Chương 12 Trong chùa Trường Lạc luận mưu phản,-giữa Ngọc Môn Quan nói chuyện xưa
“Đại vương, lúc phi thường chỉ có thể làm chuyện phi thường, có câu nói là ‘Nhất tướng công thành vạn cốt khô,’ huống hồ là cắt đất xưng vương? Chỉ cần đồ thành Cam Châu, trong tay chúng ta liền có một chi đại quân thề chết thần phục!”
Trong chùa Trường Lạc ở Đôn Hoàng, Vương Quân Khả biết Lý Diễm nhân hậu, đang cố bình tĩnh thuyết phục vị Quận vương này.
“Không không không, bản vương không thể làm chuyện như vậy…” Lý Diễm giống như là bị bọ cạp đốt, nhảy dựng lên. “Thành Cam Châu có mấy vạn bách tính vô tội đấy!”
“Đại vương nhân từ, vậy thì không cần chết hết, chết bảy, tám nghìn cũng đủ rồi,” Vương Quân Khả nói.
“Không không, bản vương làm như vậy… sẽ phải xuống ngục Nê Lê!” Lý Diễm toát mồ hôi như tắm, sắc mặt thê lương. “Bản vương là tôn thất Lý Đường, không thể bảo vệ bách tính, ngược lại phải đồ thành tàn sát, thẹn với thân phụ đã mất và tổ tiên các đời!”
“Chuyện đồ thành, tôn thất Lý Đường lại không phải chưa từng làm,” Vương Quân Khả lạnh lẽo nói. “Năm Vũ Đức thứ ba, Bệ hạ đồ Hạ Huyện, chết không chỉ bảy, tám nghìn người!”
Lý Diễm lập tức im lặng. Năm Vũ Đức thứ hai, Lưu Vũ Chu công chiếm Tấn Dương, quét sạch Hà Đông; Lữ Sùng Mậu người Hạ Huyện chiếm huyện lị, hưởng ứng Lưu Vũ Chu. Khi đó Lý Thế Dân đang đóng quân ở Bá Bích, kịch chiến với Lưu Vũ Chu. Hoàng đế Lý Uyên đích thân bố trí, phái đám người Lý Hiếu Cơ, Độc Cô Hoài Ân, Đường Kiệm và Lưu Thế tấn công Hạ Huyện, kết quả là tất cả đám người Lý Hiếu Cơ đều bị hai người Lữ Sùng Mậu và Uất Trì Kính Đức đánh bại rồi bắt làm tù binh.
Lý Uyên mất hết thể diện, không nỡ tổn thất nhiều trọng tướng như vậy, thế là dùng quan tước mua chuộc lòng người, chiêu hàng Lữ Sùng Mậu, sai hắn lén diệt trừ Uất Trì Kiính Đức, kết quả là Lữ Sùng Mậu bị Uất Trì Kính Đức giết ngược. Sau đó Uất Trì Kính Đức rời khỏi Hạ Huyện, lên bắc chi viện Lưu Vũ Chu. Song phương đại chiến tại Bá Bích, cuối cùng Lưu Vũ Chu thua trận trốn chết. Lý Thế Dân dẫn đại quân về, công phá Hạ Huyện, trắng trợn đồ thành.
Việc này ở triều đình cũng là một vụ án không xử được. Cốt lõi của vụ án không phải Hạ Huyện có phải bị đồ thành hay không, mà là lệnh này rốt cuộc do ai đưa ra? Là Lý Uyên hay Lý Thế Dân? Thời Vũ Đức, dư luận thống nhất trong triều đình là Lý Thế Dân hạ lệnh đồ thành, Lý Thế Dân cũng ngầm thừa nhận điều này, dù sao khi đó hắn là chủ soái. Có điều đến thời Trinh Quán, trong triều đình lại có một tin tức bắt đầu lưu truyền, nói lệnh đồ thành là Thái thượng hoàng Lý Uyên hạ. Tóm lại hai cha con ai cũng không chịu mang ô danh này.
“Còn có… trận chiến phá đập Minh Châu!” Vương Quân Khả gần như là nghiến răng nghiến lợi nói ra mấy chữ ấy.
Lý Diễm kinh ngạc nhìn hắn, trông thấy vẻ mặt đau khổ dữ tợn của Vương Quân Khả, lập tức nhớ về những kí ức mà chính mình cũng không dám nghĩ lại về cuộc chiến sự thảm thiết năm ấy. Giọng nói của ông ta hơi run rẩy. “Chớ nói nữa…”
“Không, ta phải nói!” Cho dù là lúc nói đến chuyện tạo phản, vẻ mặt của Vương Quân Khả cũng vân ung dung, nhưng vừa nhắc tới trận chiến phá đập Minh Châu lại không thể khống chế được tâm tình của mình mà rơi nước mắt. “Đại vương, Minh Châu là vết nhơ cả đời của ta, cũng là vết nhơ cả đời của ngài, nhưng mấy vạn tướng sĩ vô tội ấy đã chôn vùi vô ích, chỉ là vì để thành toàn cho Bệ hạ anh minh vĩ đại của chúng ta thôi!”
Lý Diễm thở dài buồn bã, vỗ vai Vương Quân Khả, trong lòng rất u sầu.
Tháng Giêng mùa xuân năm Vũ Đức thứ năm, Lưu Hắc Thát tự xưng Hán Đông Vương, định đô Minh Châu. Triều đình phái Lý Thế Dân dẫn quân thảo phạt, hai đại kỳ tài quân sự lấy Minh Châu làm trung tâm triển khai một loạt giao thủ, song phương đều có thắng bại. Trong lúc này lại xảy ra một sự kiện ngẫu nhiên không lường trước được, ấy là thừa dịp Lưu Hắc Thát đang chỉ huy trong quân, thủ hạ của hắn là Lý Khứ Hoặc dâng thành Minh Châu cho Lý Thế Dân! Lý Thế Dân như giành được chí bảo, lập tức phái Vương Quân Khả dẫn một nghìn kỵ binh khẩn cấp tiến vào Minh Châu.
Lúc này Lưu Hắc Thát đã đỏ mắt, mấy vạn đại quân bao vây thành Minh Châu, ngày đêm tấn công mãnh liệt.
May mà thành Minh Châu dễ thủ khó công, bốn phía có hào nước, hào rộng năm mươi mấy bộ, sâu đến ba bốn trượng, bởi vậy Vương Quân Khả mới có thể lấy hơn nghìn người liều chết giữ được thành trì.
