← Quay lại trang sách

Chương 15 Khoa Chú cấm Đại Đường

Ngoài cổng bắc thành Đôn Hoàng là chợ cừu ngựa. Lượng giao dịch cừu ngựa ở thành Đôn Hoàng rất lớn, hai chợ đông tây trong thành rất chật hẹp, thế là các thương nhân liền tiến hành giao dịch dê ngựa ở ngoài cổng tây và cổng đông, dần dà liền thành chợ. Thị lệnh mặc dù vẫn thu thuế nhưng không hề xây phường gì, các loại công trình xây dựng hỗn loạn lung tung, khắp nơi đều dơ bẩn, cừu ngựa thành đàn, dòng người nhộn nhịp, ở đâu cũng nghe thấy tiếng hí của la ngựa và tiếng ồn ào của các thương nhân.

Huyền Trang đi bước thấp bước cao, nhìn đông nhìn tây trong nơi chợ búa ồn ào huyên náo, tìm một hồi lâu mới trông thấy Lý Thuần Phong trong một đàn lạc đà. Lý Thuần Phong đang cạy miệng một con lạc đà ra, quan sát răng miệng lạc đà dưới sự giới thiệu của người môi giới.

“Lý Tiến sĩ đúng là hăng hái.” Huyền Trang cười chào hỏi.

Lý Thuần Phong vừa quay đầu lại, lập tức kinh ngạc. “Đây không phải pháp sư Huyền Trang sao? Xin chờ một lát…”

Lý Thuần Phong vội vàng đến chỗ thùng nước bên cạnh rửa tay, sau đó mới chào đáp lễ Huyền Trang.

“Pháp sư đến đây là để tìm tại hạ?” Lý Thuần Phong hỏi.

“Đúng vậy!” Huyền Trang cười nói. “Bần tăng đến phủ Âm thị hỏi thăm mới biết Lý Tiến sĩ mỗi ngày đều sẽ đến chợ cừu ngựa đi dạo.”

Lý Thuần Phong hơi lúng túng. “Không giấu pháp sư, tại hạ vẫn có một sở thích nhỏ, chính là thích súc vật, nào là ngựa, lạc đà, cừu, chó, vân vân, lúc ở Trường An cũng thường xuyên đến chợ đi dạo.”

“Đạo súc sinh cũng là một trong lục đạo, trong ấy tự có đại đạo giữa đất trời,” Huyền Trang cười nói.

“Tại hạ tin là đạo thuật,” Lý Thuần Phong nói.

“Đại đạo như một,” Huyền Trang nói.

Lý Thuần Phong cười to, bế con cừu non mình vừa mua lên, hai người cười nói đi ra khỏi chợ cừu ngựa, dạo bước mà đi.

“Pháp sư đến tìm ta không biết có chuyện gì?” Lý Thuần Phong vuốt ve cừu non, hỏi.

“Bần tăng muốn thỉnh giáo Lý Tiến sĩ một chút,” Huyền Trang nói. “Lúc ở Thanh Đôn Thú, Lý Tiến sĩ cũng từng tận mắt nhìn thấy Khuê Mộc Lang chuyển đổi giữa hình người và hình sói, khi thì là Khuê Mộc Lang, khi thì là Lữ Thịnh. Lý Tiến sĩ có đoán được nguyên do trong ấy không?”

Lý Thuần Phong nhìn ngài một lát, rồi đột nhiên cười. “Pháp sư từ Ngọc Môn Quan bình an trở về, chắc hẳn sớm đã thấy rõ chân tướng rồi, nếu như ta lừa gạt, tự nhiên không thể giấu được tuệ nhãn của pháp sư. Không sai, hôm đó từ Thanh Đôn Thú về, ta đã nói chuyện với đám người Lệnh Hồ Đức Mậu và Âm Thể Hùng, bọn họ đã nói với ta chân tướng từ đầu chí cuối. Lữ Thịnh kia bây giờ đang bị Khuê Mộc Lang chiếm cứ thân thể.”

“Thì ra bọn họ đã sớm biết.” Huyền Trang gật đầu vỡ lẽ. Có điều nghĩ lại cũng không kỳ quái, Lệnh Hồ thị đã phái Triệu Phú lẻn vào Ngọc Môn Quan, cho dù Triệu Phú âm thầm phản bội, nhưng chẳng lẽ một chút tin tức cũng không biết sao?

“Vậy Lý Tiến sĩ cho rằng Lữ Thịnh bây giờ là còn sống hay đã chết?” Huyền Trang hỏi.

Lý Thuần Phong khó xử đáp. “Cái này… Ta chưa bao giờ gặp chuyện quái dị như thế, làm sao mà phán đoán được?”

“Như vậy dựa theo đạo thuật mà nói, một người bị thần linh hoặc yêu nghiệt chiếm cứ thân thể, là còn sống hay đã chết?” Huyền Trang không hề dự định bỏ qua, tiếp tục vặn hỏi.

Lý Thuần Phong suy nghĩ một hồi lâu, vẫn không trả lời. “Pháp sư vất vả tìm tới nơi này, tất nhiên có thể dạy ta!”

Huyền Trang thở dài một hơi, kể lại từ đầu chí cuối chuyện Lữ Thịnh và Khuê Mộc Lang hai hồn một thể, kết luận cuối cùng là. “Hắn còn sống!”

Lý Thuần Phong kinh hãi biến sắc. “Việc này ta quả thật chưa bao giờ nghe!”

“Đúng vậy, bần tăng cũng là lần đầu tiên nghe nói.” Huyền Trang cười khổ. “Có lẽ chuyện thần linh hạ phàm vốn đã hiếm thấy rồi!”

Lý Thuần Phong hỏi. “Pháp sư đến tìm ta, chắc là có chuyện gì cần tại hạ đi làm?”

Huyền Trang chắp tay, lần này hai tay không chạm vào nhau. “Bần tăng đến mời Lý Tiến sĩ ra tay, phá giải hồn phách chia lìa của Lữ Thịnh, làm cho hồn phách của hắn quy nhất!”

Lý Thuần Phong ngẩn ra. “Đây… Đây chính là nói, phải xua đuổi linh thể của thần linh ra hả?”

“Đúng vậy!” Huyền Trang nói. “Thủ đoạn này giống với đạo thuật hơn. Bần tăng tu hành nhiều năm, chỉ đọc một chút kinh Phật, đối với dòng phép thuật không hề tinh thông, đành phải thỉnh giáo Lý Tiến sĩ.”

“Đây là muốn khai chiến với thần linh sao?” Lý Thuần Phong lẩm bẩm nói. “Tại hạ chỉ phụng ý chỉ của Âm phi đến trừ tai họa cho Âm lão phu nhân, nhưng chưa bao giờ từng nghĩ đến chuyện tiêu diệt thần linh…”

“Thật sự chưa từng nghĩ sao?” Huyền Trang mỉm cười nói. “Hôm đó ngươi nhận lời mời của Âm Thế Hùng, đến Thanh Đôn Thú hàng phục Khuê Mộc Lang mà.”

“Đó chỉ là tò mò!” Lý Thuần Phong kêu oan. “Ta căn bản không biết Khuê Mộc Lang lợi hại thế nào, nghe nói đến chuyện kỳ dị tới vậy, muốn được mở mang kiến thức thôi. Kết quả… pháp sư cũng đã nhìn thấy rồi đấy, thua tan tác, suýt nữa thì đã chết ở đó.”

