← Quay lại trang sách

Chương 17 Chàng thiếp nắm tay nhau,-chỉ cách biệt âm dương

Địch Văn lập tức kinh ngạc ngây người, ngơ ngác nhìn Lữ Thịnh.

Lữ Thịnh - Khuê Mộc Lang cười một tiếng dữ tợn, vẻ mặt và khí chất lập tức biến đổi, âm trầm và tàn nhẫn, ngay cả giọng nói cũng bất đồng. “Giỏi cho hòa thượng! Ngươi làm thế nào mà nhìn ra được sơ hở?”

“Mặc dù tại hạ là đệ tử của đại sư Viên Thiên Cương, nhưng Viên đại sư lại chưa hề can thiệp vào chuyện của khoa Chú cấm bao giờ. Khoa Chú cấm là do chân nhân Tôn Tư Mạc thành lập, truyền cũng là y bát của Tôn chân nhân,” Lý Thuần Phong lạnh lùng nói. “Năm ấy Lữ Thịnh nhậm chức ở Thái y viện, biết rất rõ chuyện này, còn ngươi… mặc dù hiểu rất nhiều về hắn nhưng lại không rõ những chi tiết ấy, đúng không?”

“Còn có khi đó ở Ngọc Môn Quan, bần tăng từng hỏi Lữ Thịnh, hắn đã sớm quên kẻ thù hãm hại mình là ai, mà ngươi lại biết rõ là Lệnh Hồ Đức Mông,” Huyền Trang nói tiếp.

“Còn nữa, Châm thập tam quỷ huyệt ca chính là bí thuật thành danh của Tôn chân nhân, sao Lữ Thịnh lại không biết đó là một bộ thuật châm cứu?” Lý Thuần Phong cười nói.

“Các ngươi… các ngươi biết trước hắn là giả mạo?” Địch Văn vẫn đang khiếp sợ, lẩm bẩm hỏi. “Vì… vì sao ta không nhìn ra được?”

“Không, đúng là bần tăng và Lý Tiến sĩ đến khám chữa cho Lữ Thịnh,” Huyền Trang điềm đạm đáp.

Thì ra buổi chiều Huyền Trang hẹn Lý Thuần Phong, bản ý là muốn loại trừ linh thể Khuê Mộc Lang cho Lữ Thịnh, chỉ có điều Lý Thuần Phong đưa ra một vấn đề: Nếu lúc đang khám chữa Khuê Mộc Lang tỉnh giấc thì làm thế nào? Lý Thuần Phong đề nghị phải bố trí biện pháp dự phòng, vạn nhất Khuê Mộc Lang tỉnh giấc, trước hết dùng thuật châm cứu giam cầm hắn trong thời gian ngắn ngủi, sau đó bày Thiên Cương pháp trận vây khốn hắn, cưỡng chế châm cứu trên người hắn.

Huyền Trang cũng rất cho là đúng, hai người liền đến đình năm dặm trước thời gian hai canh giờ, bày pháp trận trong và ngoài đình. Dù vậy hai người ai cũng không nghĩ tới Lữ Thịnh lại là hàng giả, may mà cả hai đều chú ý cảnh giác, sau khi phát hiện không ổn, Lý Thuần Phong lập tức ra tay trước khống chế Khuê Mộc Lang.

“Đám phàm nhân các ngươi thật đúng là xảo trá.” Khuê Mộc Lang cười ha hả, đột nhiên lắc người một cái, ngọn lửa trên kim đá vỏ chai đột nhiên tắt, đồng thời kim cũng vỡ tan.

Khuê Mộc Lang bước tới một bước, đưa tay tóm lấy cổ Huyền Trang, nhấc cả người ngài lên. “Bản tôn đến là để giết ngươi, đã biết Lý Thuần Phong đi cùng, làm sao lại không đề phòng phép thuật của hắn?”

Lý Thuần Phong ngẩn ra, bắt quyết quát. “Trấn!”

Trong đình lại không hề có động tĩnh, Lý Thuần Phong kinh ngạc, bắt quyết thêm lần nữa, trên tay ném ra một tấm phù chú, kết quả là tấm phù chú vừa mới cháy lên được một chút đã tắt mất. Sắc mặt Lý Thuần Phong cực kì khó coi.

Khuê Mộc Lang cười ha hả, tay dùng sức bóp lại, cổ Huyền Trang kêu lên răng rắc, da mặt sưng lên.

Lúc Huyền Trang sắp chết, Khuê Mộc Lang hơi buông lỏng tay ra, cười nói, “Tăng nhân nhà ngươi sau khi chết không biết có thể luyện hóa ra được thiên y hay không, bản tôn lại không dám đánh cuộc.” Hắn lắc tay một cái, Huyền Trang bay ra ngoài, đập mạnh vào cột đình, giãy giụa không bò lên được.

“Còn ngươi..,” Khuê Mộc Lang nhìn Lý Thuần Phong một cái. “Có thể chết được rồi.”

Khuê Mộc Lang vung tay lên, giữa các ngón tay đột nhiên mọc vuốt sắc; hắn vạch thẳng về phía cổ Lý Thuần Phong, tốc độ nhanh như chớp. Mặc dù Lý Thuần Phong tinh thông pháp thuật, nhưng thân thủ lại không bằng cả một người khỏe mạnh bình thường, căn bản không thể né tránh được. Hắn chỉ đành cười khổ nhắm mắt, chờ đợi vuốt sắc cắt đứt mạch máu và cơ bắp trên cổ mình.

Đột nhiên nghe thấy có một tiếng dây cung vang vọng tới, một mũi tên nhọn bắn thẳng vào từ khe hở ở giữa song cửa. Thân thể Khuê Mộc Lang lóe lên rồi biến mất. Chát một tiếng, mũi tên bay sát qua vai Lý Thuần Phong bắn vào cột đình, phần cán tên rung động kịch liệt.

Lý Thuần Phong ngỡ ngàng mở mắt ra, lẩm bẩm nói, “Pháp sư, ngài còn tính đến cả phương án dự phòng cứu mạng…”

Còn chưa nói xong đã thấy bốn phương tám hướng có tiếng dây cung bật không ngừng, vô số mũi tên bắn vào đình năm dặm. Mọi người tới tấp nằm rạp xuống đất, kể cả Khuê Mộc Lang cũng chịu đựng đau đớn, kéo Địch Văn, hai người nằm sát xuống mặt đất trốn ở góc đình; chỉ một thoáng sau, dưới nền đình và trên tường gỗ đều cắm đầy mũi tên.

Xung quanh đình, song cửa sớm đã mục nát tới tấp vỡ vụn, ầm ầm đổ xuống, đập vào thân thể mọi người. Khuê Mộc Lang che chở Địch Văn nấp ở đối diện với và Lý Thuần Phong, chính giữa đình là hai chiếc đôn gỗ, bên trên cắm đầy mũi tên. Khuê Mộc Lang và Huyền Trang nhìn nhau một cái, cùng đưa chân đạp, mỗi người đạp một chiếc đôn gỗ về phía đối phương, tốt xấu gì cũng có cái để mà che chắn.

