ở trước mặt Huyền Trang. “Pháp sư!”
“Trên người cô nương có nửa chiếc thiên y?” Huyền Trang hỏi.
Người phụ nữ ấy buồn bã gật đầu. “Đúng vậy. Đã mặc ba năm rồi. Thân thể không thể đụng chạm được là một nhẽ, cứ cách một thời gian lại quặn đau trong ngực, hô hấp khó khăn, như là chết đi một lần vậy.”
“Vi sao bần tăng không có triệu chứng ấy?” Huyền Trang nghi hoặc hỏi.
“Cái này thì ta không biết. Ngoài ra chúng ta đều không thể đụng chạm vào người khác, có lẽ hiệu dụng khác của thiên y cũng khác nhau tùy theo từng người,” Người phụ nữ ấy nói. “Ta đã nghe nói, nửa chiếc thiên y còn lại hiện giờ đang ở trên người pháp sư. Chính là bởi muốn chữa khỏi cho ta nên Khuê lang mới đi cướp thiên y, bắt ngài về đây.”
Huyền Trang suy nghĩ một lát, xem như chấp nhận cách giải thích này.
Huyền Trang hỏi. “Xin hỏi nữ thí chủ xưng hô thế nào?”
“Pháp sư quả thật không biết ta là ai sao?” Người phụ nữ ấy nhìn ngài, ánh mắt thê lương.
Huyền Trang xoay chuyển tâm niệm, giật mình kinh ngạc. “Tiểu nương tử Địch gia, Địch Văn! Cô nương quả thật là Địch Văn?”
“Là ta…” Địch Văn im lặng thở dài. “Cái tên này đã rất lâu rồi không có ai gọi.”
Mặc dù Huyền Trang âm thầm dự cảm Địch Văn vẫn còn sống, lại không nghĩ rằng đêm đầu tiên đến Ngọc Môn Quan đã tận mắt nhìn thấy nàng. Nhớ đến ân oán dây dưa giữa Lữ Thịnh, hoặc nói là Khuê Mộc Lang với Địch thị và Lệnh Hồ thị, Lệnh Hồ Chiêm tự giam cầm mình trong đau khổ nhục nhã, tám sĩ tộc lớn chém giết ba năm với Khuê Mộc Lang, đủ mọi việc đều là bởi vì một người phụ nữ đang trước mặt ngài, ngài không nhịn được mà thở dài đắng chát.
“Tinh thần Khuê lang hao tổn quá lớn, cần nghỉ ngơi,” Địch Văn nói. “Pháp sư có muốn đi cùng ta một lát không? Không cần lo lắng cho đệ tử của ngài cùng với cô gái đó, Triệu Trưởng sử đã bố trí cho họ đi nghỉ ngơi rồi.”
Huyền Trang im lặng gật đầu, Địch Văn mở cửa bước ra ngoài. Huyền Trang đi theo nàng. Hai người đi qua cổng tây ra khỏi chướng thành, ở cổng thành có hai tên tinh tướng đứng canh gác, nhìn thấy Địch Văn chỉ khẽ cúi chào, không hề ngăn cản.
Hai người đi dạo trong Ngọc Môn Quan. Lúc này đã là giờ Tuất, vẫn có không ít bách tính ngồi vây quanh đống lửa, ăn uống cuồng hoan cạnh đống lửa bập bùng. Có ai đó uống say đang vỗ trống Hạt, hát một khúc ca dao cổ xưa.
Địch Văn dẫn Huyền Trang đi dạo, trên đường đi si mê nhìn đống lửa trước mắt và bầu trời sao, im lặng không nói gì.
Huyền Trang không nhịn được hỏi. “Địch nương tử, sau khi bị bắt đi, vì sao cô nương lại làm nương tử của Khuê Mộc Lang?”
Địch Văn thản nhiên nói, “Ta là một nữ tử, bị người bắt đi có thể làm gì chứ, còn được quyết định theo ý ta nữa sao?”
Huyền Trang không biết nên nói gì.
“Pháp sư từ Đôn Hoàng đến, có gặp phụ thân và huynh trưởng của ta không?” Địch Văn hỏi. “Bây giờ hai người họ có khỏe không?”
“Lệnh tôn rất khỏe, lệnh huynh bây giờ làm Thủ tróc sứ Tử Đình, cũng mạnh khỏe.” Huyền Trang chần chừ một lát. “Chỉ có Lệnh Hồ Chiêm…”
“Lệnh Hồ Chiêm?” Địch Văn Hồi tưởng một lát, dường như mới nhớ lại người này là ai, không nhịn được thở dài buồn bã. “Cái tên này pháp sư không nhắc tới, ta gần như đã quên rồi. Mới ba năm mà như đã luân hồi mấy đời. Lệnh Hồ lang quân đó thế nào rồi?”
“Lệnh Hồ Chiêm vẫn đang báo thù cho cô nương, mấy ngày trước cùng Khuê Mộc Lang chiến đấu một trận, bị thương nhẹ,” Huyền Trang nói. “Hắn cho rằng cô nương đã chết, trước khi bần tăng đến, hắn dặn dò nhất định phải tìm được phần mộ của cô nương, để cô nương về quy táng tổ phần.”