“Lý Tiến sĩ vẫn không hoàn toàn nói thật!” Huyền Trang không ngừng lắc đầu. “Ngươi thật sự chỉ là đến trừ tai họa thôi sao? Âm Thế Hùng và Lệnh Hồ Đức Mậu chưa hề tới Trường An, không hiểu quy củ của khoa Chú cấm. Năm ấy bần tăng đã cùng Thái sử lệnh Phó Dịch trực tiếp biện luận, sư phụ của bần tăng là pháp sư Đạo Nhạc cũng có quan hệ sâu xa với sư phụ của ngươi là Viên Thiên Cương. Tiến sĩ khoa Chú cấm không chỉ trấn tai họa, cũng chưa bao giờ rời khỏi hoàng thành, nay lại đến một châu biên giới hẻo lánh như thế này?”

Lý Thuần Phong lặng lẽ nhìn ngài, đột nhiên than thở. “Không trách được Thái sử lệnh vừa kiêng kị lại vừa tôn sùng pháp sư như thế, quả nhiên là muốn lừa gạt pháp sư thật không dễ dàng!”

“Không phải Lý Tiến sĩ phụng ý chỉ của Hoàng phi, mà là hoàng mệnh, đúng chứ?” Huyền Trang hỏi.

“Đúng,” Lý Thuần Phong thành thật nói. “Là Bệ hạ khâm mệnh ta đến Đôn Hoàng.”

“Cụ thể là chuyện gì, có thể cho bần tăng được biết hay không?” Huyền Trang hỏi.

Ánh mắt Lý Thuần Phong nhìn Huyền Trang hơi ai oán. “Đã đến nước này rồi, ta không nói chẳng lẽ ngài còn không biết hay sao? Không giấu pháp sư, từ năm Vũ Đức thứ chín, sư phụ ta cùng Thái sử lệnh tính toán thiên tượng, phát hiện tây phương Bạch Hổ ảm đạm, thiên tượng rối loạn, Tuế Tinh phạm vào Tử Vi. Có điều khi ấy vừa xảy ra binh biến Huyền Vũ Môn, tân hoàng lên ngôi, họ sợ ứng vào chuyện này, vì vậy không dám lộ ra.”

Huyền Trang giật mình, Thái sử lệnh Phó Dịch là đối thủ cũ của Phật môn, Huyền Trang đương nhiên cực kì hiểu rõ ông ta. Phó Dịch là nhà chiêm tinh số một của Tiền Tùy và Đại Đường, từ thời Vũ Đức đã làm Thái sử lệnh, quản lí Thái sử cục. “Quan sát thiên văn, kê định lịch số, phàm nhật nguyệt tinh thần biến hóa, khí sắc phong vân đổi dời, dẫn thuộc hạ bói toán mà xem thiên mệnh”.

Tuế Tinh chính là sao Mộc, trong thiên tượng và lịch số là một ngôi sao cực kì quan trọng, từ thời thượng cổ đến tận thời Chiến quốc vẫn lấy Tuế Tinh để ghi năm. Cổ nhân cho rằng Tuế Tinh quay một vòng quanh mặt trời là mười hai năm, căn cứ vào quỹ tích di chuyển của Tuế Tinh để chia chu thiên thành mười hai phần, cũng bởi vậy mà có mười hai địa chi và mười hai canh giờ.

Trên chu thiên, Tuế Tinh vận hành từ phía tây về phía đông, quỹ tích vận hành này được gọi là hoàng đạo. Sau khi chia chu thiên thành mười hai phần, các sao trong đó trở thành mười hai chòm sao, Tuế Tinh vận hành mênh mông cuồn cuộn, mãi mãi không thay đổi, cứ cách một thời gian liền sẽ đi qua một chòm sao.

Thuật chiêm tinh cho rằng Tuế Tinh cứ đi qua một chòm sao liền sẽ bởi vì thiên nhân giao cảm mà dẫn phát đến nhân gian rối ren. Rối ren ấy có thể rất nhỏ, có thể cực lớn, có thể làm Hoàng đế chết, có thể khiến nước lớn phá, có thể làm chư hầu loạn lạc, có thể khiến cho thiên hạ hạn hán.

Còn phạm vào Tử Vi, đó càng là tinh tượng hung ác, bởi vì Tử Vi chính là nơi mà Thiên Đế ở!

“Rốt cuộc là chuyện gì?” Huyền Trang thấp giọng hỏi.

“Pháp sư hiểu thiên tượng chứ?” Lý Thuần Phong hỏi lại.

“Hiểu một chút,” Huyền Trang nói.

Lý Thuần Phong không ngừng lắc đầu, hắn sớm đã nghe nói về tăng nhân này, phát hiện không có gì mà ngài không hiểu, cái gọi là hiểu một chút sợ rằng chỉ là hơi kém hơn so với Phật học thôi.

“Tây phương Bạch Hổ có bảy chòm sao, gồm Khuê, Lâu, Vị, Mão, Tất, Tuy, Sâm, trấn thủ ở phía tây Tử Vi. Bảy chòm sao đều có chức trách, vận chuyển xoay quanh Tử Vi. Nhưng từ khi năm Vũ Đức thứ chín bắt đầu, chòm sao Khuê ảm đạm, tinh vực cũng mờ nhạt.” Lý Thuần Phong chỉ chỉ lên trời.

Huyền Trang không tự chủ được ngẩng đầu lên nhìn, lúc này là ban ngày, trời quang vạn dặm, mặt trời giữa không trung, đương nhiên không nhìn ra được cái gì.

Huyền Trang cau mày. “Ý của Lý Tiến sĩ là… có liên quan đến chuyện Khuê Mộc Lang hạ phàm?”

“Chuyện Khuê Mộc Lang chưa hề truyền tới Trường An, đây là sư phụ ta cùng Phó Dịch chiêm tinh phát hiện,” Lý Thuần Phong nói. “Ta hỏi ngài, cái gì gọi là Khuê?”

“Khuê…” Huyền Trang suy nghĩ một lát. “Trong ‘Thuyết văn’ của Hứa Thận nói: ‘Khuê, lưỡng bễ chi gian’, chính là nằm giữa hai bắp đùi, ví von rằng nó rất nhỏ hẹp. Trong ‘Trang Tử’ nói: Tây phương mười sáu sao, giống hai đùi, nên gọi là Khuê.”

“Pháp sư quả nhiên thông tuệ!” Lý Thuần Phong khen từ đáy lòng. “Sư phụ ta từ thời Tiền Tùy nhận được một tập thơ chiêm tinh thiên tượng bí truyền tên là ‘Bộ thiên ca’, trên ấy dùng thơ ghi lại các sao chu thiên, trong đó có bài thơ nói đến sao Khuê gồm mười hai câu.”

Nói đoạn, Lý Thuần Phong đọc:

“Eo thon đầu nhọn như giầy rách.

Mười sáu ngôi sao bám quanh giầy.

Dưới Khuê bảy sao ngang một dãy.

Dưới nữa chính là Thiên Hỗn tinh

Tư Không bên trái Thổ Chi Tinh

Trên Khuê ấy là Quân Nam Môn.

Giữa sông là sáu sao Các Đạo

Bên đường một sao Phụ Lộ sinh.

Năm sao Vương Lương như hoa nở

Bên trên Vương Lương ấy Sách Danh.

Thiên Sách, Thiên Hỗn lẫn Ngoại Bình

Mười lăm ngôi sao lại bất minh.”

Huyền Trang đột nhiên kinh hãi, nhớ lại câu chuyện trên trời mà Khuê Mộc Lang kể khi ở Ngọc Môn Quan, không nhịn được hỏi. “Ngoại Bình, Thiên Hỗn, Tư Không, Thổ Chi Tinh, Quân Nam Môn, Các Đạo, Phụ Lộ, Vương Lương và Thiên Sách đều là tên của sao?”