Tiếng cung tên tạm thời dừng lại, ngoài đình năm dặm bóng cây lay động, ánh trăng bay múa. Huyền Trang áp sát mặt đất, nhìn ra bên ngoài từ lỗ thủng ở trên tường gỗ nhưng không hề thấy gì cả.

Trong rừng cây vang lên mấy tiếng nói chuyện, lại không phải giọng Trung Nguyên.

“Bọn chúng nói cái gì thế?” Lý Thuần Phong hỏi.

“Đây là tiếng Đột Quyết.” Huyền Trang cười khổ. “Bọn họ nói… chuyển sang tên lửa.”

Lý Thuần Phong sửng sốt, kêu khổ không ngừng.

Lúc này đã thấy trong bóng cây có ánh lửa sáng lên, có đến mười mấy chỗ hiện ánh lửa; sau đó lại là tiếng dây cung vọng tới, mười mấy mũi tên lửa tựa như sao băng từ bốn phương tám hướng bắn thẳng vào đình năm dặm. Trên đoạn đầu cán tên quấn vải bố, bên trên là sơn đen, đang bốc cháy kịch liệt, tỏa ra mùi khét lẹt, lập tức đốt cháy song cửa và vật liệu gỗ các nơi. Đình năm dặm bùng cháy hừng hực, Địch Văn sặc liên tục ho không ngừng.

Khuê Mộc Lang giận tím mặt, hú dài một tiếng, răng nanh chỉ trong chớp mắt đã mọc lên, thân thể lập tức căng phồng. Ầm một tiếng phá vỡ tường gỗ, lao thẳng ra ngoài.

Huyền Trang và Lý Thuần Phong vội vàng nhìn ra bên ngoài, thấy một con sói màu bạc to lớn nhảy như bay giữa cây rừng dưới ánh trăng, chỉ thoáng cái đã biến mất. Ngay sau đó liền nghe thấy tiếng hét và kêu lên sợ hãi bằng các loại ngôn ngữ. Uỳnh, một bóng người rơi xuống từ trên ngọn cây, thân thể gãy thành hình thù kỳ dị, máu tươi phun ra ào ạt từ cổ họng.

Trong rừng cây tiếp tục vang lên tiếng kêu thảm thiết không ngừng, mang một tâm tình cực kỳ sợ hãi; sau đó trên cây như thả sủi cảo, uỳnh uỵch rơi xuống vô số bóng người, đều không hề nhúc nhích, hiển nhiên trước khi rơi xuống khỏi ngọn cây cũng đã bị giết chết.

Huyền Trang và Lý Thuần Phong hợp lực dùng chân đạp tường gỗ mục nát vỡ ra một lỗ thủng lớn. Huyền Trang nắm tay áo Địch Văn kéo nàng đến gần lỗ thủng, đẩy nàng ra ngoài, chính mình và Lý Thuần Phong cũng chui ra ngoài,

Ba người vừa ra ngoài, đình năm dặm liền ầm ầm sụp đổ.

Ba người nằm dưới đất hít sâu không khí trong lành, đều có cảm giác gặp đại nạn mà không chết.

Địch Văn nói nhỏ. “Pháp sư, các vị đi nhanh đi.”

Huyền Trang đứng dậy, dưới ánh trăng và ánh lửa cháy sáng, trên đường nằm năm sáu thi thể, xem tướng mạo đều là người Hồ, đa số là người Túc Đặc và người Đột Quyết.

Lý Thuần Phong lần lượt sờ mạch môn những thi thể đó, đột nhiên nói, “Người này còn có một hơi.”

Huyền Trang vội vàng đi tới, nhìn thấy một người đàn ông trung niên có râu quai nón ngã sấp xuống đất, máu trên cổ đã đông lại, ngay cả hô hấp cũng không còn. Huyền Trang nghi hoặc nhìn Lý Thuần Phong một cái, Lý Thuần Phong lại lấy ra bộ kim, từ vỏ da rút ra một mũi kim đá vỏ chai, kẹp giữa hai ngón tay. Tiếp đó hắn há miệng phun ra, đột nhiên một tấm phù chú phun tới, gặp gió liền bốc cháy. Lý Thuần Phong dùng kim chọc ngọn lửa, lập tức mũi kim cũng cháy lên ngọn lửa.

Lý Thuần Phong quát. “Một kim Nhân Trung Quỷ Cũng dừng, bên trái kim vào phải kim ra.”

Quỷ Cung là huyệt Nhân Trung, mũi kim nhỏ màu đen đột nhiên đâm vào, cắm vào thịt ba phân. Ngọn lửa trên mũi kim tắt đi, dường như có một sợi tơ lửa chui vào trong cơ thể người đó.

Người đó thở mạnh một hơi, mở to mắt, lại không hề nhúc nhích.

“Các ngươi từ đâu tới?” Lý Thuần Phong trầm giọng hỏi. “Ai phái các ngươi đến?”

Người đó trợn to hai mắt, ánh mắt lại hoàn toàn không có tiêu điểm, lẩm bẩm nói, “Người bất lương… Vương… Quân Khả…”

Nói rồi người đó đột nhiên ngoẹo đầu, lần này đã thực sự chết.

Lý Thuần Phong thu kim, cùng Huyền Trang đối mặt một cái, một hồi lâu im lặng không nói gì.

“Người bất lương là ai?” Địch Văn hỏi.

“Người bất lương không phải người, đó là một tổ chức,” Lý Thuần Phong nói. “Triều đình trưng dụng người có tội ác làm tiểu lại chuyên truy tìm lùng bắt, bởi vì những người này đều không phải người đàng hoàng, liền xưng là ‘người bất lương’. Nha môn của bọn chúng đặt bên trong hoàng thành, thủ lĩnh gọi là bất lương soái. Chủ yếu là truy tìm động tĩnh của ngoại tộc, cho nên trưng dụng rất nhiều người Hồ, Bệ hạ đã từng hạ lệnh để các châu gần biên giới chiêu mộ một số người Hồ có tài năng đặc thù tiến cử đến Trường An. Chắc hẳn những người này đã bị Vương Quân Khả tự ý giữ lại, nuôi dưỡng đào tạo.”

Huyền Trang chậm rãi nói, “Xem ra chúng ta gặp phiền phức lớn rồi.”

“Vương Quân Khả muốn giết chúng ta!” Lý Thuần Phong cười khổ. “Rốt cuộc chúng ta đã để lộ tin tức ở đâu?”

“Chỉ sợ Thế tử bị theo dõi rồi,” Huyền Trang buồn bã nói. “Vương Lợi Thiệp có thể đưa tin tức đến Qua Châu được hay không, rất khó nói.”

Lúc này xung quanh đột nhiên yên lặng, Huyền Trang và Lý Thuần Phong lập tức cảnh giác, có cảm giác nổi da gà.