Đại quân của Lý Thế Dân cũng đến vòng ngoài của Lưu Hắc Thát, tấn công ngày đêm, muốn mở đường vào tiếp viện cho Vương Quân Khả. Lưu Hắc Thát thì một mặt ngăn cản Lý Thế Dân, một mặt mãnh liệt công thành. Song phương, chiến đấu liều chết ở thành Minh Châu, tiêu điểm quyết thắng chính là Vương Quân Khả có thể giữ được thành Minh Châu hay không!
Vương Quân Khả cũng đã giết đỏ hết cả mắt rồi, kiên cường ngăn chặn Lưu Hắc Thát năm sáu ngày đêm, không ngủ không nghỉ chém giết, thân hình tàn tạ; hơn một nghìn người chết trận tám chín trăm, cuối cùng chỉ còn lại có hơn ba trăm người. Lúc ấy Vương Quân Khả quả thực không thể chịu nổi nữa, đành phải dùng tín hiệu cờ báo nguy với Lý Thế Dân, tỏ ý mình không giữ được nữa, thỉnh cầu bỏ thành.
Thực ra đánh đến nước này cũng đã tỏ rõ phong thái danh tướng của Vương Quân Khả. Gần như tất cả mọi danh tướng Đại Đường đều không chịu được một đòn dưới tay của Lưu Hắc Thát, ngay cả Lý Tích cũng thua hai trận liền, vừa mới giao phong đã bỏ thành mà chạy. Trận này dù là bất cứ ai cũng không thể chỉ ra được sai lầm của Vương Quân Khá.
Lý Thế Dân cũng hiểu, nhung lại thật sự không cam lòng, liền hỏi dò các tướng. “Ai có thể giúp Vương Quân Khả thủ thành Minh Châu?”
Mãnh tướng La Sĩ Tín xúc động bước ra khỏi hàng, sẵn sàng thủ thành.
Thế là Lý Thế Dân lập tức dùng tín hiệu cờ báo cho Vương Quân Khả rút lui từ cổng bắc.
Vương Quân Khả dẫn tàn binh lao ra từ cổng bắc, Lý Thế Dân thì phái tinh nhuệ tấn công mãnh liệt vào cổng bắc. Hai bên trong ngoài giáp công, cuối cùng cũng phá tan được một khe hở trong đội hình quân đội vây thành. Vương Quân Khả thuận lợi chạy ra, nhưng La Sĩ Tín chỉ mới mang được hai trăm người vào thành thì lỗ hổng đã bị Lưu Hắc Thát lấp lại.
Sau khi La Sĩ Tín vào thành, Lưu Hắc Thát đích thân chỉ huy quân đội phát động tấn công mãnh liệt hơn về phía thành Minh Châu, ngày đêm không ngừng, tên bắn như mưa, còn thi công hai cây cầu phao ở đông bắc thành trì, mấy vạn đại quân cuồn cuộn lao tới không ngừng không nghỉ. Còn La Sĩ Tín dựa vào hai trăm người thủ vững cuộc tấn công của hàng vạn người, đánh tới tận lúc gỗ đá đều hết, đao cụt mâu gãy, đánh trọn tám ngày đêm liền!
Trong tám ngày đêm này, Lý Thế Dân tìm mọi cách tấn công Lưu Hắc Thát, vẫn bị Lưu Hắc Thát ngăn cản gắt gao, không tiến lên được thêm một tấc nào! Ngày Đinh Sửu, tháng Giêng năm Vũ Đức thứ năm, cuối cùng thành Minh Châu bị Lưu Hắc Thát công hãm. La Sĩ Tín chiến đến một người cuối cùng, bị thương bị bắt. Lưu Hắc Thát khâm phục sâu sắc trước sự dũng mãnh của La Sĩ Tín, có ý muốn chiêu hàng. La Sĩ Tín bất khuất không chịu, liền bị giết, thọ hai mươi tuổi.
Lý Thế Dân thương tiếc không thôi, bỏ số tiền lớn mua thi thể về hậu táng.
Trận chiến này của La Sĩ Tín là trận chiến thảm thiết nhất và cũng là trận chiến huy hoàng nhất trong lịch sử Đại Đường, cho dù mới hai mươi tuổi đã chết trận, nhưng cũng lưu danh bất diệt, trở thành một mãnh tướng tuyệt thế của Đại Đường. Mà trước sự nổi bật của La Sĩ Tín, cuộc chiến thủ thành hết sức thảm thiết của Vương Quân Khả trước đó lập tức trở nên mờ nhạt và ảm đạm thất sắc. Lúc đầu Vương Quân Khả còn lại ba trăm người liền muốn bỏ thành mà đi, hành động này đã trở thành vết nhơ của hắn suốt cả một đời.
Từ ấy Vương Quân Khả trở nên bất đắc chí trong quân đội Đại Đường. Mặc dù hắn tích lũy công trạng được thụ phong Huyện công, nhưng các đồng liêu trong quân đội lúc đầu, dù thất bại thảm hơn nhưng cũng đã có rất nhiều người được phong lên đến hàng Quốc công. Ba năm trước, vì “coi chừng” Lý Diễm, thậm chí hắn còn bị Hoàng đế “đày” đến vùng sa mạc hoang vu hẻo lánh này; giờ đây mắt thấy sắp triển khai cuộc chiến diệt quốc đối với Đông Đột Quyết, vậy mà lại vô duyên tham dự. Có thể lường trước được rằng trận chiến diệt quốc ấy tất nhiên là tướng tinh như mây, quân công như biển, sau một trận cũng không biết sẽ có bao nhiêu Tướng quân sinh sau đẻ muộn hơn hắn được phong lên đến hàng Quốc công.
Mỗi lần nghĩ đến trận chiến này, Vương Quân Khả luôn bóp cổ tay thở dài, vừa xấu hổ vừa tức giận khó mà nhịn được.
Thành Minh Châu cũng là nơi làm Lý Diễm đau lòng. Sau khi Lý Thế Dân đánh bại Lưu Hắc Thát, lúc thu quân về triều đã để Lý Diễm lại làm tổng quản thành Minh Châu. Kết quả không được mấy tháng, Lưu Hắc Thát phất cờ trở lại. La Sĩ Tín và Vương Quân Khả có mấy trăm hay hơn nghìn người đã dám thủ thành suốt tám ngày đêm, nhưng Lý Diễm sớm đã bị Lưu Hắc Thát đánh sợ, ngay cả một trận cũng không đánh, bỏ thành mà chạy. Nếu không có Thái tử Lý Kiến Thành cầu xin cho, Lý Uyên sớm đã tước mất vương tước của ông ta rồi.
Nhất thời trong phòng yên tĩnh không một tiếng động, hai người ngơ ngác nhìn nhau, đều hết sức tiếc nuối và bi thương.