“Đúng vậy.” Lý Thuần Phong kinh ngạc nhìn ngài. “Pháp sư quả nhiên tinh thông chiêm tinh.”

“Chỉ là đã từng nghe Khuê Mộc Lang kể mà thôi.” Huyền Trang cười gượng.

Huyền Trang kể lại cho Lý Thuần Phong nghe chuyện Khuê Mộc Lang kể tại Ngọc Môn Quan vào đêm hôm đó.

“Quả nhiên như thế!” vẻ mặt Lý Thuần Phong nghiêm túc. “Pháp sư, ngài biết sư phụ ta và Thái sử lệnh lúc chiêm tinh đã phát hiện ra chuyện gì không? Ba năm nay, sau khi Tuế Tinh đi vào Khuê Tú, bởi vì sao Khuê ảm đạm mà dẫn phát nhiều dấu hiệu đại hung! Tuế Tinh lần lượt phạm vào Thổ Tư Không, Thiên Thương, Thiên Khuân, Thiên Bình, Vương Lương, Các Đạo và Phụ Lộ.”

Lý Thuần Phong bổ sung:

“‘Thạch thị tinh kỉnh’ viết: ‘Tuế Tinh vào Thiên Khuân, thiên hạ binh khởi, vật cất chứa trong kho lẫm đều mang ra dùng’.

‘Cam thị tinh kinh’ viết: ‘Tuế Tinh vào Thủ Thiên Bình, chư hầu có mưu, đại thần có chết’.

‘Kinh châu chiêm’ viết: ‘Tuế Tinh vào thủ Thổ Tư Không, có việc đào đắp cần lao dịch’.

‘Hải trung chiêm’ viết: ‘Tuế Tinh thủ Thố Tư Không, quốc lấy đất khởi binh, nêu có chuyện thổ công, thiên hạ hạn’.

‘Hoàng Đế chiêm’ viết: Tuế Tinh vào trong Thiên Thương, mất tiền mất của, lo âu ưu sầu; trong có loạn thần, thiên hạ có binh, mà cửa kho hàng đều mở; chủ nhân thắng khách, khách sự không thành, trong hai mươi ngày mà phát’.

‘Thạch thị tinh kinh’ viết: ‘Tuế Tinh thủ Phụ Lộ, đại bộc là tội, có tội chết, ngựa chết nhiều, không có người cưỡi ngựa’.

‘Thạch thị tinh kinh’ viết: ‘Tuế Tinh phạm Các Đạo, triều khác lên nắm giữ Cửu Châu, mỗi nơi một vương, thiên hạ có binh, kỳ hai năm’.

‘Tê bá ngũ tinh chiêm’ viết: ‘Tuế Tinh phạm thủ Vương Lương, thiên hạ có binh, chư hầu buông, cường thần mưu chủ, kỳ không quá năm’.

Nghiêm trọng hơn là Tuế Tinh thậm chí còn dọc theo Phụ Lộ xâm phạm Tử Vi Viên.

‘Hải trung chiêm’ viết: ‘Tuế Tinh vào Trường Viên, Thiên tử lấy binh tự vệ; cường thân lăng chủ, phản thần phải giết, nếu như giết chết, kỳ không quá tám mươi một trăm ngày. ‘Huyền minh chiêm’viết Tuế Tinh vào Tử Vi Cung, gian thần có mưu, binh khởi trong cung, thiên hạ loạn, người người lo, kỳ hai năm. Vu Hàm viết: ‘Tuế Tinh thủ Tử Vi Cung, dân chớ ở trong nhà, phải lưu lạc tha hương’.” Sắc mặt Lý Thuần Phong càng lúc càng nghiêm nghị.

Huyền Trang nghe mà trợn mắt há mồm, không ngờ sao Khuê hạ giới lại dẫn tới rối ren và bất an như thế.

Có điều nghĩ lại cũng phải, sao Khuê trấn thủ phía tây thiên giới, kinh sợ tai họa, một khi khuyết vị trí dẫn tới Tuế Tinh xâm nhập vào trong hoàng đạo, tự nhiên sẽ liên tiếp dẫn phát phản ứng. Mà căn cứ theo lý luận thiên nhân cảm ứng, tất nhiên sẽ dẫn tới sóng to gió lớn ở nhân gian.

Chẳng hạn như thiên tượng nổi tiếng nhất, Huỳnh Hoặc thủ Tâm.

Huỳnh Hoặc chính là sao Hỏa theo cách gọi của đời sau, do sao Hỏa lấp lánh như lửa, hành tung khó có thể đoán được nên được gọi là Huỳnh Hoặc. Tâm ở đây nghĩa là Tâm Tú trong Nhị thập bát tú. Huỳnh Hoặc thủ Tâm chính là thiên tượng Huỳnh Hoặc xâm nhập Tâm Tú, xưa nay là dấu hiệu đại hung, trong sách sử ghi lại hai mươi ba lần, mỗi một lần gần như đều sẽ dẫn tới trong ngoài triều rối ren.

Lần nổi tiếng nhất chính là năm Tần Thủy Hoàng thứ ba mươi sáu. “Có sao rơi xuống Đông Quận, xuống đất hóa đá, bá tánh có người khắc lên đá viết ‘Thủy Hoàng đế chết mà chia đất.”

Tổ tiên của Địch thị Đôn Hoàng, Thừa tướng Địch Phương Tiến thời Hán Thành Đế chính là vì loại thiên tượng này mà chết.

Năm Tuy Hòa Tây Hán thứ hai, một nhà chiêm tinh là Lý Tâm có thù hận với Địch Phương Tiến, mượn chuyện Huỳnh Hoặc thủ Tâm thượng tấu Hán Thành Đế, nói Huỳnh Hoặc thủ Tâm, nước gặp vận hạn, Hoàng đế có thể miễn trách nhiệm, nhưng Tể phụ đại thần sao lại tiếc thân? Để thoát tội, Hán Thành Đế vấn tội Địch Phương Tiến, ban cho rượu mười thạch, trâu một con.

Ở đời Hán, Hoàng đế ban trâu rượu đại diện cho một loại ý đồ chính trị, cần đại thần nghiền ngẫm. Ý tứ này rất rõ ràng, thế là Địch Phương Tiến tự sát.

“Sau khi Thái sử cục thượng tấu lên Hoàng đế, Bệ hạ cũng hết sức lo lắng, lệnh sư phụ ta cùng Thái sử lệnh điều tra nguyên nhân, đáng tiếc vẫn không tìm được nguyên nhân ba năm nay quỹ tích vận hành của Tuế Tinh khác thường, lại không biết do thứ gì gây ra. Đến tận sau đó khách buôn Hà Tây đến kinh thành, kể chuyện Đôn Hoàng xuất hiện một thần linh, danh hiệu Khuê Mộc Lang. Mặc dù sao Khuê cùng gỗ và sói có liên hệ gì, đến nay vẫn chưa rõ, nhưng đã có manh mối, Bệ hạ liền lệnh ta đến âm thầm điều tra một phen,” Lý Thuần Phong nói. “Vừa nãy nghe pháp sư nói, cuối cùng ta cũng xác nhận được vị Khuê Mộc Lang này chính là sao Khuê khuyết vị trên trời!”

“Như vậy trở lại vấn đề vừa rồi của chúng ta,” Huyền Trang cười nói. “Cho dù bần tăng không thỉnh cầu ngươi, ngươi cũng sẽ tìm mọi cách để đuổi Khuê Mộc Lang chạy trở về thiên đinh đúng không?”

Lý Thuần Phong ngây người. “Ơ… pháp sư, ngài vòng một vòng lớn, cuối cùng đã lừa ta vào tròng rồi!”