“Mau đi!” Địch Văn nói nhỏ.

Hai người không dám ở lại, cũng biết Địch Văn sẽ không gặp nguy hiểm nên lập tức cảm tạ nàng, thừa dịp đêm tối chui vào trong rừng cây.

Hai người vừa mới đi đã thấy Khuê Mộc Lang đã khôi phục thành hình người, toàn thân dính máu, xách một cái đầu người xuất hiện ở cuối đường đất. Nhìn thấy Địch Văn đứng một mình ở bên cạnh ngôi đình đã cháy sụp, Khuê Mộc Lang ném cái đầu xuống, sắc mặt âm trầm đi tới chỗ nàng.

Địch Văn vẻ mặt hoảng sợ, lui lại từng bước.

Khuê Mộc Lang đi vài bước, đột nhiên thân thể nghiêng sang một bên, ngã bệt xuống đất. Hắn thở dốc một lát, đột nhiên ngẩng đầu hú dài, tiếng hú tràn ngập thê lương và giận dữ truyền đi rất xa trong bóng đêm.

Khuê Mộc Lang vất vả đứng dậy, ngồi trên bậc thềm không bị ngọn lửa lan đến, sau lưng chính là ngọn lửa hừng hực, khiến khuôn mặt hắn càng thêm u ám và âm trầm.

“Nàng sợ ta à?” Khuê Mộc Lang hỏi.

Địch Văn căng thẳng lắc đầu, không đáp.

“Bây giờ ta thấy hối hận vì đã đi tới nhân gian này,” Khuê Mộc Lang chậm rãi nói. “Giống như ở thiên đình vậy, cô đơn lạnh lẽo, lẻ loi một mình; mỗi người đều như một ngôi sao, ở giữa là biển cả mênh mông, vực sâu tăm tối, mặc dù sao trời dày đặc nhưng lại chỉ có thể nhìn từ xa mà không chạm vào được.”

“Ngươi có thể giết ta,” Địch Văn nói.

“Thần linh có tính mạng lâu dài, không lão không chết, vô vị đến cực điểm.” Khuê Mộc Lang nhìn nàng, vẻ mặt phức tạp. “Cho nên đối với thần lỉnh mà nói, tương lai không có thay đổi gì, chỉ có kí ức quá khứ là đặc sắc. Trong cô đơn lạnh lẽo, các thần linh vừa hồi tưởng liền đi vào cõi thần tiên suốt mấy nghìn năm. Nàng muốn ta hết lần này tới lần khác nhớ lại một tình yêu tan vỡ trong tính mạng lâu dài của ta hay sao?”

“Nhưng ngươi không thắng nổi,” Địch Văn lạnh nhạt nói.

Khuê Mộc Lang có chút bi thương, ngồi trên bậc thềm không nói gì nữa. Hai người nhìn ngọn lửa trước mắt cuốn hết sao trời, những đốm lửa bay lên cao sau đó rơi xuống, tựa như ở trên Phụ Lộ thiên đình nhìn sao rơi như mưa.

Thành con Đôn Hoàng,

hậu trạch phủ Thứ sử.

Giờ Mão ngày mới, mặt trời chưa mọc, trống mở cửa từ chòi canh truyền đến vẫn ầm ầm vang dội. Trong phòng ở hậu trạch phủ Thứ sử cũng có tiếng vang ầm ầm đinh tai nhức óc.

Vương Quân Khả dẫn Vương Quân Thịnh vội vã đi tới hậu trạch, trong hậu trạch đang chuẩn bị cho việc xuất giá của Ngư Tảo, chế tạo đèn lồng và dệt may áo cưới, mấy chục cuộn tơ lụa với các loại màu sắc bị cắt ra, dùng để trang trí khắp nơi, bầu không khí tràn ngập niềm vui sướng cùng với hân hoan.

Vẻ mặt hai người lại lo lắng, đi tới ngoài nhà của Ngư Tảo, đứng ở ngoài cửa phòng nghiêng tai nghe, chỉ nghe thấy trong phòng có tiếng đập phá ầm ầm, tiếng đồ đạc vỡ vụn, thậm chí có cả tiếng binh khí đang va chạm leng keng vang lên không ngừng.

Vương Quân Khả há miệng, thấp giọng hỏi. “Làm sao lại đánh lên rồi?”

“Không biết!” Vương Quân Thịnh cười gượng. “Vừa qua khỏi giờ Mão Thế tử liền đến, nói muốn gặp Thập Nhị Nương. Ngài đã dặn dò để Thế tử và Thập Nhị Nương tiếp xúc nhiều hơn, bồi dưỡng tình cảm, vì thế ta không ngăn cản, đưa Thế tử vào nội trạch. Cũng không biết có chuyện gì, chưa nói vài câu đã động thủ rồi!”

“Ai da, bây giờ nên làm thế nào cho phải!” Vương Quân Khả hết sức phiền muộn.

“Quả thực là quá đáng!” Vương Quân Thịnh lộ vẻ tức giận. “Dám động thủ với tiểu nương tử nhà ta, còn ra thể thống gì nữa!”

“Nói bậy cái gì thế? Ta là sợ Thế tử bị đánh tàn phế,” Vương Quân Khả nói.

Vương Quân Thịnh nghẹn lời không biết nói gì, suy nghĩ một lát, quả thật là thế, lại không khỏi thấy hơi lo lắng. “Vậy… vậy phải làm sao bây giờ? Còn chưa đón dâu qua cửa mà.”

Lúc này có nô tì vội vã chạy tới, đang định nói thì Vương Quân Khả dựng ngón tay lên bên môi, nô tì hiểu ý, nói nhỏ. “Khách đã tới.”

Vương Quân Khả thở ra một hơi, nói khẽ. “Xong việc rồi!”

Vương Quân Khả xoay người đi luôn, Vương Quân Thịnh vội vàng đuổi theo. “Vậy bên này ta có cần ngăn cản một chút không?”

“Không cần. Chắc là Thế tử có thể chịu được đòn.” Vương Quân Khả lắc đầu, trong lòng cũng hơi thấp thỏm.

Trong phòng, khắp nơi đồ đạc và dụng cụ vỡ nát, Lý Thiền mặt mũi bầm dập nằm dưới đất, Ngư Tảo dùng đầu gối đè lên ngực hắn, một thanh hoành đao kề vào cổ hắn. Lý Thiền dang rộng hai tay làm động tác đầu hàng, thở cũng không dám thở mạnh.

Ngư Tảo cẩn thận lắng nghe động tĩnh bên ngoài. “Đi rồi!”

“Có thể thả ta ra được chưa?” Lý Thiền đau đến mức thở cũng thở không đều.

Ngư Tảo cười lạnh lùng. “Vu khống a gia ta tạo phản! Một chút đau khổ này còn chưa đáng là gì! Ngươi tiếp tục nói!”

Lý Thiền chỉ chỉ ngực mình, Ngư Tảo đứng dậy, Lý Thiên vùng vẫy ngồi dậy, không ngừng thở dốc.