“Ta không hề oán trách việc vận mệnh của mình không tốt, tình hình khi đó cũng là ta chưa thể hạ được quyết tâm cùng chết theo thành, thiếu khí khái cảm tử của La Sĩ Tín, không hề đổ lỗi cho người khác. Nhưng…” Vương Quân Khả tức giận. “Trận chiến phá đập Minh Hà sau đó lại khiến ta không phục! Trận đó ngài không tham dự, khi ấy Bệ hạ cùng Lưu Hắc Thát cách Minh Hà giao đấu, Lưu Hắc Thát hết lương, Bệ hạ biết hắn nóng lòng khiêu chiến, liền phái người chặn thượng nguồn Minh Hà làm cạn nước sông. Bệ hạ khiêu chiến Lưu Hắc Thát, Lưu Hắc Thát dẫn quân vượt qua Minh Hà, hai bên kịch chiến dưới lòng sông Minh Hà. Lúc đó Bệ hạ ra một mệnh lệnh như sau: ‘Ngày ta đánh giặc, chờ giặc vượt sông tới một nửa thì phá đập’.”
Lý Diễm thắc mắc. “Bệ hạ sai người phá đập? Nhưng khi đó Bệ hạ cùng Lưu Hắc Thát đều đang quyết chiến dưới lòng sông mà!”
“Đúng vậy! Song phương mấy vạn người đều đang chém giết dưới lòng sông, nhưng Bệ hạ vẫn cho phá đập!” Vương Quân Khả cười lạnh lùng. “Chỉ có điều trước đấy Bệ hạ đã dẫn đám Tướng quân chúng ta thoát ra khỏi chiến trường, rời khỏi lòng sông, bỏ lại hai vạn quân Đường ở đó bám chặt lấy Lưu Hắc Thát. Những quân sĩ ấy hoàn toàn không biết rằng họ đã sớm bị Thống soái của chính mình từ bỏ, làm quân cờ bị buộc phải chết, chỉ để kéo theo hai, ba vạn quân của Lưu Hắc Thát chôn cùng!”
Lý Diễm hít một hơi. “Việc này tại sao ta lại không biết?”
“Ai dám nói chứ?” Vương Quân Khả cười lạnh lùng. “Khi đó Bệ hạ và Thái tử đang đoạt vị, ai dám đưa thanh đao này cho Thái tử?”
“Chẳng phải Lưu Hắc Thát kia cũng không chết đuối hay sao?” Lý Diễm nói. “Hắn đã chạy thoát như thế nào?”
“Lưu Hắc Thát đang chém giết thì phát hiện không ổn, lệnh tâm phúc điều tra, phát hiện ý đồ phá đập. Lúc này Lưu Hắc Thát cũng không có lựa chọn nào khác, hai bên đang giằng co với nhau, nếu hắn dám hạ lệnh rút lui, nhất định là toàn quân sẽ sụp đổ. Thế nên Lưu Hắc Thát cũng làm tráng sĩ chặt tay, dẫn mấy trăm tên tâm phúc lặng lẽ tách khỏi chiến trường, rời khỏi lòng sông.” Vương Quân Khả thở dài. “Đáng thương cho đám sĩ tốt đang tràn đầy nhiệt huyết chém giết vì chủ tướng dưới lòng sông, lại không biết chủ soái mà họ yêu quý đã vứt bỏ bọn họ rồi. Có điều đáng thương nhất vẫn là nam nhi Đại Đường ta, bọn họ không hề có chút giá trị nào, chỉ là một đám quân cờ được dùng để chôn cùng. Khi đó ta đứng ở trên bờ, nhìn thấy Minh Hà cuồn cuộn, sóng lớn quay cuồng, vô số nam nhi kêu gào sợ hãi, trở thành thức ăn của ba ba tôm cá.”
Vương Quân Khả nghẹn ngào rơi lệ. “Trong hai vạn người ấy có chiến hữu do một tay ta dẫn theo, bọn họ cùng ta trải qua loạn thế, vô số lần tránh thoát đao tên trên chiến trường. Bọn họ đã thành gia tại Trường An, có người đã sinh được con trai, có người đã sinh được con gái; có người còn trở lại quê nhà tìm được cha mẹ, đưa đến Trường An, dự định để họ được an hưởng tuổi già…”
Lý Diễm lặng lẽ rơi lệ. “Khi ấy ta cũng có hỏi, chư tướng không nói tỉ mỉ, chỉ nói bị quân của Lưu Hắc Thát dây dưa, không thể kịp thời rời khỏi chiến trường.”
Vương Quân Khả gào khóc kìm nén. “Bệ hạ ra lệnh cho ta, yêu cầu ta vứt bỏ quân đội cùng đi với hắn. Trong lòng ta cực kì đau khổ, nhưng không dám cãi lại. Ta ngồi trên lưng ngựa lén chuồn đi như một tên trộm, như một kẻ phản bội, như… như hung thủ đã bán đứng bọn họ! Mười mấy năm loạn thế, ta giết vô số người, chưa bao giờ từng thấy hối hận, nhưng thường xuyên tỉnh lại lúc nửa đêm, thấy bọn họ xuất hiện trong mơ. Bọn họ cứ thế nhìn ta, mặt trương phù, tái nhợt, cười lạnh lùng với ta, nói ta bán đứng bọn họ…”
Lý Diễm thở dài, mặc dù ông ta đánh trận không tốt, nhưng lại là người tính tình đôn hậu, trân trọng sĩ tốt. Khi nhìn thấy trận chiến tất bại, cho dù có phải chịu triều đình xử phạt ông ta cũng không muốn để sĩ tốt phải mất mạng vô nghĩa. Đương nhiên đây cũng liên quan đến tính tình hèn yếu của ông ta.
“Cho nên, Đại vương…” Vương Quân Khả lau nước mắt. “Ngai rồng của đế vương đều được chất đống lên bằng vô số thi thể, điều này không liên quan đến sự nhân từ, không liên quan gì đến đạo nghĩa. Sa trường tranh hùng, tranh giành thiên hạ, thua liền không có gì để nói, thi thể của kẻ thua sẽ trở thành một viên gạch để dựng lên ngai rồng của người ta. Chỉ cần ngài không muốn chết, đồ thành Cam Châu không thể không làm.”
Lý Diễm không nói một lời, hầm hầm cầm lên một chén rượu rồi uống một hơi cạn sạch, hai mắt đỏ bừng nói, “Vậy sau đó thế nào? Chúng ta có thể ngăn cản được năm vạn đại quân của Lý Đại Lượng phản công hay không?”