Huyền Trang cười to, Lý Thuần Phong bế con cừu non hơi mệt, liền đặt con cừu non xuống đất, con cừu non đó lập tức kêu be be chạy về phía bờ sông.

Lý Thuần Phong muốn đuổi theo, Huyền Trang đưa tay giữ hắn lại. “Lý Tiến sĩ, chúng ta đã coi như lập ước hẹn chưa?”

“Ôi chao!” Lý Thuần Phong bị đau kêu lên một tiếng, lúc này Huyền Trang mới tỉnh ngộ, nhận ra mình đang dùng tay trái kéo hắn, vội vàng buông tay.

“Tay trái của ngài… chính là thiên y?” Lý Thuần Phong xoa cánh tay, sắc mặt tái nhợt hỏi.

“Tin tưởng ta, thiên y và Khuê Mộc Lang dính dáng đến một bí mật cực lớn, nhất định có thể giúp ngươi mang về một đáp án khiến cho Hoàng đế cảm thấy hài lòng,” Huyền Trang cười nói.

“Pháp sư!” Lý Thuần Phong không hiểu. “Vì sao ngài xác định tại hạ có thể loại trừ được linh thể của Khuê Mộc Lang, làm cho hồn phách Lữ Thịnh quy nhất?”

Huyền Trang trầm ngâm một lát. “Lý Tiến sĩ đã là Tiến sĩ khoa Chú cấm, tu hai mươi hai thiên cấm kinh của Tôn Tư Mạc, nhất định hiểu Châm thập tam quỷ huyệt ca đúng không?”

“Cái đó mà ngài cũng biết?” Lý Thuần Phong quả thực không biết nói gì với tăng nhân này nữa.

Thì ra “Châm thập tam quỷ huyệt ca” ấy còn được gọi là quỷ huyệt thập tam châm, là bí mật bất truyền của thầy thuốc thời cổ, chuyên trị Hồn ma nhập hồn, trúng tà điên khùng, chính là pháp môn y gia châm cứu mười ba quỷ huyệt trên cơ thể người để loại trừ ác quỷ. Sau đó Tôn Tư Mạc cho rằng có sai lầm, thế là tiến hành sửa đổi thành “Châm thập tam quỷ huyệt ca,” truyền lại các đời sau.

Lý Thuần Phong thân là Tiến sĩ khoa Chú cấm, kế thừa y bát của Tôn Tư Mạc, Huyền Trang vừa nhắc tới hắn đã hiểu rồi.

Nghĩ một lát, Lý Thuần Phong giơ tay lên. “Vỗ tay giao kèo… Ôi, dùng tay phải!”

Huyền Trang cười, dùng tay phải vỗ tay với hắn, lúc này Lý Thuần Phong mới chạy đến bờ sông bế con cừu non về.

Lý Thuần Phong đưa mắt nhìn quanh, lại hơi kinh ngạc, thì ra Huyền Trang dẫn hắn đi, hai người vừa đi vừa trò chuyện, bất giác đã đi về phía bắc, tới khu vực đồng ruộng phì nhiêu nhất Đôn Hoàng.

Đôn Hoàng nguồn nước phong phú, sông Cam Tuyền từ chân núi Minh Sa phía nam cuốn quanh núi mà đến, mang đến nước sông trong trẻo trên núi Kỳ Liên, lưu lượng khổng lồ. Người Đôn Hoàng mở bốn con kênh dẫn nước cỡ lớn trên sông Cam Tuyền, sau khi dẫn nước sông về lại mở vô số kênh nhỏ trên kênh lớn; kênh mương rậm rạp chạy qua đồng ruộng, bạch dương chọc trời, cây rừng tươi tốt.

Bên những con kênh chạy qua đồng này là thôn trang san sát, mỗi thôn trang chính là một ổ bảo, tường bảo đầm đất vừa cao vừa dày, không hề có gì khác với thành trì.

“Đây… đây là đâu?” Lý Thuần Phong kinh ngạc hỏi.

“Hương Bình Khang, thôn Giai Hòa. Còn kênh trước mặt này gọi là kênh Giai Hòa.” Huyền Trang nói ngắn gọn, mắt lại nhìn chằm chằm vào một tòa ổ bảo bờ bên kia kênh.

Lúc này đã là hoàng hôn, đã có nông dân từ đồng ruộng trở về, gà kêu chó sủa, khói bếp lượn lờ.

Vẻ mặt Lý Thuần Phong cảnh giác. “Pháp sư, ngài dẫn ta đến đây là có ý gì?”

“Lý Tiến sĩ không cần e ngại. Chúng ta muốn phá giải nhất thể song hồn của Khuê Mộc Lang và Lữ Thịnh, tất nhiên phải khống chế được hành tung của hắn trước. Bần tăng dẫn ngươi đến đây là muốn đợi một người, để hắn làm nội ứng,” Huyền Trang nói. “Người đó vẫn thường đi theo bên cạnh Khuê Mộc Lang. Lần này nhất định Khuê Mộc Lang sẽ đến Đôn Hoàng giết ta, hắn cũng sẽ theo tới. Bần tăng đã hỏi thăm rồi, thôn Giai Hòa là nhà của hắn, trong nhà vẫn có cha mẹ vợ con. Hắn rời nhà ba năm, đến nay chưa về lần nào, cho nên chỉ cần trở lại Đôn Hoàng, hắn nhất định sẽ về thăm nhà.”

“Ai?” Lý Thuần Phong hỏi.

“Hắn đến rồi.” Huyền Trang chỉ chỉ phía xa.

Lý Thuần Phong kinh ngạc nhìn theo, thấy bên hàng rào của một vườn nho có một bóng người đang cưỡi ngựa thong thả mà đi. Có thể thấy dáng người phúc hậu thấp thoáng trong bóng tối, tai to mặt lớn, trên lưng ngựa còn chở túi lớn túi nhỏ quà tặng. Người đó tỏ vẻ lén lút nhưng mặt mày lại hớn hở, lưu luyến nhìn quanh khắp nơi.

Huyền Trang nói, “Người này chính là Trưởng sử Ngọc Môn Quan của Khuê Mộc Lang, Triệu Phú.”

Huyền Trang dẫn Lý Thuần Phong đi ra từ dưới bóng cây, đứng ở bên kênh, mỉm cười chờ đợi.

Triệu Phú đang thúc ngựa đi, đột nhiên nhìn thấy Huyền Trang cùng một người đàn ông trẻ tuổi đứng ở bờ bên kia kênh, hết sức kinh hãi. “Ngươi… Pháp sư Huyền Trang? Ngài… ngài tới đây làm gì?”

Huyền Trang chắp tay. “Bần tăng đến cảm ơn Triệu Trưởng sử hôm đó ở Ngọc Môn Quan đã có ơn tương trợ.”

“Ta… ta không giúp ngài!” Triệu Phú tức giận, sợ sệt quan sát xung quanh, thấy không có người mới thở phào nhẹ nhõm, hạ thấp giọng nói. “Pháp sư, sau lần từ biệt vui vẻ đó, chúng ta không thể không quấy rầy nhau nữa được hay sao?”

“Chỉ cần ngươi giúp bần tăng thêm một lần nữa thôi!” Huyền Trang giơ một ngón tay lên. “Sau lần này ngươi và ta sẽ thật sự từ biệt vui vẻ.”

Triệu Phú nghiến răng nghiến lợi. “Ngài… chớ có được voi đòi tiên!”

Huyền Trang nhìn chằm chằm vào Triệu Phú và túi đồ phía sau lưng hắn, đột nhiên hỏi. “Xem ra Triệu Trưởng sử vừa mới từ thành Đôn Hoàng về phải không?”

“Liên quan gì đến ngài!” Triệu Phú miệng hùm gan sứa đáp.