Thì ra đêm qua sau khi Huyền Trang đi, đúng lúc tiếng trống đóng cửa vừa dừng lại. Đầy đầu óc Lý Thiền đều là tin tức Vương Quân Khả muốn tạo phản, nhất thời lòng như tơ vò, ngồi trên bậc thềm quán rượu phường Trường Ninh, si ngốc nhìn đến bình minh. Giờ Mão, tiếng trống mở cửa vừa vang lên hắn liền chạy đến phủ Thứ sử gặp Ngư Tảo, vừa nói ra những suy luận của Huyền Trang liền bị đánh cho một trận tơi bời.

“Đây không phải ta vu khống, là sư phụ ta suy đoán. Ta cũng không dám tin, vì vậy mới đến bàn bạc với cô nương.” Lý Thiền lập tức bán đứng sư phụ mình.

“Gã hòa thượng Huyền Trang đó là một kẻ ngốc!” Ngư Tảo cười lạnh lùng. “Ta hỏi ngươi, vì sao a gia ta phải tạo phản? Tạo phản có chỗ tốt gì đối với ông ấy?”

Lý Thiền đã nghĩ cả đêm nhưng cũng không nghĩ ra. “Có lẽ… muốn cát cứ Tây Sa Châu, tự lập làm vương?”

“Nói bậy!” Ngư Tảo giận dữ dùng sống đao đánh hắn ngã xuống, Lý Thiền kêu thảm một tiếng.

“Tây Sa Châu to bằng chừng nào? Huyện lị chỉ có hai tòa, dân số không đến ba vạn, cô độc ở giữa sa mạc, mặc dù phủ binh và trấn thú binh có thể chiêu mộ được bảy nghìn người, nhưng làm thế nào mà ngăn cản a gia ngươi và Ngưu Tiến Đạt ở Túc Châu liên hợp thảo phạt?” Ngư Tảo dùng mũi đao chi vào hắn, tức giận trách mắng. “Đầu óc của ngươi bị chó ăn rồi…”

“Là sư phụ ta suy đoán mà!” Lý Thiền vội vàng nhắc lại.

“Ta không sỉ nhục tăng nhân.” Ngư Tảo tiep tục nói, “Sư phụ ngươi suy đoán, nhưng vẫn là đầu óc của ngươi bị chó ăn rồi! A gia ta chỉ là lưu quan, không hề có căn cơ ở Đôn Hoàng, sĩ tộc Đôn Hoàng thế lực khổng lồ, ông ấy làm thế nào mà có thể khống chế khiến bọn chúng tạo phản theo ông ấy?”

“Là sư phụ ta suy đoán!” Lý Thiền không dám phản bác một câu nào, chỉ nhắc lại lần nữa.

“Sư phụ ngươi đâu?” Ngư Tảo tức giận đến mức đá hắn một cước.

“Đêm qua sư phụ đi tìm Khuê Mộc Lang rồi. Ông ấy nói Khuê Mộc Lang và phụ thân nàng âm thầm cấu kết, ông ấy mang thầy thuốc đến khám chữa cho Khuê Mộc Lang.” Lý Thiền đứng dậy. “Xem ý ông ấy thì ông ấy muốn chứng thực chân tướng ở chỗ Khuê Mộc Lang.”

Ngư Tảo sửng sốt một lát, đột nhiên nổi giận. “Đêm qua ông ấy đã đi, vì sao sáng nay ngươi mới đến tìm ta?”

Lý Thiền phản ứng mau lẹ, vù một tiếng nhảy ra xa, cách Ngư Tảo một quãng. “Đêm qua vốn muốn đến, nhưng cổng phường đóng rồi mà!”

“Cổng phường đóng rồi…” Ngư Tảo bị hắn làm cho tức giận tới mức nhất thời không nói được câu nào. “Ngươi không biết leo tường mà vào à? Chuyện lớn như vậy, bị vũ hậu bắt thì có làm sao?”

“Bị vũ hậu bắt thì không sợ, nhưng leo tường… sẽ ảnh hưởng đến danh dự của nàng!” Lý Thiền biện bạch, thấy Ngư Tảo lại bị chọc giận đến mức chuẩn bị vung đao chém hắn, hắn vội vàng nói. “Hơn nữa sư phụ còn dặn ta, dặn ta chứng thực một việc.”

“Việc gì? Nói!” Ngư Tảo nghiến răng nghiến lợi khua khua đao.

“Sư phụ nói, nếu phụ thân nàng muốn…” Lý Thiền không dám nói nữa, ngập ngừng vài câu, âm thanh thấp đến mức không thể nghe thấy.

“Mưu phản!” Ngư Tảo nói lớn tiếng. “Đừng có dông dài lề mề nữa!”

“Ôi, sư phụ nói, nếu phụ thân nàng muốn mưu phản, nhất định sẽ nắm lấy binh quyền thủ tróc Tử Đình với trấn Tử Kim, bởi vì ông ấy tuyệt đối sẽ không cho phép đại quân của mình ở phía trước, sau lưng lại bị sĩ tộc Đôn Hoàng đâm dao,” Lý Thiền nói. “Cho nên sư phụ dặn ta xác nhận việc này. Nếu như Địch Thuật và Tống Giai có thể giữ lại binh quyền, nói rõ phán đoán của ông ấy có sai lầm. Nếu như hai nhà bị đoạt binh quyền, nói rõ phụ thân nàng đúng là có ý này.”

“Kể ra cũng có lý.” Ngư Tảo cân nhắc.

Châu biên giới từ trước đến nay vẫn là nơi không ổn định, triều đình tính toán rất nhiều về việc phân phối binh quyền. Những vấn đề như quân tướng bản địa có bao nhiêu, lưu quan bên ngoài có bao nhiêu, sĩ tộc có bao nhiêu, bình dân có bao nhiêu, ai phối hợp với ai, ai cân bằng với ai, đều trải qua quá trình cân nhắc rất kỹ càng. Tất cả các đại quan biên giới trong lòng đều biết rõ về quy tắc ngầm này.

Tây Sa Châu có ba trấn bốn thủ tróc, Vương Quân Khả ngươi điều chỉnh một hai nơi để củng cố quyền lực, triều đình cùng không để ý, nhưng một khi có ý đồ khống chế tất cả mọi binh quyền, như vậy rõ ràng là có dị tâm. Bởi vì ngươi là lưu quan!

“Đi theo ta!” Ngư Tảo xông tới tóm lấy Lý Thiền, kéo hắn đi ra cửa.

Hai người vừa rồi đánh một trận lớn, đám tì nữ đều tránh ra xa, trong hậu trạch vắng tanh, Ngư Tảo dẫn Lý Thiền đi tới cửa sau chính đường rồi lặng lẽ trốn ở trong cửa.

Chính đường và cửa sau cách một bức bình phong, Vương Quân Khả đang tiếp khách, giữa tám tấm bình phong có khe hở, xuyên qua khe hở lờ mờ nhìn thấy mấy bóng người, nhưng không thấy rõ diện mạo.