Vương Quân Khả cười lạnh lùng. “Năm vạn đại quân? Hắn một binh một lính cũng đều không dám động! Trước khi xuất binh đương nhiên chúng ta phải đàm phán xong xuôi với Đông Đột Quyết và Thổ Dục Hồn. Đến lúc đó Khả hãn Hiệt Lợi biết chúng ta giành được Cam Châu, uy hiếp Lương Châu, nếu như hắn không chống nổi đại quân bắc phạt của Bệ hạ, nhất định sẽ phải dọc theo Hoàng Hà xuôi nam về Linh Châu, tìm cách cùng chúng ta giáp công Lương Châu. Còn Thổ Dục Hồn và Lương Châu lại gần trong gang tấc, Mộ Dung Phục Doãn chỉ cần làm ra tư thế lên bắc, Lý Đại Lượng sẽ hoàn toàn không thể phái binh đến Cam Châu nữa, bởi vì tuyến đường hành quân từ Lương Châu đến Cam Châu quá dài, bất cứ lúc nào Mộ Dung Phục Doãn cũng có thể cắt đứt đường lui quân của hắn. Cho nên chỉ cần chúng ta chiếm được Cam Châu, tiến có thể phối hợp Mộ Dung Phục Doãn và Khả hãn Hiệt Lợi tấn công Lương Châu; lùi có thể cát cứ Hà Tây, tự bảo vệ mình!”
Lý Diễm im lặng rất lâu, trong chùa Trường Lạc có gió cát thổi qua, những hạt cát nhỏ va vào chuông đồng bên dưới mái hiên. Trong tiếng chuông “leng keng” lại có lẫn tiếng cát “sàn sạt,” nghe như tiếng sâu bọ gặm xương trắng của người đã chết.
“Ngươi cần cái gì?” Lý Diễm nhìn Vương Quân Khả. “Không tiếc thân bại danh liệt giúp ta cát cứ xưng vương, bản vương có thể cho ngươi cái gì?”
“Một khi ngài và ta cát cứ, lúc đại quân triều đình đến dẹp loạn, ta tất phải quyết chiến sa trường với đám người Lý Tĩnh và Lý Tích, có lẽ còn sẽ gặp cả Tần Quỳnh và Trình Tri Tiết! Ta phải làm cho cả thiên hạ này thấy, Vương Quân Khả ta mới thật sự là danh tướng thiên hạ! Ta sẽ lần lượt đánh bại từng danh tướng được Bệ hạ coi trọng, triệt để rửa sạch nỗi nhục Minh Châu! Hơn nữa ta cũng không đợi được ba bốn đời sau, hai ba trăm năm sau mới có thể lập nên môn phiệt sĩ tộc, ta phải phò tá Đại vương lập quốc, ngay trong đời ta liền sáng lập nên môn phiệt hiển hách! Vì thế, thứ mà ta cần chính là…” Vương Quân Khả gằn từng chữ từng câu. “Vinh quang của bản thân, môn phiệt cho Vương thị!”
Đêm hôm đó, ánh sao chiếu sáng chùa Trường Lạc, cũng chiếu sáng cả Ngọc Môn Quan.
Huyền Trang đứng dưới ánh sao nơi đình viện, ngơ ngác nhìn Lữ Thịnh đang đứng trước mặt, Lữ Thịnh cũng mỉm cười nhìn ngài. Hai người im lặng đối mặt. Từ năm Vũ Đức thứ bảy cho tới bây giờ, hai người đã năm năm không gặp nhau, nhưng chỉ nhìn một cái, Huyền Trang liền có thể khẳng định được rằng người trước mặt mình không phải Khuê Mộc Lang mà là Lữ Thịnh!
Lữ Thịnh trước mặt ngài đứng trong đình viện, nét cười trong mắt, khí chất ung dung, lập tức liền trùng khớp với hình ảnh người đàn ông trong chùa Đại Hưng Thiện năm Vũ Đức thứ bảy. Năm tháng như rượu ngon, rượu ngon say tuế nguyệt, lại không thay đổi được người đàn ông này dù chỉ một chút. Hắn không nói gì, nhưng dường như Huyền Trang lại nghe thấy tiếng hắn đang nói. “Năm Đại Nghiệp thứ năm nhà Tùy, thiên hạ có bao nhiêu hộ? Có bao nhiêu người?”
“Lữ huynh, quả nhiên ngươi còn sống!” Tâm tình Huyền Trang kích động. “Rốt cuộc chuyện này là thế nào?”
Hai mắt Lữ Thịnh hơi ươn ướt. “Pháp sư, thời gian qua ngài khổ cực tìm cách tẩy oan kêu khuất cho ta, ta vô cùng biết ơn. Nguyên do trong chuyện này, tự nhiên sẽ phải nói rõ với pháp sư.”
“Tứ Lang, hay là chàng cùng với pháp sư uống một chén, thiếp thân đi làm hai bát canh bánh bột. Pháp sư đã đói rồi.” Địch Văn nói nhỏ.
“Nương tử vất vả rồi.” Lữ Thịnh mỉm cười gật đầư, Địch Văn cúi người thi lễ với Huyền Trang rồi vào trong bếp.
Lữ Thịnh dẫn Huyền Trang quay vào trong sảnh đường, ngồi xuống trên chiếu lau, chính mình vào góc nhà lấy một chiếc hũ, mở nắp được phong kín, hóa ra là một hũ rượu.
“Pháp sư, ngài và ta nhiều năm không gặp, không bằng uống vài bát!” Lữ Thịnh cười nói. “Đây chính là rượu lúa mạch nương tử nhà ta tự tay ủ. Lúa mạch là lương thực quý, ít khi được dùng để ủ rượu, đây cũng là nương tử dành dụm lúa mạch hồi lâu mới ủ cho ta được một hũ này.”
Huyền Trang không ngừng lắc đầu. “Bần tăng là tăng nhân, không được uống rượu.”
Lữ Thịnh cười to. “Tăng nhân người Hán không uống rượu, nhưng nơi này là Đôn Hoàng. Đôn Hoàng từ khi có tăng chúng tới nay đã uống rượu thành tục, chẳng những có thể uống rượu mà còn có thể mở phường rượu, ủ rượu và bán rượu, không hề vi phạm thanh quy Phật môn bản địa.”
Huyền Trang cười khổ, ngài đã ở Đôn Hoàng nửa tháng, sống trong chùa nhiều ngày, đương nhiên biết tập tục uống rượu của tăng nhân Đôn Hoàng. Ngày đầu tiên ngài vào Đôn Hoàng, đã thấy Địch Pháp Nhượng bán rượu tồn của phường rượu trong chùa.