Lý Thuần Phong không hiểu, yên lặng nhìn.

“Gấm vóc trong túi kia hình như là hàng thượng đẳng của hiệu tơ lụa Phương Gia ở chợ phía đông.” Huyền Trang quan sát từ bên này kênh. “À, còn có sữa đặc của Trương Lão Phúc, đường mạch nha của Tôn Lão… Xem ra Triệu Trưởng sử đã dạo ở chợ phía đông rất lâu! Có điều bần tăng lại thấy kỳ quái, ngươi đi theo bên người Khuê Mộc Lang, vì sao lại có thể ra ngoài?”

Sắc mặt Triệu Phú trắng bệch. “Hắn… Khuê thần không biết…”

Lúc này Lý Thuần Phong cũng đã hiểu ý của Huyền Trang, cười nói, “À, thì ra là ngươi lén ra ngoài!”

“Như vậy, vì sao hắn có thể lén ra ngoài được?” Huyền Trang hỏi.

“Chỉ sợ là Khuê Mộc Lang có giao phó sứ mệnh cho hắn, sau khi hoàn thành sứ mệnh, hắn lén đến chợ phía đông mua một chút hàng hóa, về nhà thăm cha mẹ vợ con. Ờ, ba năm không về nhà, có thể hiểu được,” Lý Thuần Phong nói.

“Thì ra là thế.” Huyền Trang gật đầu. “Vậy thì, hắn đã có thể rảnh rỗi về nhà, nói rõ Khuê Mộc Lang không ở trong châu thành mà cách châu thành một khoảng, cho nên hắn mới có thể tranh thủ thời gian như thế.”

Triệu Phú ngơ ngác nhìn hai người suy luận, trên trán mồ hôi rơi như mưa.

Lý Thuần Phong cười nói, “Khuê Mộc Lang dặn hắn đến châu thành làm việc, bây giờ cuộc nổi loạn của trấn Tây Quan trong châu thành vừa bị trấn áp, năm cổng thành phong tỏa, nghiêm khắc tra xét người ra vào. Hắn thân là đồng lõa của Khuê Mộc Lang, dựa vào cái gì lại có thể tự do ra vào, mà còn dám nghênh ngang mua sắm ở chợ phía đông?”

Vấn đề này hơi sâu, Huyền Trang suy nghĩ tỉ mỉ một lát, đột nhiên nhớ lại hôm ấy ở ngoài thành Hà Thương, Khuê Mộc Lang đối đáp vài câu ít ỏi với Vương Quân Khả, buột miệng nói, “Hắn tới gặp Vương Quân Khả!”

“Uỵch” một tiếng, Triệu Phú rơi xuống từ trên lưng ngựa, toàn thân run râyr, ngơ ngác nhìn Huyền Trang giống như gặp ma.

“Quả nhiên như thế, ngươi là tới gặp Vương Quân Khả?” Ngay cả chính Huyền Trang cũng thấy kinh sợ. “Vì sao Khuê Mộc Lang lại phái ngươi tới gặp Vương Quân Khả? Hôm đó ở ngoài thành Hà Thương, rốt cuộc hai người họ đã nói những gì?”

“Ta không nói gì cả! Đó là do chính ngươi đoán được!” Triệu Phú khàn giọng kêu lên.

Lý Thuần Phong lạnh lùng nói, “Lời này ngươi nói cho Khuê Mộc Lang nghe, hắn sẽ tin sao?”

Triệu Phú ngây như phỗng. Quả thật là thế, cách kênh nước nhìn một cái đã có thể thông qua manh mối suy luận ra sứ mệnh của mình, nói cho ai nghe cũng không có người nào tin.

Lý Thuần Phong thản nhiên nói: Triệu Trưởng sử, chuyện phản bội Khuê Mộc Lang đã làm một lần sẽ có lần thứ hai, bởi vì đối với Khuê Mộc Lang mà nói thì đều giống nhau. Nói đi, hắn lệnh ngươi tới gặp Vương Quân Khả là có mục đích gì?”

Triệu Phú bò dậy từ dưới đất, mồ hôi như mưa. Huyền Trang lẳng lặng nhìn hắn chờ đợi.

“Khuê thần… Khuê thần lệnh ta đến tìm Vương Quân Khả…” Triệu Phú cắn răng, lẩm bẩm nói. “Hỏi tung tích của một người. Khuê thần và Vương Quân Khả đã lập khế ước, Khuê thần phải giết một người, cần Vương Quân Khả tìm ra chỗ ẩn thân của người đó.”

“Ai?” Huyền Trang vặn hỏi.

“Lệnh Hồ Đức Mông!” Triệu Phú nói.

Huyền Trang ngơ ngác, không hề biết người này là ai. “Người này là ai? Chẳng lẽ có quan hệ gì với Lệnh Hồ Đức Mậu gia chủ của Lệnh Hồ thị hay sao?”

Triệu Phú cười khổ, lắc đầu. “Ta là người Đôn Hoàng, lại chưa bao giờ nghe thấy tên người này!”

Lý Thuần Phong lại hít một hơi thật sâu. “Người này ta đã gặp một lần. Thế hệ bây giờ của Lệnh Hồ thị có bốn huynh đệ, gia chủ hiện nay mặc dù là lão tam Lệnh Hồ Đức Mậu, nhưng trung khu thật sự của Lệnh Hồ thị chính là vị Lệnh Hồ Đức Mông này. Ông ta xưa nay không xuất đầu lộ diện, danh tiếng cũng không được người ngoài biết đến, chỉ có sĩ tộc ở tầng lớp cao nhất mới biết người này chính là gia chủ thực sự của Lệnh Hồ thị, đại sự mà Lệnh Hồ thị hoạch định đều xuất phát từ người đó. Sự kiêng kị và tôn trọng của gia chủ bảy sĩ tộc lớn khác đối với Lệnh Hồ thị có một nửa là đến từ Lệnh Hồ Đức Mông.”

“Vì sao Khuê Mộc Lang muốn giết Lệnh Hồ Đức Mông?” Huyền Trang hỏi.

Lý Thuần Phong và Triệu Phú đều lắc đầu không biết.

“Như vậy là…” Huyền Trang hết sức lo lắng, không ngờ Vương Quân Khả lại bí mật cấu kết với Khuê Mộc Lang, điều này làm cho ngài cực kì bất an. “Đã là ước hẹn, Khuê Mộc Lang muốn Vương Quân Khả tìm ra nơi ẩn nấp của Lệnh Hồ Đức Mông, vậy thì Vương Quân Khả cần Khuê Mộc Lang làm gì?”

Triệu Phú thản nhiên lắc đầu. “Chuyện này ta thật sự không biết. Hôm ấy Khuê thần từ thành Hà Thương trở về Ngọc Môn Quan đã triệu kiến sứ giả của Đông Đột Quyết và Thổ Dục Hồn, sau đó bọn chúng liền khởi hành chạy về vương đình!”

“Có thể xác định liên quan đến Vương Quân Khả không?” Huyền Trang hỏi.

“Không biết.” Triệu Phú lắc đầu. “Bọn họ mật đàm trong động phủ ở chướng thành, ta không được tham dự. Chi có điều hai năm trước cũng có nghi thức giáng thần, các tộc Tây Vực cũng từng phái người đến xem lễ nhưng Khuê thần không hề một mình tiếp kiến ai, có lẽ là muốn giữ vị thế trung lập không nghiêng không lệch với các tộc.”

“Pháp sư, điều này rất quan trọng sao?” Lý Thuần Phong hỏi.