“Trương công!” Chỉ nghe thấy Vương Quân Khả cười nói. “Đã như vậy, hai nhà chúng ta liền định ra hôn ước, hôm nay ta sẽ phái người tới nhà nạp chinh.”

Một âm thanh già nua nói, “Hôm nay nạp chinh? Sáu lễ cần trải qua nạp thái, vấn danh, nạp cát, nạp chinh, thỉnh kỳ rồi đến thân nghênh, ít nhất cần chuẩn bị nửa năm, trực tiếp nạp chinh chẳng lẽ không phải là hơi quá mức vội vàng rồi sao? Hai nhà chúng ta đều là cao môn Đôn Hoàng, vội vàng như vậy sợ là sẽ khiến người ngoài nhạo báng.”

Ngư Tảo và Lý Thiền nhìn nhau một cái, nghe nội dung thì không ngờ ông lão này lại là Trương Tệ! Trương thị đã khuất phục rồi? Hai người nhất thời đều vừa ngạc nhiên lại vừa nghi ngờ.

“Ha ha…” Vương Quân Khả cười to. “Trương công, hai nhà chúng ta bắt tay giảng hòa, người Đôn Hoàng sẽ chỉ vui mừng khôn xiết, ai dám nhạo báng chứ?”

Giọng nói của Địch Xương bên cạnh vang lên. “Trương công, chuyện đặc thù cần làm kiểu đặc thù, nạp thái, vấn danh và nạp cát đều chỉ là một số lễ nghi phiền phức thôi. Sau khi nạp chinh, việc hôn nhân của hai nhà mới coi như được xác định, còn lại chuyện thỉnh kỳ và thân nghênh sẽ chậm rãi chuẩn bị cũng không muộn.”

‘“Cái này…” Trương Tệ vẫn hơi chần chừ.

Giọng nói của Lệnh Hồ Đức Mậu vang lên. “Trương công, Khuê Mộc Lang đã chạy tới Đôn Hoàng rồi, lúc này đang cần chúng ta đồng tâm hiệp lực với Thứ sử, chung tay giết sói. Ngài bây giờ chỉ gặp phải lễ nghi phiền phức, còn năm đó Hoằng Nghiệp công phải hy sinh cả con gái ruột của mình nữa kìa!”

Mọi người trong chính đường đều nhất thời im lặng.

Trương Tệ dường như đứng dậy thi lễ với Địch Xương. “Hoằng Nghiệp công cao thượng, ta hết sức xấu hổ. Đã như vậy liền quyết định thế đi! Có điều ta nhất định phải nhận được một câu hứa hẹn của Thứ sử, Khuê Mộc Lang hôm nay phải chết!”

Vương Quân Khả vỗ bàn. “Tốt! Hai mươi nghìn tiền lụa kia các ngài chuẩn bị trong vòng ba ngày là được, chỉ cần hôm nay giao ra binh quyền thủ tróc Tử Đình và trấn Tử Kim, ta nhất định sẽ giết Khuê Mộc Lang! Địch công và Tống công có ý kiến gì khác không?”

Địch Xương thản nhiên nói, “Không có ý kiến khác.”

Gia chủ Tống thị là Tống Thừa Đảo không ngờ cũng có ở đó, trầm giọng nói, “Không có ý kiến khác.”

Sau chính đường, Ngư Tảo giống như bị một tia sét đánh trúng, ngơ ngẩn ngã bệt xuống đất.

Lý Thiền vội vàng rón rén bò đến bên cạnh nàng, thấp giọng gọi bên tai. “Thập Nhị Nương…”

“Lữ… Khuê Mộc Lang bây giờ đang ở đâu?” Ngư Tảo lẩm bẩm.

“Nghe sư phụ nói, hắn muốn đến Tây Quật giết một người,” Lý Thiền nói.

“Đi…” Sắc mặt Ngư Tảo tái mét, nàng lảo đảo đứng dậy. “Chúng ta tới Tây Quật!”

Một chiếc xe to bên trên có kiệu xe màu đen chạy ra khỏi trấn Thất Lí, vào trong sa mạc Gobi mênh mông.

Trấn Thất Lý nằm ở tây nam châu thành Đôn Hoàng, cách châu thành bảy dặm, rời khỏi trấn Thất Lí liền ra khỏi ốc đảo Đôn Hoàng, đi vào cổ đạo Sa Thích. Theo cổ đạo này đi bảy mươi dặm về hướng tây nam chính là hang nghìn Phật, do nó nằm ở phía tây thành Đôn Hoàng nên được gọi là Tây Quật, còn hang Mạc Cao tất nhiên chính là Đông Quật.

Từ Tây Quật tiếp tục đi về phía tây sáu mươi dặm là Dương Quan. Đời sau có thơ rằng: Mời anh cạn chén rượu nồng, qua Dương Quan đó không còn cố nhân.

Ở ngoài Dương Quan chính là Tây Vực mênh mông, đi một nghìn năm trăm dặm trong sa mạc Gobi trên không có chim bay, dưới không có thú chạy, có thể đến Thiện Thiện và Vu Điền. Dương Quan và Ngọc Môn Quan tạo thành nam đạo Tây Vực, khác nhau ở chỗ Ngọc Môn Quan vòng qua sa mạc La Bố Bạc ở phía bắc, còn Dương Quan thì vòng qua sa mạc La Bố Bạc ở phía nam.

Thương lộ từ thành Đôn Hoàng đến Dương Quan phồn vinh nhất, bởi vì con đường này không chỉ có thể đi tới các nước Tây Vực như Thiện Thiện mà đến chỗ rẽ ở sông Cam Tuyền phía đông Tây Quật còn có một lối đi xuyên qua miệng núi Kỳ Liên, có thể đến Thổ Dục Hồn. Trạm trung chuyển quan trọng nhất trên thương lộ Ngọc Môn Quan là thành Lâu Lan sớm đã bị bỏ hoang, đường đi hoang vu, bây giờ đại đa số khách buôn đều đi qua Dương Quan. Trên con đường này có rất nhiều khách buôn và người đi đường.

Chiếc kiệu xe màu đen chạy lộc cộc, Khuê Nhất và Khuê Lục thay minh quang khải giáp, mặc một bộ thường phục bình thường, đeo cung tên mang hoành đao, hộ vệ hai bên kiệu. Sau kiệu xe là mười tên lang binh Ngọc Môn Quan và đám người Trịnh Biệt giá, Triệu Phú, còn mướn một số nô bộc, đánh hai chiếc xe trâu chở đồ đạc đi theo như áo giáp, binh khí, quần áo và đồ ăn thức uống, thoạt nhìn như một nhà giàu đang tiến về phía Tây Quật để lễ Phật.

Trong xe kiệu, Lữ Thịnh dùng một tấm chăn nỉ bọc trên người Địch Văn, ôm nàng trong lòng. Cách chăn nỉ, hai người dựa đầu vào nhau, lắc lư rung động cùng với sự chấn động của xe kiệu.