Đây chủ yếu là bởi vì Đôn Hoàng giá rét, mới qua tháng Tám đã rét lạnh vô cùng, mùa đông tuyết lớn liên miên, băng đóng nghìn dặm. Còn tăng lữ chùa chiền phần lớn phải tham gia lao động thể lực nặng, sửa chữa chùa miếu, xay gạo xay bột, còn phải đến vách núi hang nghìn Phật đào hang, đắp tượng và vẽ tranh trên vách đá. Nếu không uống rượu, chỉ sợ chẳng mấy chốc họ sẽ bị đông thành cột băng. Cho nên từ xưa tới nay, việc tăng lữ Đôn Hoàng uống rượu đã trở thành một loại tập tục, hoàn toàn khác với ở Trung Nguyên.
“Cho nên, pháp sư,” Lữ Thịnh cười nói. “Ngài từ Trường An đến Thiên Trúc, đường xa vạn dặm, qua trăm đất nước, phong tục khí hậu đều có bất đồng. Nếu vẫn cứ cứng nhắc theo quy củ của Phật gia đất Hán, chỉ sợ nửa bước khó đi. E rằng ngay cả Phật môn Thiên Trúc được Phật Đà truyền pháp cũng có giới luật khác biệt rất lớn so với đất Hán. Cái gọi là nhập gia tùy tục, không bằng bắt đầu từ đêm nay đi.”
Huyền Trang cũng cười. “Thì ra Lữ huynh muốn tái diễn một trận luận chiến chùa Đại Hưng Thiện!”
Lữ Thịnh cười to. “Bị pháp sư nhìn thấu rồi, đúng là ta muốn tìm lại một chút cảm giác lần đầu gặp pháp sư năm ấy. Lần này ta lại thua nữa, liền phạt ta cùng pháp sư uống nước nho vậy.”
Hai người cùng cười to. Lữ Thịnh đậy hũ rượu lại, cũng rót cho chính mình một bát nước nho.
Hai người giơ bát lên chạm một cái, uống một hơi cạn sạch.
“Lữ huynh, rốt cuộc chuyện này là thế nào?” Huyền Trang chăm chú nhìn hắn. “Bần tăng đoán ra có lẽ ngươi còn sống, lại chưa hề nghĩ rằng sẽ gặp lại bằng phương thức này.”
Lữ Thịnh im lặng một hơi lâu, nhìn bát nước nho trước mặt, dường như đã chìm vào trong kí ức xa xăm. “Trên thực tế, rất nhiều chuyện mấy năm nay ta cũng không nhớ được rõ lắm. May mà sau khi đi tới Đôn Hoàng, pháp sư bôn tẩu khắp nơi giúp ta, gần như là lần lượt hoàn nguyên quá khứ của ta, nhờ thế mà ta mới có thể một lần nữa nhìn thấy những chuyện cũ ấy.”
“Vì sao lại thế?” Huyền Trang kinh ngạc. “Chẳng lẽ là bởi vì Khuê Mộc Lang? Rốt cuộc quan hệ giữa ngươi và Khuê Mộc Lang là như thế nào?”
“Là hai linh hồn trong cùng một thể xác,” Lữ Thịnh nói. “Năm Vũ Đức thứ chín, ta bị người hãm hại ở Thanh Đôn Thú, bị nhốt vào trong địa lao. Giám ngục muốn siết cổ giết ta, trong lúc vừa quấn lụa trắng quanh cổ ta, đang định siết lại thì linh thể của Khuê Mộc Lang vừa khéo bay qua đó, làm một giao dịch với ta.
“Nó nói nó từ thiên đình xuống dưới hạ giới, trong nhân gian không có chỗ bám thân, muốn mượn thể xác của ta sống nhờ ba năm; ba năm sau nó trở về thiên đình, sẽ trả lại tự do cho ta. Khi đó ta liền đáp ứng,” Lữ Thịnh thản nhiên nói. “Lúc linh thể của nó chui vào trong thể xác của ta, ý thức của ta vẫn còn, phát hiện toàn thân mình lại mọc lên lông sói, biến thành một con sói lớn!”
“Vậy mà lại có việc như thế!” Huyền Trang trợn mắt há mồm, không nghĩ tới chuyện quỷ thần này lại được mình tận mắt nhìn thấy. “Cũng đồng nghĩa với việc Khuê Mộc Lang mà ta từng nhìn thấy, bất kể là hình thái của sói hay hình thái của ngươi, đều là Khuê Mộc Lang đang khống chế thân thể của ngươi?”
“Đúng thế.” Lữ Thịnh gật đầu.
“Vậy còn ngươi?” Huyền Trang không nhịn được hỏi. “Lúc hắn chiếm thân thể của ngươi thì ngươi ở đâu?”
“Hồn phách chia lìa,” Lữ Thịnh nói. “Nhất định pháp sư cũng biết về thuyết hồn phách của Đạo gia. Người có ba hồn và bảy phách, trong số ba hồn, một tên là Thai Quang, một tên là Sảng Linh, một tên là U Tinh, chứa tinh khí thần của con người. Bảy phách phân biệt là Thi Cẩu, Phục Thỉ, Tước Âm, Thôn Tặc, Phi Độc, Trừ Uế và Xú Phế, nắm giữ thể xác của con người. Sau khi hồn phách của ta bị chia lìa, ý thức bị nén thành một điểm rất nhỏ, giấu ở một không gian hoàn toàn tối tăm; còn bảy phách thì bị Khuê Mộc Lang thao túng, giúp hắn điều khiển thân thể. Nguyên nhân kí ức của ta bị tàn phá chính là bởi vì hồn phách chia lìa, một số chuyện cũ trước kia vẫn nhớ rất rõ, nhưng chuyện trước và sau khi thân thể bị chiếm lại nhạt nhòa không rõ.”
Vẻ mặt Huyền Trang nghiêm túc, đánh giá Lữ Thịnh một hồi lâu, sau đó mới hỏi. “Như vậy lúc hắn khống chế thân thể, ngươi có thể cảm giác được ngoại giới không?”
“Bình thường là không.” Lữ Thịnh lắc đầu. “Trừ khi tinh thần của hắn hao tổn quá mức, rơi vào nhập định. Còn có một tình huống khác là hắn thường xuyên cần tu luyện, nguyên thần xuất khiếu bay đi thiên ngoại, lúc ấy ta có thể khống chế được thân thể, đêm nay chính là như vậy. Hiện giờ hắn đang nhập định, ta mới có thể khống chế được thân thể tới đây gặp pháp sư.”
Huyền Trang nhìn hắn, trong lòng đột nhiên thấy hơi buồn bã. “Nó chiếm thể xác của ngươi đến giờ đã được ba năm rồi chứ?”