“Lệnh Hồ lang quân là một người rất tốt, cuộc hôn nhân này đúng là đã hại hắn.” Địch Văn hơi thương cảm. “Lúc rời khỏi đây xin pháp sư nói với hắn rằng ta đã không còn hài cốt, dặn hắn lập cho ta một ngôi mộ gió là được.”
Huyền Trang kinh ngạc. “Cô nương không muốn về sao? Ta thấy có vẻ Khuê Mộc Lang rất sủng ái cô nương, dường như…”
“Ta như thế này, bây giờ còn có thể về được nữa hay sao?” Địch Văn cười khổ. “Địch thị ta là sĩ tộc Đôn Hoàng, môn phong lễ pháp nghiêm cẩn, sau khi bị bắt ta đã làm vợ người khác, sỉ nhục cả nhà. Ta chết rồi còn đỡ, nếu như còn sống trở về, sợ rằng ngay cả cha anh ta cũng không dám tưởng tượng hậu quả sẽ ra sao. Còn Khuê lang, mặc dù hắn sủng ái ta, lại tuyệt đối không chịu để ta rời khỏi Ngọc Môn Quan nửa bước. Mỗi ngày lúc thấy cô đơn, ta lại đi quanh trong quan thành này; mỗi một chỗ đổ nứt, mỗi một cồn cát ở nơi đây ta đều quen thuộc, sớm đã coi nó là nhà mình rồi. Ngoài tưởng niệm cha và anh, cuộc đời ta không hề có thiếu sót gì đáng tiếc.”
“Nhưng mà…” Huyền Trang do dự. “Cứ như thế này, cuộc báo thù đẫm máu của sĩ tộc Đôn Hoàng nhằm vào Khuê Mộc Lang sẽ vĩnh viễn không ngừng.”
Địch Văn im lặng, nàng đi rất lâu rồi mới đáp. “Nếu ta về, việc báo thù sẽ chấm dứt sao?”
Huyền Trang cứng họng, không thể nào trả lời được.
“Hoặc ta chết đi, báo thù sẽ chấm dứt sao?” Địch Văn hỏi. “Cho nên ta sống hay chết, có trở về hay không, thế gian này cũng sẽ không có bất cứ sự thay đổi nào, vẫn sẽ như thế.”
Huyền Trang không khỏi cười khổ. Cuộc báo thù này mặc dù do Địch Văn mà có, nhưng trên thực tế nàng lại là người vô tội nhất. Thứ quyết định trận huyết chiến suốt ba năm nay chính là lòng tam ái do cố chấp ngũ dục mà thành, lòng ác nghiệp do đã quen oán hận mà nên, lòng chấp ngã do si ngu không tỉnh mà sinh ra ở trong lòng chúng sinh.
Chúng sinh trong trời đất này tựa như một tấm mạng nhện khô hanh, bất cứ một sợi tơ nào bị ngọn lửa đốt cháy cũng đều sẽ lan tràn ra khắp thiên hạ, đốt cháy chúng sinh; bất kể là có tội hay không có tội, liên quan hay không liên quan, không một ai có thể chạy thoát.
Lúc này hai người đã đi vào trong binh thành. Thời Lưỡng Hán, đây là nơi quân tốt đóng quân, diện tích rất lớn, khắp nơi đều là nhà cửa thấp bé. Bây giờ sớm đã hoang vu tàn tạ, đổ nát thê lương, lại có không ít nhà dân mới được tu sửa; khắp nơi đều chất đống đồ dùng trong nhà hàng ngày, như những ngõ phố bình thường trong phường.
Hai người đi qua hai ngõ phố liền đến một chỗ hoang vắng gần tường thành bên cạnh binh thành, nơi đây có một ụ khói lửa đã sụp xuống một nửa, dưới ụ khói lửa là một tòa viện để sĩ tốt trông ụ khói lửa cư trú hàng ngày.
Địch Văn mở cửa viện ra, dẫn Huyền Trang đi vào trong viện. Tòa viện này tuy tàn tạ đơn sơ nhưng sạch sẽ gọn gàng, có thể thấy thường xuyên có người quét dọn. Trong viện còn nuôi một đàn gà, hai bên trái phải viện đã từng là nhà kho chứa quân giới và lương thực, bây giờ một bên cải tạo thành nhà bếp, một bên cải tạo thành chuồng gà. Lúc này đàn gà đã lên kệ trong chuồng gà, thỉnh thoảng lại vang lên vài tiếng vỗ cánh hỗn loạn, mang đầy hơi thở của cuộc sống.
Trước mặt là một ngôi nhà hai gian. Cửa đang khóa. Địch Văn lấy ra chìa khóa từ trên người rồi mở khóa. “Pháp sư, mời!”
“Đây là nơi nào?” Huyền Trang hỏi.
“Nhà của ta.” Địch Văn khẽ mỉm cười.