Vị Lữ Thịnh này ánh mắt trong trẻo, mặc dù mang một chút đau thương nhưng vẻ mặt lại ung dung cao quý, rõ ràng là Lữ Thịnh thật sự.

Thì ra đêm qua kịch chiến một trận, mặc dù Khuê Mộc Lang đã giết sạch đám người bất lương nhưng chính mình lại trúng quỷ huyệt lục châm của Lý Thuần Phong. Bộ Thập tam quỷ lục châm do Tôn Tư Mạc truyền xuống này không thể xem thường, chuyên phá tà ma nhập thể, xua ma trừ tà. Mặc dù linh thể Khuê Mộc Lang là thần linh nhưng thân thể lại chỉ là phàm nhân, sau khi bị kim đâm vào người, hắn gặp rất nhiều khó khăn trong việc điều khiển thân thể, chẳng khác gì rơi vào đầm lầy.

Khuê Mộc Lang đành phải tạm thời từ bỏ quyền khống chế thể xác, trầm ẩn thần hồn, luyện hóa châm độc. Thế là Lữ Thịnh có thể khống chế thể xác ngoài ý muốn, Địch Văn vừa ngạc nhiên vừa vui mừng, đối với bọn họ mà nói, một lát vui vẻ cũng là hiếm hoi vô cùng. Người vui mừng hơn nữa là Triệu Phú. Sau khi trở lại miếu Lý, Khuê Mộc Lang vốn muốn xử tử hắn, vừa mới hạ mệnh lệnh liền không thể không chìm vào ngủ say, còn Lữ Thịnh lại hạ lệnh phóng thích hắn.

Triệu Phú xem như nhặt được một mạng từ Quỷ Môn Quan về, lúc này đi theo hầu hạ đặc biệt cần mẫn.

Trịnh Biệt giá chính là tín đồ cuồng nhiệt của Khuê Mộc Lang, đám tinh tướng thì chấp hành mệnh lệnh một cách máy móc, những việc nhỏ này bọn chúng sẵn sàng thỏa hiệp, nhưng đại sự đến Tây Quật giết chết Lệnh Hồ Đức Mông thì Lữ Thịnh không thể làm chủ được. Kể cả việc phái ra Khuê Tam, Khuê Ngũ, Khuê Thất và Khuê Thập Nhị mỗi tên dẫn một ngũ người đuổi giết Huyền Trang và Lý Thuần Phong, hắn cũng không can thiệp được. Thế là mặc dù Lữ Thịnh và Địch Văn đoàn tụ, nhưng lại không hề được tự do, bị Trịnh Biệt giá và các tinh tướng kéo theo, đi về phía hang nghìn Phật.

Từ phía tây châu thành đến hang nghìn Phật, về cơ bản là đi ngược dòng nước kênh Đô Hương. Kênh ở Đôn Hoàng đều là dẫn nước từ sông Cam Tuyền mà đến, từ thượng du đến hạ du chủ yếu có ba kênh lớn gồm kênh Nghi Thu, kênh Đô Hương và kênh Mạnh Thụ; các kênh lớn lại chia ra vô số kênh mương nhánh, tưới tắm cho vô số ruộng tốt ở phía tây châu thành.

Sau khi đoàn người đến trấn Thất Lý thì vừa khéo gặp được Khuê Ngũ. Khuê Ngũ toàn thân là máu, rất chật vật, một ngũ lang binh dẫn theo cũng chỉ còn lại hai người.

Thì ra từ đêm qua đến giữa trưa hôm nay, đám tinh tướng triển khai một cuộc lùng bắt, bao vây và săn giết quy mô lớn nhằm vào Huyền Trang. Huyền Trang và Lý Thuần Phong đi thẳng về hướng tây nam, song phương xảy ra kịch chiến, ba gã lang binh chết trận.

Lữ Thịnh hết sức kinh ngạc. “Từ lúc nào mà pháp sư và Lý Thuần Phong giỏi đánh nhau như vậy?”

“Huyền Trang dẫn đám người Khuê Ngũ vào ụ khói lửa, Khuê Ngũ cùng các thú binh xảy ra kịch chiến.” Sắc mặt Trịnh Biệt giá rất khó coi.

Triệu Phú cười trên nỗi đau của người khác. “Mặc dù pháp sư Huyền Trang không thông võ công, nhưng để đối phó với đám quái vật ngốc nghếch thô kệch như Khuê Ngũ thì dù một trăm tên tới cũng không đáng kể.”

Trịnh Biệt giá giận tím mặt, đang định nói thì Lữ Thịnh ngăn cản hắn. “Pháp sư Huyền Trang biết rõ các ngươi muốn đến Tây Quật giết Lệnh Hồ Đức Mông, vì sao phải trốn về hướng tây nam?”

Trịnh Biệt giá hậm hực nói, “Có lẽ bởi vì đi về phía đông là châu thành, bọn chúng không dám lao vào lưới của Vương Quân Khả. Hướng tây là sa mạc lớn, không có đường để đi. Phía bắc đều là nông thôn, đi cũng không để làm gì. Huyền Trang đến Tây Quật cũng tốt, sau khi giết Lệnh Hồ Đức Mông, nhân tiện sẽ bắt hắn luôn.”

Lữ Thịnh châm chọc. “Tây Quật có trăm nghìn hang Phật, Lệnh Hồ Đức Mông cố ý ẩn nấp, đâu có dễ dàng bắt được như vậy!”

Trịnh Biệt giá lạnh nhạt nói, “Không làm phiền lang quân phải bận tâm, Khuê thần sớm đã sắp xếp tốt rồi. Người đâu, khởi hành!”

Lữ Thịnh lên xe, Triệu Phú vội vàng ân cần vén rèm ra, Lữ Thịnh chui vào trong kiệu. Mọi người bảo vệ xung quanh kiệu, rời khỏi trấn Thất Lí chạy vào cổ đạo Sa Thích.

Địch Văn ở trong xe hiển nhiên đã nghe thấy đoạn đối thoại vừa rồi, vội vàng hỏi. “Tứ Lang, pháp sư Huyền Trang cứ chạy trốn là xong, vì sao lại phải đến Tây Quật?”

“Pháp sư là vì ta.” Lữ Thịnh nói đắng chát.

“Vì chàng?” Địch Văn không hiểu.

Lữ Thịnh nói, “Pháp sư một lòng muốn tìm ra bí mật quá khứ của ta, giải đáp bí mật Khuê Mộc Lang nhập hồn. Còn Khuê Mộc Lang nhất định muốn giết Lệnh Hồ Đức Mông, trong chuyện này tất nhiên giấu giếm một âm mưu to lớn. Lệnh Hồ Đức Mông đã ẩn thân Tây Quật, pháp sư đương nhiên cũng không ngại gian nguy mà đi một chuyến.”