“Đúng thế, khi đó hắn nói sau ba năm sẽ trở về thiên đình, trả lại tự do cho ta,” Lữ Thịnh cực kì cay đắng nói. “Bây giờ đã được ba năm, hắn lại lưu luyến sự phồn hoa của nhân gian, không muốn rời đi, thể xác này của ta đành phải vĩnh viễn không ngừng bị hắn sử dụng.”
Đúng lúc này thì Địch Văn bưng đồ ăn bước vào. Nàng mang tới hai bát canh bánh bột to, bột quả nhiên được cán cực kì mỏng, chan dầu vừng, rắc thêm hành thái, hương thơm nức mũi; ngoài ra còn có một lồng bánh Hồ dùng dầu để nhào bột, vừa thơm vừa giòn; bánh hấp mềm mại ngon miệng; ba loại rau là bầu, rau diếp và cải củ được nấu lên, cũng chan dầu vừng và tương, thơm giòn ngon miệng.
Huyền Trang đúng là rất đói, cùng Lữ Thịnh ăn lấy ăn để, ăn cực kỳ thoải mái. Địch Văn ngồi quỳ bên cạnh Lữ Thịnh hầu hạ, mang dáng vẻ của một nàng dâu hết sức ngoan ngoãn.
Nhìn Lữ Thịnh ăn cơm như một nông dân chân chất, không biết vì sao mắt Địch Văn lại hơi ướt át, lẩm bẩm nói, “Ta cùng Tứ Lang muốn gặp mặt một lần cũng không dễ dàng, bình thường chàng ấy rất hiếm khi xuất hiện. Lúc Tứ Lang không ở đây, ta liền nuôi gà, giã gạo, giặt quần áo, như chờ đợi một người chồng viễn chinh. Có lúc nhớ chàng ấy quá, ta lại nói mình bị đau thắt trong lòng, để Khuê Mộc Lang dùng nội đan trị liệu cho ta, tiêu hao tinh thần của hắn, như vậy Tứ Lang mới có cơ hội đi ra gặp ta.”
“Thực ra nương tử không bị đau tim sao?” Huyền Trang uống hết ngụm canh cuối cùng, đặt bát đũa xuống.
“Không,” Địch Văn nói.
“Ta có một vấn đề.” Lúc này Lữ Thịnh cũng đã ăn xong, Huyền Trang liền mở miệng hỏi. “Năm Vũ Đức thứ chín, Khuê Mộc Lang nhập hồn vào trên người ngươi, hắn cùng Địch nương tử không hề có quan hệ gì, vì sao lại bắt Địch nương tử đi?”
Lữ Thịnh và Địch Văn nhìn nhau một cái, cười khổ đáp. “Pháp sư, sau khi bị chiếm thân thể, rất nhiều kí ức của ta đều lẫn lộn không rõ. Chuyện trước kia ta còn có thể nhớ, nhưng nếu lấy thời điểm bị chiếm thân thể làm trung tâm thì những kí ức trước và sau đó giống như bị lau đi vậy. Chuyện này khi ấy ta đã nói với Văn Nhi, để nàng nói cho ngài nghe đi!”
Đương nhiên Huyền Trang có thể hiểu. Trên thực tế, sau khi bị đoạt mất sáu phách, Lữ Thịnh vẫn có thể duy trì được tư duy của người bình thường đã coi như là rất hiếm thấy rồi. Dựa theo cách giải thích của Đạo gia thì sau khi bị mất phách, người biến thành du hồn; sau khi bị mất hồn, người liền biến trở thành cương thi.
Địch Văn định thần lại, chậm rãi chìm vào trong ký ức. “Tứ Lang nói với ta, rằng hôm đó Lệnh Hồ Đức Mông đi vào trong lao, nói với chàng đêm nay là lúc Lệnh Hồ Chiêm cưới ta… À, Lệnh Hồ Đức Mông chính là anh cả của Lệnh Hồ Đức Mậu.”
Huyền Trang gật đầu, tỏ ý đã biết.
“Ông ta cố ý đến sỉ nhục Tứ Lang, bọn họ hãm hại Tứ Lang trở thành kẻ phản quốc, bức tử phụ thân của Tứ Lang, lại muốn cướp thê tử của Tứ Lang. Tứ Lang nói khi ấy trong đầu chàng chỉ có một suy nghĩ, đó là trả thù! Sau khi Lệnh Hồ Đức Mông đi, bọn họ sai giám ngục tới giết chàng. Lúc này Khuê Mộc Lang giáng lâm, muốn mượn thân thể của chàng, thể là chàng nói với Khuê Mộc Lang, nhờ hắn bắt ta đi, mang đến sự sỉ nhục lớn nhất cho Lệnh Hồ thị…”
Địch Văn càng nói, âm thanh càng trở nên nghẹn ngào. Xét đến cùng thì nàng là vật hi sinh lớn nhất trong sự thù hận của hai bên, bất kể bây giờ nàng có hạnh phúc hay không thì ít nhất nàng biết khi đó mình hạnh phúc, mà hết thảy những hạnh phúc ấy đều đột nhiên chấm dứt vào đêm hôm đó.
Lữ Thịnh đau lòng, an ủi nàng vài câu rồi kể tiếp. “Sau đó châu huyện phái người đuổi bắt, ta liền dẫn Văn Nhi đi trốn, trốn vào trong sa mạc. Khuê Mộc Lang vừa nhập hồn, kết hợp với thân thể ta còn chưa ổn định; thân thể ta bởi vậy mà khi thì hóa thành sói, khi thì hóa thành người; có lúc ta đánh mất ý thức nói nhảm, có lúc toàn thân đau đớn giống như bị xé ra thành hai nửa. Lúc ấy Văn Nhi là tù binh của ta, mặc dù nàng sợ nhưng hết sức thương ta, nhiều đêm chăm sóc ta, bấy giờ ta mới hối hận vô cùng. Văn Nhi là một cô nương rất lương thiện, vậy mà lại bị ta hủy hoại cả đời.”
Trên mặt Địch Văn lại nở nụ cười dịu dàng, nàng vươn tay ra muốn nắm lấy tay Lữ Thịnh, nhung vừa đưa được một nửa thì rụt tay về.
“Hai chúng ta đến Ngọc Môn Quan, khi đó đang bị một đám thổ phỉ chiếm cứ. Khuê Mộc Lang liền thi triển phép thần thông, thu phục đám thổ phỉ đó, bắt đầu an cư tại Ngọc Môn Quan.” Lữ Thịnh nhìn Địch Văn đầy tình cảm. “Lúc này ta đã dần dần yếu bớt, sắp bị Khuê Mộc Lang điều khiển hoàn toàn. Ta nghĩ, Văn Nhi kỳ thực là thê tử của ta, hai người chúng ta có mai mối, được cha mẹ hai bên đồng ý, sau đó ta bị người hãm hại, liên lụy nàng bị ép phải gả cho Lệnh Hồ Chiêm. Ta dựa vào cái gì mà trút oán hận lên nàng, bắt nàng đi, mang đến cho nàng một vận mệnh còn bi thảm hơn?”