Huyền Trang lập tức kinh ngạc, ngơ ngác nhìn Địch Văn lấy ra hỏa chiết tử đã cháy rất lâu, thắp sáng đèn dầu, cảnh tượng trong nhà lập tức hiện lên trước mắt ngài. Nhà rất nhỏ, chỉ có hai gian, nóc nhà và tường đã đổ nát, được dùng lau sậy trộn với bùn lầy sửa sang lại. Gian bên phải được bố trí thành sảnh đường, trên mặt đất trải chiếu lau sậy, trên chiếu có thảm nỉ, giữa đặt một chiếc bàn ăn, bên trên còn có bát đũa và bình sứ. Hai con chuột nghe thấy tiếng người, kêu chít chít chạy rất nhanh vào trong bóng tối.
Những bày biện khác cũng giống như bách tính tầm thường đều là dụng cụ hàng ngày, có điều lại có một giá sách dựa vào sát tường, bên trên bày tầng tầng lớp lớp gần trăm quyển sách. Trên giá sách còn có chổi lông gà dùng để phủi bụi.
Một bên khác của sảnh đường dường như là phòng ngủ của chủ nhân, dùng bình phong ngăn ra. Trong phòng mặc dù không lớn, lại cực kì ấm áp và tràn ngập hơi người.
Địch Văn mời Huyền Trang ngồi xuống chiếu lau, múc ra một bát nước nho từ trong hũ đặt ở góc nhà, bưng đến trước mặt Huyền Trang.
“Biết pháp sư không uống rượu, ta cũng không uống rượu, đây là nước nho ta tự ủ. Từ lúc vào Ngọc Môn Quan pháp sư vẫn chưa uống một giọt nước nào, mời pháp sư giải khát,” Địch Văn nói.
Huyền Trang cảm ơn, bưng nước nho lên uống một bát. “Mùi vị rất ngon.”
Địch Văn lộ vẻ vui mừng. “Mấy năm nay ta ở Ngọc Môn Quan, các loại việc nhà đều đã học được, ủ rượu, dệt gấm, may áo, làm bánh mì, trồng trọt rau dưa với trái cây.”
Nàng mở ra bàn tay mình, quả nhiên lòng bàn tay đã có không ít những vết chai cứng. “Ta còn biết nướng cừu, nấu cá, chỉ chưa bao giờ tự tay giết, cuối cùng vẫn sợ thấy máu. Pháp sư không ăn mặn, lát nữa ta xuống bếp làm cho ngài một ít bánh bột. Ta cán bột rất mỏng, cho thêm dầu vừng rồi rắc hành thái lên, mùi vị rất thơm ngon.”
“Ơ…” Huyền Trang muốn khách khí một chút, nhưng bụng quả thật đã đói. “Vậy thì đa tạ Địch nương tử.”
Địch Văn đứng dậy ra ngoài chuẩn bị đồ ăn. Huyền Trang nhìn quanh, thấy dường như tấm bình phong kia trông hơi quen mắt. Bình phong ấy có tám tấm, mặt bằng lụa trắng, bên trên dùng bút vẽ một bức tranh sơn thủy to, nhìn kĩ, không ngờ lại là thành Trường An. Lấy phố lớn Chu Tước làm trục giữa, từ Minh Đức Môn vẽ đến Huyền Vũ Môn. Huyền Trang chưa từng vào trong cung thành, nhưng nhìn nha môn và phố ngõ trong hoàng thành thì không sai chút nào so với những gì mà ngài đã thấy.
Bức tranh này nếu ở Trường An thì tuyệt đối là vật bị cấm, bởi vì triều đình nghiêm cấm tư nhân vẽ thành quách và địa đồ. Cũng không biết là người nào vẽ, Huyền Trang nhìn kĩ, không hề có lạc khoản.
Trên bình phong còn vắt một dải lụa dài ba thước, bên trên thêu uyên ương, cũng không biết dùng để làm gì.
Đúng lúc này, đột nhiên nghe thấy Địch Văn ngoài sân cười nói, “Tứ Lang về rồi à? Pháp sư Huyền Trang đang đợi trong phòng.”
Huyền Trang kinh ngạc, muộn như vậy còn có ai đến? Nghe lại có vẻ như là người đang sống ở đây.
Huyền Trang vội vàng đứng dậy, vừa đi tới cửa thì đã lập tức kinh ngạc. Ngài nhìn thấy một người đàn ông áo trắng đang bước vào từ cổng viện, cùng Địch Văn sánh vai đứng cạnh nhau, hai người nói cười vui vẻ, không ngờ lại chính là Khuê Mộc Lang!
“Khuê Mộc Lang…” Huyền Trang kinh ngạc kêu lên.
“Pháp sư,” Địch Văn cười nói. “Chàng không phải Khuê Mộc Lang, là Lữ Thịnh.”
Khuê Mộc Lang, hoặc nói là Lữ Thịnh, vẻ mặt nhã nhặn nhìn Huyền Trang, khẽ nói, “Pháp sư, nhiều năm không gặp!”