“Tình nghĩa thâm hậu của pháp sư Huyền Trang, vợ chồng chúng ta phải báo đáp thế nào?” Địch Văn thở dài một tiếng. “Tứ Lang, thiếp rất sợ đến Tây Quật. Còn vì nguyên nhân gì… Thiếp lại không thể nói rõ ra được, luôn cảm thấy nơi này khiến thiếp tràn ngập sợ hãi.”

“Yên tâm, tất cả đã có ta.” Lữ Thịnh vuốt ve vai nàng, an ủi.

“Tứ Lang, chúng ta chạy trốn đi!” Địch Văn cách chăn nỉ nắm chặt lấy tay hắn, van nài nói.

“Trốn đi đâu?” Lữ Thịnh ngẩn ra một lát, rồi chậm rãi nói. “Khuê Mộc Lang ở trong cơ thể ta, cho dù đi khắp chân trời góc biển, ta cũng không có cách nào thoát khỏi hắn. Văn Nhi, ta bây giờ là một cái xác không hồn, chỉ còn lại hai mươi ngày tuổi thọ, nàng và ta đã không còn bao nhiêu ngày ở trên nhân thế nữa.”

Địch Văn bỗng nhiên khóc lớn, Lữ Thịnh ôm nàng, sắc mặt thương cảm.

“Chớ khóc, chớ khóc nữa.” Lữ Thịnh an ủi nàng. “Ngay từ nửa năm trước, chẳng phải chúng ta đã biết kết quả này rồi sao? Thân thể ta bị tàn phá đến nay, kết quả này cũng là hợp tình hợp lý. Bây giờ chuyện duy nhất ta không bỏ xuống được, ngoài tra ra quá khứ của ta năm đó thì chỉ có nàng. Văn Nhi, ta không nỡ rời nàng, không nỡ bỏ lại một mình nàng ở trên trần thế này.”

“Chàng chết rồi, thiếp làm sao còn có thể sống được nữa?” Địch Văn ngẩng mặt lên, vừa khóc vừa nói.

Sắc mặt Lữ Thịnh trở nên nghiêm khắc. “Chẳng phải chúng ta sớm đã ước định hay sao? Ta chết rồi, nàng phải sống tiếp! Ta không muốn làm Tiêu Trọng Khanh, không muốn làm Sở Bá Vương. Đàn ông chết rồi, phụ nữ phải tiếp tục sống, hơn nữa phải sống thật đặc sắc, sống thật vui vẻ!”

“Trời mưa lâm thâm, sông lớn nước sâu, mặt trời trong tim.” Địch Văn thấp giọng ngâm.

Lữ Thịnh ngẩn ra, lập tức thấy buồn bã. Với học thức của hắn, hắn tất nhiên biết Địch Văn đọc một câu thơ của vợ Hàn Bằng.

Trong Tam than kí của Can Bảo thời Đông Tấn ghi lại một câu chuyện, kể rằng thời Chiến quốc, Xá nhân của Tống Khang Vương là Hàn Bằng có vợ là Hà thị. Hà thị xinh đẹp, bị Khang Vương cướp mất. Hàn Bằng oán hận, Tống Khang Vương bắt hắn bỏ tù, trở thành thành đán. Thành đán là một khổ hình chỉ kém tử hình, chính là làm phu xây thành.

Hà thị bí mật gửi thư cho Hàn Bằng, trong thư là mấy câu ấy: Trời mưa lâm thâm, sông lớn nước sâu, mặt trời trong tim.

Tống Khang Vương nhận được thư, lại không hiểu ý. Có bề tôi nói. “Trời mưa lâm thâm, u buồn não nề; sông lớn nước sâu, ngăn cách đôi ta; mặt trời trong tim, lòng mang tử chí.”

Không lâu sau, Hàn Bằng tự tử.

Hà thị bí mật làm mục y phục của mình. Có một ngày Tống Khang Vương cùng Hà thị trèo lên đài cao, Hà thị nhảy xuống đài cao tự tử. Tùy tùng hai bên kéo lấy áo nàng, nhưng quần áo sớm đã mủn ra, Hà thị rơi xuống mà chết. Nàng để lại di thư: Vương vui được sống, thiếp vui được chết, mong lấy hài cốt, ban cho hợp táng! Tống Khang Vương giận dữ, chôn hai người hai nơi, xa xa nhìn nhau. Tuy nhiên sau một đêm, hai cây thị lớn từ hai ngôi mộ mọc lên, thân cây quấn lấy nhau, rễ cây đan vào nhau, người Tống gọi là cây tương tư.

Lữ Thịnh và Địch Văn chung hoạn nạn nhiều năm, tâm ý tương thông, Địch Văn không cần phải nói bất cứ lời nào, chỉ một câu thơ này Lữ Thịnh đã hoàn toàn hiểu được tâm tư của nàng.

Lữ Thịnh ngơ ngác nhìn nàng, hai mắt từ từ đỏ lên. “Ngu Cơ Ngu Cơ làm thế nào? Bây giờ cuối cùng ta đã hiểu nỗi đau khổ của Sở Bá Vương, không nỡ để Ngu Cơ chết, lại không muốn để Ngu Cơ sống nhục nhã. Nhưng ta không phải Sở Bá Vương, chuyện hắn không làm được, ta có thể làm được! Văn Nhi, sau khi ta chết, ta sẽ làm cho nàng sống, sống rực rỡ vui vẻ, người đời tôn sùng!”

“Thế gian này dù tốt đẹp đến mấy, lại không có chàng, thì có vị gì?” Địch Văn vừa khóc vừa nói.

“Thế gian trăm vị, ta đã nếm đủ,” Lữ Thịnh chậm rãi nói. “Có lẽ Khuê Mộc Lang nói đúng, nhân gian này chính là một tòa thiên đình khác. Từ dưới đất nhìn thấy sao sáng mọc lên chen vai sát cánh, nhưng bản thân họ cũng biết hai bên cách xa vực sâu biển sao, ngàn vạn do tuần. Năm đó hắn cùng thị nữ điện Phi Hương đứng ở trên Phụ Lộ ngắm sao lặn sao mọc, thật sự là vai sánh vai sao? Cho nên, Văn Nhi, sau khi ta chết, giữa nàng và ta chỉ cách nhau có một tòa âm dương thôi.”

Địch Văn khóc nức nở không ngừng.

Đúng lúc này tiếng vó ngựa như sấm rền truyền đến, Lữ Thịnh vén rèm lên nhìn, không ngờ lại là Khuê Thập Nhị dẫn một ngũ người đuổi giết Huyền Trang từ phía trước trở lại.

Trong lòng Lữ Thịnh trĩu nặng, quát. “Chẳng lẽ bắt được pháp sư Huyền Trang rồi sao?”

Triệu Phú vội vàng đi tới dò hỏi, một lát sau Khuê Thập Nhị thúc ngựa đi tới trước xe. Đầu óc tinh tướng luôn không được nhạy bén, nói năng cũng mơ hồ không rõ. “Hồi bẩm… lang… lang quân, chưa hề… bắt được… Huyền Trang.”