“Không, Tứ Lang!” Địch Văn dịu dàng nói. “Bất kể là cưới hỏi đàng hoàng hai là chàng bắt cóc thiếp đi, kiếp này thiếp luôn là vợ của chàng. Ba năm nay ở bên chàng là khoảng thời gian vui vẻ nhất của thiếp trong kiếp này. Cho dù trong những ngày chàng không thể xuất hiện, thiếp ở bên cạnh Khuê Mộc Lang đó cũng như đang ở bên cạnh chàng vậy.”
Địch Văn lấy xuống dải lụa trắng thêu uyên ương từ trên bình phong, đưa một đầu cho Lữ Thịnh.
Ngón tay Lữ Thịnh nhẹ nhàng lướt trên lụa trắng trơn nhẵn, tới lúc sắp chạm vào ngón tay của Địch Văn thì mới dừng lại. Hai người cầm dải lụa trắng tựa như đang nắm lấy tay nhau, đều tràn ngập hạnh phúc.
Huyền Trang không khỏi cảm thấy xót xa.
“Sau đó ta dần dần không chống đỡ được nữa, ý thức chậm rãi chìm vào trong hư vô, thân thể sắp hoàn toàn bị Khuê Mộc Lang cướp mất. Ta liền khẩn cầu Khuê Mộc Lang chăm sóc cho Địch Văn, đưa nàng trở về Đôn Hoàng,” Lữ Thịnh nói. “Nhưng rất kỳ quái, cũng không biết là bị ảnh hưởng bởi ta hay quả thật có chuyện đó, Khuê Mộc Lang lại nói rằng hắn hạ phàm là vì muốn đi tìm một người phụ nữ. Người phụ nữ ấy là thị nữ ở điện Phi Hương trên thiên đình. Năm xưa bọn họ gặp nhau trong một vũ hội tại điện Phi Hương, thiên đình cô đơn lạnh lẽo, hai người lén lút yêu nhau nhưng không dám làm ô uế thắng cảnh nơi thiên đình, bởi vậy đã hẹn ước hạ phàm để có thể bên nhau, làm vợ chồng một đời một kiếp ở dưới nhân gian. Thị nữ của điện Phi Hương hạ phàm trước, sau đó Khuê Mộc Lang xuống hạ giới đi tìm nàng. Theo hắn nói thì thị nữ điện Phi Hương dùng phương pháp luân hồi đầu thai để hạ phàm, bị lục đạo luân hồi che giấu thiên cơ nên hắn rất khó cảm giác được linh thể ấy, vì vậy dù đã đi tìm suốt nhiều năm dưới nhân gian nhưng vẫn không tìm được.”
Địch Văn khinh thường nói, “Thiếp căn bản không phải thị nữ điện Phi Hương gì cả. Khuê Mộc Lang kia dung hợp với thân thể chàng, có lẽ cũng chịu ảnh hưởng của chàng nên mới sinh ra ảo giác đối với thiếp như vậy, tưởng nhầm thiếp là thị nữ ấy.”
“Nhưng hắn vẫn tin chắc như thế,” Lữ Thịnh đắng chát nói. “Pháp sư, quan hệ giữa ba người chúng ta chính là hoang đường như vậy đấy.”
Huyền Trang nghe mà trợn tròn cả mắt suốt một hồi lâu, quan hệ tình ái rắc rối phức tạp loại này thật sự là không thể tưởng tượng nổi. Trong cùng một thể xác lại có hai linh hồn, hai linh hồn lại đều thích một người phụ nữ…
“Khi ấy hồn phách của ta đã từ từ chia lìa, dần dần không ảnh hưởng được Khuê Mộc Lang nữa, nhưng Khuê Mộc Lang đã có ý đồ xấu xa này, ta phải tìm mọi cách để bảo vệ Văn Nhi không bị hắn làm hại.” Lữ Thịnh tiếp tục kể. “Đúng lúc đó có một thương nhân người Hồ tới từ Tây Vực đi qua Ngọc Môn Quan, chào hàng bảo vật với Khuê Mộc Lang, trong đó có một món bảo vật gọi là thiên y…”
“Có phải thương nhân người Hồ kia tên là Mễ Lai Hanh?” Huyền Trang hỏi.
“Hắn tên là gì?” Lữ Thịnh quay sang hỏi Địch Văn, trên mặt lộ vẻ áy náy. “Thực ra những chuyện này ta đã không có ấn tượng nữa, đều là Văn Nhi đích thân trải qua, sau đó kể lại cho ta nghe.”
“Hắn tên là Mễ Lai Hanh.” Địch Văn nói nhỏ.
“À, không sai,” Lữ Thịnh gật đầu nói. “Bản thân Khuê Mộc Lang chính là thiên thần, từng đi qua tầng trời Đao Lợi, cái gọi là thiên y đối với hắn mà nói không hề được coi là thứ gì quý giá, hắn cũng không có mấy hứng thú. Ta nghe Mễ Lai Hanh nói mặc thiên y vào, trăm kiếp không sinh, tai họa tự tiêu, không vào trầm luân, không đọa địa ngục, không gặp tai nạn ác độc, không gặp tai ương hổ sói. Ta liền động tâm tư, thừa dịp Khuê Mộc Lang đi vào cõi thần tiên thiên ngoại, đoạt quyền khống chế thân thể, giả mạo Khuê Mộc Lang, dẫn tinh tướng của hắn bám theo Mễ Lai Hanh, đến tận sa mạc Bạch Long Đôi mới đuổi kịp hắn. Ta vốn muốn mua thiên y của hắn, nhưng hắn giở công phu sư tử ngoạm, đòi giá trên trời. Thế là ta giận dữ giết người đoạt thiên y, lại bị Mễ Lai Hanh trước khi chết lén xé mất một đoạn. Khi đó ta không hề biết, sau khi mang về liền mặc vào cho Văn Nhi, không nghĩ tới thiên y này không có tác dụng gì khác, lại không thể đụng chạm vào, chỉ cần vừa chạm liền sẽ bị đâm đau đớn khó nhịn. Sau khi Khuê Mộc Lang trở về thì nổi giận lôi đình, hắn nói với ta, thiên y vốn là loại áo phép thuật, muốn gì được nấy, nhưng sau khi tổn hại sẽ không thể dùng tâm ý để khống chế thiên y nữa. Mặc dù thấy tiếc nuối nhưng đối với ta mà nói, Văn Nhi không thể bị đụng chạm vào, vừa hay có thể tránh khỏi bị Khuê Mộc Lang làm bẩn. Chỉ có điều mặc thiên y này vào có nhiều bất tiện, có lúc còn khiến bản thân phải chịu tổn thương, mấy năm nay Văn Nhi rất khổ.”