Huyền Trang chậm rãi đi trên bờ kênh. “Vương Quân Khả vẫn luôn khiến bần tăng có cảm giác bất an, nhưng bần tăng cũng không thể nói cảm giác ấy từ đâu mà đến. Ta chỉ có thể nói rằng từ khi ta nhìn thấy người này ở trạm dịch châu thành tới nay, mỗi bước của hắn dường như đều ẩn chứa thâm ý. Đầu tiên, hắn gả Ngư Tảo cho Lý Thiền, đây là Lý Diễm cầu thân trước nên không có gì để nói. Nhưng vì hỏi cưới đích nữ của Trương Tệ mà hắn trắng trợn chèn ép sĩ tộc Đôn Hoàng, điều này khiến ta nghĩ mãi không thông.”

Lý Thuần Phong cười nói, “Vương Quân Khả muốn thành sĩ tộc, ngay cả trong triều đình cũng nổi tiếng vì việc này, hắn bám vào Trương thị không hề có gì lạ.”

“Trương thị có gì đáng để hắn bám vào?” Huyền Trang lạnh nhạt nói. “Vương Quân Khả là lưu quan, dù sao cũng phải điều nhiệm tới nơi khác; đối với cả Đại Đường mà nói thì so với sĩ tộc năm họ Sơn Đông là Thôi, Lư, Trịnh, Vương và Lý, sĩ tộc Đôn Hoàng chẳng qua chỉ là sĩ tộc loại hai mà thôi. Ngươi xem một loạt thủ đoạn của hắn, đầu tiên là thông qua thảm án hang Mạc Cao để tước binh quyền của Lệnh Hồ thị ở trấn Tây Quan, sau đó lại bởi vì Trương Tệ cự tuyệt hôn nhân mà mở ra đại án buôn lậu.”

“Đây chỉ là sự trả thù của hắn đối với Trương thị thôi,” Lý Thuần Phong cười nói. “Ta nghe nói Trương Tệ tuyên bố, con trai của Vương Quân Khả chỉ xứng lấy thứ nữ nhà hắn, vì vậy mới chọc giận Vương Quân Khả.”

“Không không không, Lý Tiến sĩ, ngươi không được nhìn vấn đề như thế.” Huyền Trang lắc đầu. “Đại án buôn lậu dĩ nhiên chỉ thẳng vào Trương thị, nhưng tội danh lại là lén giao dịch với người ngoài giáo hóa. Đây kì thực là quy tắc ngầm trong giao dịch hàng hóa tại Đôn Hoàng, các sĩ tộc lớn hoặc công khai hoặc lén lút đều có tham dự. Vương Quân Khả hôm nay có thể dùng tội danh này để đánh Trương Tệ, hôm khác sẽ có thể lấy tội danh này đánh bất cứ một sĩ tộc nào. Hắn đang nhằm vào cả tám sĩ tộc lớn!”

Lý Thuần Phong mới đến, nội tình trong đó còn có chút không quá rõ ràng, nhưng Triệu Phú xuất thân thương nhân, lập tức liên tiếp gật đầu. “Trong sĩ tộc Đôn Hoàng, ngoài Lệnh Hồ thị và Âm thị cơ bản không làm mậu dịch, các sĩ tộc khác đều âm thầm buôn bán; có điều Trương thị và Lý thị làm nhiều nhất, tiếp theo chính là Địch thị.”

“Cho nên.” Huyền Trang sắp xếp ý nghĩ. “Ta nghi ngờ cuộc nổi loạn trấn Tây Quan hôm nay là do Vương Quân Khả cố ý ép ra!”

Thành Đôn Hoàng, phủ Thứ sử.

Lúc này đã là hoàng hôn, trống đóng cửa sắp vang lên, mà trên phố hậu trạch phủ Thứ sử lại có một nhóm người cưỡi ngựa đang chậm rãi đi tới. mặt trời sắp lặn chiếu ánh nắng xuống tường phường bên cạnh, nhuộm một màu vàng nhạt lên con ngõ nhỏ, trên mặt kỵ sĩ đang cưỡi ngựa cũng phủ một lớp vàng.

Hai người cưỡi ngựa phía trước chính là Lệnh Hồ Đức Mậu và Địch Xương, Lệnh Hồ Chiêm dẫn hai tên bộ khúc bảo vệ phía sau.

“Hôm nay đúng là làm mất mặt tổ tiên!” Địch Xương tức giận nói. “Một ván cờ hay, vậy mà lại bị Vương Quân Khả lật ngược thế cờ, không chỉ Lệnh Hồ thị các ngươi mất cả trấn Tây Quan mà hơn mười quan chức sĩ tộc nha môn hai cấp châu huyện cũng đều bị bắt lại. Ngươi nhìn thấy danh sách đề bạt của hắn chưa? Đều là tâm phúc của hắn hết!”

Thì ra hôm nay sau khi trấn áp cuộc nổi loạn ở trấn Tây Quan, mặc dù Vương Quân Khả không giết người nhung lại tẩy trừ phạm vi lớn đối với cả trấn Tây Quan. Ngoài Trấn phó do chính hắn đề bạt thì hai Hiệu úy, bốn lữ soái, mười đội chính toàn bộ bị bắt giam vào trong ngục, các quân tốt khác thì bị chia nhỏ đưa vào các trấn thú và thủ tróc, quân tốt đáng tin được thay chân thì được bố trí về trấn Tây Quan. Vương Quân Khả lập nghiệp trong quân, tự nhiên không thiếu quan tướng trung thành, lập tức điều động Hiệu úy, lữ soái và đội chính từ các nơi đi vào trấn Tây Quan.

Có thể nói ngoài gã Trấn tướng bị truất quyền Lệnh Hồ Chiêm này không bị động đến, cả trấn Tây Quan bây giờ đều đã bị Vương Quân Khả khống chế vững vàng.

Chẳng những thế mà sau khi xảy ra chuyện tiền công giải, hơn mười quan chức đồng thời “bị bệnh” kia cũng đều bị bắt lại. Có điều Vương Quân Khả không có nhiều quan văn như vậy để thay thế, đại đa số lệnh cho cấp phó tiếp nhận, chỉ có vị trí then chốt để Tào Thành bố trí người một nhà vào.

Trận này tám sĩ tộc lớn có thể nói là thất bại thảm hại, chẳng những mất binh quyền một trấn mà còn mất một số vị trí khẩn yếu trong nha môn châu huyện, buổi tối hôm nay chính mình còn phải đích thân tới nhà tìm Vương Quân Khả hòa giải, cũng không trách được Địch Xương lại buồn bực.

“Hoằng Nghiệp công cho rằng chúng ta thua sao?” Lệnh Hồ Đức Mậu lạnh nhạt nói. “Chuyện hôm nay là đại huynh của ta tính toán, mục đích chính là muốn chắp tay dâng trấn Tây Quan cho Vương Quân Khả.”

Địch Xương kinh ngạc nhìn ông ta. “Đức Mông công không phải… A, không biết Đức Mông công có thâm ý gì?”

“Điều khiến huynh trưởng ta lo lắng là không làm rõ được ý định của Vương Quân Khả. Hôm đó hắn mượn vụ án hang Mạc Cao lấy lại chức Trấn tướng của Chiêm Nhi, huynh trưởng của ta liền cho rằng người này có dã tâm lớn, nhưng không thể phán đoán được hắn là địch hay bạn, là phúc hay họa của sĩ tộc Đôn Hoàng. Hôm đó ngài và ta tới gặp hắn, đưa lên thư của xá đệ Đức Phân, kỳ thực chính là thăm dò hắn.”

“Thăm dò hắn?” Địch Xương không hiểu ra sao.

Lệnh Hồ Đức Mậu giải thích. “Phong thư kia là đại huynh để Đức Phân chuẩn bị từ nửa năm trước. Mấy năm nay chúng ta đã thử nhiều lần, người này không thích tiền bạc, không yêu người đẹp, không tham đất đai. Hắn bây giờ là quan to tứ phẩm, quan tước cao hơn chúng ta khó mà cho hắn được, như vậy thì xem xem hắn có cần vinh quang cho gia tộc hay không.”

“Nhưng lần nọ cũng không thử ra được gì!” Địch Xương suy nghĩ. “Hắn xưng là muốn lập nên môn phiệt Vương thị, nhưng sau đó lại vẫn đối đầu với chúng ta.”

“Cho nên chúng ta mới muốn biết về hắn nhiều hơn.” Lệnh Hồ Đức Mậu nở nụ cười hiếm thấy. “Rốt cuộc vì sao hắn lại nhất định phải khống chế được Tây Sa Châu? Vì chức quan hay vi quyền lực? Nhưng Tây Sa Châu là châu biên giới, làm đến cao nhất cũng chỉ là một Thứ sử chính tứ phẩm hạ, hắn tội gì phải đắc tội sĩ tộc chúng ta rồi cuối cùng tạo ra cường địch?”

Địch Xương vỡ lẽ, than thở. “Quả thật là như thế. Tâm tư của người này dày như núi, sâu như biển. Vậy vì sao Đức Mông công còn muốn đưa trấn Tây Quan cho hắn?”

“Đại huynh muốn xem những lá bài hắn đang giữ trong tay. Đôn Hoàng nằm ở châu biên giới, Vương Quân Khả lại không cần dùng đến quan hệ ở triều đình, vì vậy chúng ta cần phải xem ba năm nay hắn đã âm thầm bồi dưỡng bao nhiêu thế lực ở Đôn Hoàng. Cho nên nếu không dùng một mồi nhử lớn như trấn Tây Quan, làm sao hắn chịu lộ rõ cá lặn ở dưới nước ra?” Lệnh Hồ Đức Mậu nói. “Bây giờ chúng ta đã nhìn thấy, Thủ tróc Diêm Trì Triệu Bình và Trấn tướng Long Lặc Mã Hồng Đạt là người của hắn, lúc trước chúng ta có biết không?”

Địch Xương lộ vẻ sợ hãi, trước đó không một ai biết Vương Quân Khả đang giấu hai lá bài tốt như thế trong ba trấn bốn thủ tróc. Vậy là chỉ riêng trong quân Đôn Hoàng lúc này, hắn đã có thể vững vàng khống chế trấn Long Lặc, trấn Tây Quan và thủ tróc Diêm Trì. Trong tay sĩ tộc chỉ còn lại trấn Tử Kim của Tống Giai và thủ tróc Tử Đình của Địch Thuật, hai vị Thủ tróc sứ Huyền Tuyền và Thường Lạc không phải người của sĩ tộc, sợ rằng khi có việc gấp sẽ nghe theo mệnh lệnh của Vương Quân Khả.

Trong quân đội, tám sĩ tộc lớn đã hoàn toàn bị áp chế.

“Có điều thông qua một loạt những thay đổi và tẩy trừ trong trấn Tây Quan, điều động nhân lực, phân chia rồi tái tổ chức, chúng ta đã thăm dò được chủ bài của Vương Quân Khả. Như vậy ngược lại có thể yên tâm, cho hắn một trấn Tây Quan cũng không sao,” Lệnh Hồ Đức Mậu nói. “Thế nên xin Hoằng Nghiệp công yên tâm, cũng xin các vị gia chủ yên tâm, bước tiếp theo tất nhiên đại huynh của ta đã có sự chuẩn bị.”

Địch Xương nghe vậy mới thở phào nhẹ nhõm, lúc này hai người đã đến cửa phủ Thứ sử, liền không nói chuyện tiếp nữa.

Vương Quân Thịnh đang chờ trước cửa, bốn gã quân tốt im lặng đứng ở hai bên. Nhìn thấy mọi người đi tới, Vương Quân Thịnh cũng không nói gì, khẽ chắp tay rồi sai người mở cửa hông. Mọi người xuống ngựa, quân tốt của phủ Thứ sử dắt ngựa đến chuồng ngựa bên cạnh.

Vương Quân Khả đang đứng chờ trong trung đình. “Đức Mậu công, Hoằng Nghiệp công!”

Địch Xương không nhịn được châm chọc. “Lần trước viếng thăm không thấy Vương công xuống thềm đón chào.”

“Lần trước là các ngài thay Trương thị đến từ hôn, lần này là đến giao dịch, đương nhiên phải khác nhau.” Vương Quân Khả đưa tay lên. “Mời!”

Sắc mặt Địch Xương hơi khó coi, Lệnh Hồ Đức Mậu lại bình tĩnh như thường, hai người đi theo Vương Quân Khả vào trong chính đường. Lệnh Hồ Chiêm giữ hoành đao bên hông, canh giữ ở dưới hiên với hai tên bộ khúc.

“Lệnh Hồ Trấn tướng không đi cùng sao?” Vương Quân Khả hỏi.

Lệnh Hồ Chiêm lạnh lùng nói, “Bây giờ ta đã bị cách chức, không phải Trấn tướng, chỉ là một tiểu nhi trong Lệnh Hồ gia.”

Vương Quân Khả yên lặng cười, cũng không nói gì, đi cùng với Lệnh Hồ Đức Mậu và Địch Xương đến chỗ ngồi rồi chia ra chủ khách ngồi xuống. Trên bàn ăn sớm đã chuẩn bị trái cây và rượu, Vương Quân Thịnh hầu hạ bên cạnh, rót rượu cho hai người Lệnh Hồ Đức Mậu và Địch Xương.

“Thứ sử công đúng là giỏi thủ đoạn, chỉ mới ra tay một lần đã giành lại trấn Tây Quan mà Lệnh Hồ thị ta kinh doanh suốt mười mấy năm,” Lệnh Hồ Đức Mậu nói. “Bội phục!”

“Bản quan xuất thân quân đội, bình định nổi loạn chỉ là chuyện đơn giản,” Vương Quân Khả mỉm cười nói. “Hai vị gia chủ hôm nay đến khởi binh hỏi tội sao?”

“Đương nhiên không phải.” Địch Xương cười lạnh lùng. “Đối với đại quan biên giới như ngài, chúng ta chỉ có thể đến triều đình kêu oan, sao dám xằng bậy trong địa bàn mà ngài cai trị, không sợ diệt môn diệt tộc sao?”

Lệnh Hồ Đức Mậu xua tay, ngăn cản Địch Xương cằn nhằn trách cứ, nói thẳng. “Thứ sử công, ngài cần gì? Sĩ tộc ta có thể cho ngài thứ gì?”

“Sao lại nói lời ấy?” Vương Quân Khả ra vẻ kinh ngạc.

“Nửa năm qua, Thứ sử công nhiều lần ra tay nhằm vào sĩ tộc ta, tất nhiên là có ý đồ,” Lệnh Hồ Đức Mậu nói. “Lần trước xá đệ viết thư, sẵn sàng giúp Vương thị ngài về gốc Thái Nguyên, xem ra món quà này hơi nhẹ rồi, nên Thứ sử công coi thường.”

“Cũng không phải coi thường,” Vương Quân Khả trầm ngâm nói. “Mặc dù cũng động lòng, có điều bản quan biết rõ đây chỉ là hoa trong gương, trăng dưới nước. Bây giờ Đôn Hoàng đang ở dưới sự cai trị của ta, Lệnh Hồ Thị lang tất nhiên sẵn sàng tương trợ; nhưng ta là lưu quan, ngày khác điều nhiệm, chỉ sợ sẽ là công dã tràng.”