“Thì ra là thế!” Lúc này Huyền Trang mới hiểu rõ ngọn nguồn của thiên y.
“Tứ Lang, thiếp là vợ của chàng. Một người phụ nữ có thể thủ tiết cho lang quân mình yêu mến, chàng không biết đây là một việc hạnh phúc cỡ nào đâu.” Địch Văn mỉm cười. “Mặc dù mấy năm nay hai người chúng ta cũng không có cách nào chạm vào nhau, nhưng có thể ở bên cạnh chàng, thiếp đã hết sức mãn nguyện rồi. Hơn nữa…” Ngón tay Địch Văn nhẹ nhàng vuốt ve dải lụa trắng. “Chúng ta cùng nắm dải lụa uyên ương này, trơn nhẵn, mịn màng và ấm áp, có khác gì được cầm tay nhau đâu.”
Lúc này Huyền Trang mới hiểu, không ngờ dải lụa ấy lại là sợi dây gắn bó để hai người có thể tiếp xúc được với nhau. Ngài thoáng nhìn bình phong tám tấm, bức tranh thành Trường An trên đó đương nhiên cũng là Lữ Thịnh vẽ. Còn ngôi nhà nhỏ ấm áp này tự nhiên cũng là hai người bí mật dọn dẹp nhân lúc Lữ Thịnh đoạt lại được thân thể, chỉ để được ở bên nhau chốc lát, được vuốt ve an ủi một phút một giây trong hoàn cảnh hiểm ác hiện giờ.
“Cho nên…” Huyền Trang nói. “Khuê Mộc Lang nhất định phải giết ta để luyện ra thiên y!”
Huyền Trang nhớ lại Khuê Mộc Lang không e ngại bị thiên y đâm đau đớn để chữa thương cho Địch Văn, trên nét mặt tràn đầy yêu thương, liền biết Khuê Mộc Lang cũng hết sức yêu thương Địch Văn. Từ lần cướp thiên y ở hang Mạc Cao cho tới bây giờ, vì chiếc thiên y này, Khuê Mộc Lang đã tắm máu chùa Thánh Giáo, huyết chiến Thanh Đôn Thú, xem ra hắn nhất định sẽ giết mình để luyện ra thiên y, giải trừ lời nguyền của thiên y trên người Địch Văn.
Lữ Thịnh và Địch Văn nhìn nhau một cái, đều cảm thấy hết sức lo lắng.
“Pháp sư, ngài nhất định phải chạy trốn!” Địch Văn nói.
Huyền Trang cười khổ, đang ở Ngọc Môn Quan, muốn chạy trốn từ trong tay Khuê Mộc Lang không phải là một chuyện dễ dàng.
“Chúng ta phải vạch kế hoạch chu đáo mới được, nhất định có thể giúp pháp sư thoát khỏi ma trảo của Khuê Mộc Lang…”
Lữ Thịnh đang nói thì đột nhiên sắc mặt biến đổi, lập tức đứng phắt dây.
“Làm sao thể?” Địch Văn hỏi.
“Hắn… hắn sắp đi ra rồi!” Lữ Thịnh kéo tay áo lên, trên cánh tay bỗng nhiên mọc lên lông sói màu bạc, sắc mặt hắn đại biến. “Không thể để hắn phát hiện nơi này!”
Lữ Thịnh không kịp nói rõ ràng, đứng dậy chạy thẳng ra bên ngoài, vừa mới chạy được vài bước thì lông bạc trên người đã mọc lên càng lúc càng nhiều. Lúc này Huyền Trang mới hiểu, Khuê Mộc Lang sắp tỉnh lại rồi.
Hai người cũng chạy theo Lữ Thịnh ra ngoài, hiện giờ đang là đêm khuya thanh vắng, những người uống rượu trong thành sớm đã trở về nhà nghỉ ngơi, xung quanh yên tĩnh không một bóng người.
“Pháp sư, giúp ta!” Lữ Thịnh đang chạy quay lại nói. “Giúp ta đoạt lại kí ức của những năm đó! Ta muốn biết năm ấy ở Đôn Hoàng rốt cuộc đã xảy ra những chuyện gì!”
Lữ Thịnh vừa nói vừa cấp tốc chạy đi, thân thể bắt đầu từ từ biến dạng.
“Pháp sư, chúng ta không thể đi được.” Địch Văn gọi Huyền Trang dừng lại. “Ngôi nhà này hai người chúng ta đã bảo vệ ba năm, là niệm tưởng duy nhất giữa ta và Tứ Lang, quyết không thể để cho Khuê Mộc Lang tìm thấy!”
Huyền Trang dừng chân. Đột nhiên bên tường có tiếng sột soạt. Huyền Trang đi tới nhìn qua lỗ thủng trên tường, thấy bên trong là một đống củi, không hề có người nào khác.
Địch Văn lại không lo bị người khác nhìn thấy. Nàng cùng Lữ Thịnh dựng tổ ấm ở chỗ này tất nhiên không thể giấu được các bách tính trong Ngọc Môn Quan, có điều quan hệ giữa Lữ Thịnh và Khuê Mộc Lang cực kì phức tạp và kỳ quái, người khác sao có thể làm rõ được. Vì vậy ai cũng sẽ không nói lung tung, mà cũng không dám nói.
Địch Văn chạy về trong nhà, đưa cho ngài một chiếc bát, trong bát đựng sữa cừu, dùng ngón tay chấm một chút lên trên người Huyền Trang. Trong suốt quá trình ấy tốc độ của nàng cực nhanh, vẻ mặt cũng cực kì tỉnh táo. “Pháp sư, ngài tới chỗ giếng nước bên kia súc miệng, rửa mặt và rửa sạch hai tay. Ta đi thay y phục, sau đó sẽ tới tìm ngài.”
Huyền Trang cũng không biết để làm gì, chỉ gật đầu một cái rồi bước nhanh rời đi.
Huyền Trang lại không nhìn thấy ở bên kia đống củi là Ngư Tảo đang ngồi dưới đất, hoành đao đặt bên cạnh. Nàng vô cùng đau khổ, ra sức che mặt kìm nén tiếng khóc, nước mắt cuồn cuộn rơi xuống không ngừng.