“Thì ra ngài lo lắng điểm này.” Lệnh Hồ Đức Mậu gật gật đầu, nhưng nhất thời cũng không có biện pháp nào tốt làm cho Vương Quân Khả tín phục. Sự thật đúng là như thế, đây chỉ là chiếc bánh vẽ mà Lệnh Hồ thị cho Vương Quân Khả; sau này khi Vương Quân Khả vừa được điều đi, cho dù hắn được triệu hồi về triều đình nhậm chức, thì cũng làm thế nào mà đòi nợ một Thị lang Bộ Lễ?

“Vậy thì ngài muốn gì?” Địch Xương vặn hỏi một câu. “Chẳng lẽ lý do ngài khai chiến với sĩ tộc ta chính là vì đích nữ của Trương thị?”

Ánh mắt Vương Quân Khả lóe lên, chậm rãi nói, “Nếu đúng vậy thì sao?”

Địch Xương nghiến răng nghiến lợi đáp. “Nếu là như vậy, hai chúng ta đã thuyết phục Trương Tệ, ông ta đồng ý việc hôn nhân này.”

Vương Quân Khả cười to. “Hoằng Nghiệp công, các ngài quả thật đã thuyết phục được Trương Tệ rồi sao? Ta lại không tin! Thoả hiệp dưới cục diện loại này không phải điều mà Trương Tệ sẵn sàng.”

Địch Xương nhất thời yên lặng. Vương Quân Khả đoán không hề sai, buổi chiều hôm nay ông ta và Lệnh Hồ Đức Mậu đã đến nói với Trương Tệ, nhưng lại bị từ chối một lần nữa. Cho dù là đao gác ở trên cổ, Trương Tệ cũng không chịu đồng ý. Sĩ tộc dựa vào cái gì để có chỗ đứng? Chính là lễ pháp môn phong và thể diện sĩ tộc! Bị chèn ép phải khuất phục gả con gái, Trương thị làm thế nào mà đứng vững chân ở Đôn Hoàng được nữa?

“Tất nhiên là bọn ta có biện pháp để thuyết phục Trương Tệ,” Lệnh Hồ Đức Mậu chậm rãi nói.

“Chậm rồi!” Vương Quân Khả nói lớn tiếng. “Nói thật, bản quan gây ra những rắc rối này đúng là vì bị Trương thị bức bách; nhưng bây giờ Trương Tệ đã trở thành cá nằm trên thớt, mặc cho ta giày xéo, hắn dựa vào cái gì mà cho rằng gả con gái liền có thể xoa dịu được cơn giận ở trong lòng ta?”

Hai người nhìn nhau một cái, vẻ mặt đều trở nên nghiêm nghị.

Lệnh Hồ Đức Mậu chậm rãi nói, “Thứ sử công cứ nói đi!”

“Đầu tiên, Trương thị gả con gái là chuyện tất yếu. Thứ hai, ta cần Địch thị của ngài cùng Tống thị giao ra chức Thủ tróc sứ Tử Đình và Trấn tướng Tử Kim!” Vương Quân Khả lạnh lẽo nói.

Địch Xương đột nhiên ngồi thẳng dậy, cả giận nói, “Buồn cười, chuyện này thì liên quan gì đến Địch thị ta? Còn có Tống thị, hoàn toàn không liên quan gì đến việc này!”

Lệnh Hồ Đức Mậu lại tỉnh táo hơn nhiều, kéo kéo Địch Xương để ông ta ngồi xuống. “Thì ra Thứ sử công muốn cướp hết binh quyền của sĩ tộc ta! Có thể nói ra lí do không?”

“Rất đơn giản.” Vương Quân Khả thản nhiên đáp. “Bản quan xuất thân trong quân, ngày nào còn chưa nắm được binh quyền, ngày ấy liền khó mà ngủ ngon giấc, càng không muốn tái diễn lại cảnh trấn Tây Quan nổi loạn lần thứ hai.”

Lệnh Hồ Đức Mậu chậm rãi gật đầu. “Thì ra là thế, cũng có thể hiểu được. Còn có yêu cầu khác, Thứ sử công nói luôn một thể đi!”

“Yêu cầu thứ ba.” Vương Quân Khả giơ ba ngón tay lên. “Xá thư chiêu mộ phủ binh của triều đình vừa đến, bản quan liền dựa theo ước định xuất binh Ngọc Môn Quan. Yêu cầu của ta chính là sĩ tộc các ngươi cung cấp hai mươi nghìn thạch quân lương và hai mươi nghìn cuộn lụa!”

Lệnh Hồ Đức Mậu và Địch Xương đều khiếp sợ, không thể không ngơ ngác nhìn nhau.

“Đánh một tòa Ngọc Môn Quan đâu cần nhiều tiền lương như thế?” Địch Xương cả giận nói. “Mỗi năm số quân lương Tây Sa Châu thu mua tổng cộng là hai mươi nghìn thạch, đinh tô bách tính nộp lên trên hai mươi nghìn thạch, kho lương của châu mua hai mươi bốn nghìn thạch, ngoài ra còn có thu nhập của đồn điền và doanh điền. Phải một năm binh mã toàn châu mới tiêu tốn hết năm mươi tám nghìn thạch quân lương, tiền lương quá mức đầy đủ. Chẳng lẽ chỉ một tòa Ngọc Môn Quan thôi mà ngài phải đánh tới tận một năm?”

“Nếu như Đột Quyết xâm lấn thì thế nào?” Vương Quân Khả lạnh lùng hỏi. “Nếu như Thổ Dục Hồn xâm lấn thì sao?”

“Làm sao có thể?” Địch Xương lẩm bẩm nói.

Vương Quân Khả cười lạnh lùng. “Ngươi đừng quên, Khuê Mộc Lang tự xưng Lang thần, mà Lang thần đối với các bộ tộc Đột Quyết và người Thổ Dục Hồn có ý nghĩa gì? Theo bản quan biết, bây giờ người trong Ngọc Môn Quan đa số chính là từ các bộ tộc Tây Vực chạy tới hầu hạ hắn. Vì sao bản quan phải khẩn cầu triều đình chiêu mộ phủ binh? Chính là vì phòng ngừa Đột Quyết và Thổ Dục Hồn nam bắc giáp công! Hai vị cũng biết, vừa đánh trận là tiền lương lập tức chi ra như biển. Ta cần chút tiền lương ấy liệu có nhiều không?”

Địch Xương một hồi lâu không nói, Lệnh Hồ Đức Mậu thì dùng ánh mắt sâu thẳm nhìn Vương Quân Khả, rất lâu không lên tiếng.

Đúng lúc này, đột nhiên nghe thấy ngoài trung đình vọng tới tiếng ồn ào, có tiếng Lệnh Hồ Chiêm đang nói nhỏ. “Cô nương… cô nương không được lỗ mãng!”

Một giọng nữ dịu dàng đáp. “Ta không hề lỗ mãng. Đây là chuyện của ta, không dám làm phiền Lệnh Hồ lang quân.”

“Càn quấy!” Lệnh Hồ Chiêm dường như tức giận. “Mau trở về đi! Nếu để phụ thân cô nương biết, sợ rằng sẽ bị trách phạt nặng nề!”

Ba người nghe một lát, đều hơi kinh ngạc. Vương Quân Thịnh vội vàng mở cửa đi ra ngoài. Cửa chính đường vừa mở, ba người đã nhìn thấy một thiếu nữ xinh đẹp đứng trong trung đình, Vương Quân Khả và Lệnh Hồ Đức Mậu không hề biết, Địch Xương lại há to miệng, lẩm bẩm nói. “Tại sao lại là nó? Điệu Nương?”