“Vậy vì sao ngươi lại quay về?” Lữ Thịnh hỏi.

Khuê Thập Nhị nói, “Thuộc hạ… thuộc hạ thăm dò được… Huyền… Huyền Trang từ… đầu kênh lên thuyền… đi đường thủy đến… Tây Quật!”

Huyền Trang và Lý Thuần Phong không ngừng chạy trốn, cuối cùng đi đường thủy đến Tây Quật.

Mới đầu Lý Thuần Phong đưa ra ý kiến, cho rằng đi đường thủy mất thời gian, Huyền Trang nói với hắn. “Từ trấn That Lí đến Tây Quật, nếu đi cổ đạo Sa Thích, trên đường đi có ba ụ khói lửa Bạch Sơn Phong, Phá Khương Đình và Sơn Khuyết Phong khám nghiệm quá sở, đặc biệt là Sơn Khuyết Phong chính là nơi thủ tróc Tử Đình trú đóng trọng binh. Vương Quân Khả muốn giết chúng ta, những ụ khói lửa này không biết có bao nhiêu người là thủ hạ tâm phúc của hắn, sớm đã giăng lưới chờ bắt chúng ta rồi!”

Lý Thuần Phong suy nghĩ một lát, quả thật là thế, lập tức gật đầu đồng ý. “Cũng đúng. Chúng ta đi đường thủy, đám tinh tướng đó không thể cưỡi ngựa đuổi giết chúng ta được!”

Bởi vì Tây Quật đục hang tạc tượng cần dùng đến lượng lớn vật liệu gỗ, mà nơi này là núi đá, không có cỏ cây, vì vậy vật liệu gỗ đều phải dựa vào sức người vận chuyển từ Đôn Hoàng hoặc huyện Thọ Xương đến.

Tuy nhiên khu vực Sa Thích đường sá xa xôi, vận chuyển không tiện, cộng thêm hang Phật đều mở trên vách núi giữa sa mạc nên khó mà chuyên chở vật liệu gỗ. Bởi vậy liền có thuyền đi trên kênh, chất vật liệu gỗ lên thuyền rồi ngược nước mà đi, từ kênh Đô Hương và kênh Bắc Phủ đi qua cửa kênh vào sông Cam Tuyền, lại từ sông Cam Tuyền ngược dòng đi đến dưới hang Phật. Mặc dù tàu thuyền cũng phải có trâu ngựa kéo thuyền, nhưng so với sức người thì khó khăn khi vận chuyển đã nhỏ đi rất nhiều.

Miệng kênh Đô Hương là một trong năm cửa kênh lớn của Đôn Hoàng, cách trấn Thất Lý cũng không xa, chỉ có dăm ba dặm đường. Bên cạnh có Lập thủy ty, Cừ bạc sử cùng Bình thủy lại phụ trách công việc bảo vệ và dẫn nước vào cửa kênh.

Huyền Trang và Lý Thuần Phong đều là lần đầu tiên đến đây, trèo lên đê đi tới cửa kênh, không nhịn được mà thán phục; chỉ thấy sông Cam Tuyền cuồn cuộn chảy về hướng tây bắc, ở giữa sông là một con đập to lớn chia dòng sông ra thành hai nửa; nửa sông lớn vẫn theo lòng sông mà đi, nửa sông nhỏ hơn lại bị dẫn vào trong kênh Đô Hương.

Trên kênh Đô Hương đang có hơn mười chiếc thuyền ngược dòng mà lên, đi qua cửa kênh. Trên con đường ven kênh có mười mấy con la ngựa, cứ bốn con làm thành một nhóm, buộc dây kéo thuyền vất vả đi lên. Có điều nước sông Cam Tuyền không phải quá sâu, tàu thuyền bình thường chở người chở hàng còn đỡ, vật liệu gỗ quá nặng nên đều phải dùng bè gỗ, từng cây gỗ tròn xếp trên bè gỗ, mức mớn nước cực kì sâu.

Ở cửa kênh có trạm gác, Cừ bạc sử không có ở đấy, chỉ có mấy tên bình thủy tiểu lại đang làm nhiệm vụ. Huyền Trang tới xin đi nhờ một đoạn đường, tiểu lại kia đã thấy nhiều tăng nhân đến Tây Quật, lập tức hết sức ân cần, đích thân dẫn hai người họ đến bên kênh, gọi một chiếc thuyền chở rau xanh dừng lại rồi mời bọn họ lên thuyền.

Rời khỏi cửa kênh, dòng nước trên sông Cam Tuyền phẳng lặng hơn rất nhiều, mười mấy con la ngựa kéo thuyền, nhìn như thong thả nhưng kỳ thực rất nhanh, gần như không khác gì đi trên đất bằng. Huyền Trang và Lý Thuần Phong đứng ở đầu thuyền, đi mười mấy dặm, dần dần đi vào khe núi đá. Vách núi hai bên đứng sừng sững như vách tường, trên vách núi chính là cổ đạo Đôn Hoàng trên sa mạc, sông Cam Tuyền này kỳ thực là nước tuyết tan trên núi Kỳ Liên xói mòn sa mạc thành một rãnh sâu to lớn.

Dọc theo sông Cam Tuyền đi tiếp mười mấy dặm liền đi vào phạm vi Tây Quật, Huyền Trang và Lý Thuần Phong nhìn cảnh tượng trước mắt, lập tức kinh ngạc ngây người.

Lúc này sông Cam Tuyền còn chưa bị cát bồi nâng lòng sông lên, khe núi chênh lệch cực cao, đến hàng nghìn thước. Hiện tại đang là cuối giờ Thân, nắng gắt nghiêng nghiêng, ánh nắng chiếu vào trong khe núi lại không chiếu tới đáy khe núi, chỉ cắt ra hai vùng sáng tối trong khe núi, chiếu sáng rực rỡ một nửa vách núi phía đông.

Trên vách đá hai bên xây dựng hàng trăm hàng nghìn hang Phật lớn nhỏ, chi chít như tổ ong, trải khắp vách núi, kéo dài bốn năm dặm, đưa mắt nhìn không thấy điểm cuối. Mỗi một hang Phật đều có mái hang rường cột chạm trổ, dưới mái hang có sạn đạo nối với nhau, từng tầng từng tầng bám vào trên vách đá. Hang Phật trên vách núi phía nam có ánh nắng chiếu sáng, tựa như thắng cảnh Linh Sơn; còn vách núi phía bắc bị bóng tối bao phủ đã có Phật đăng sáng lên, ánh nắng nhuộm Phật đăng vàng rực, khiến cho mọi người giật mình hoảng hốt như vừa mới bước vào nơi Phật quốc.

Đặc biệt là lúc vừa tiến vào phạm vi hang Phật, lòng sông cũng thu hẹp lại, vách núi hai bên bờ trở nên chật hẹp hơn; trên vách đá mỗi bên tạc ra một am thờ Phật to lớn, trong mỗi am thờ Phật đều có một pho tượng Phật cao lớn đang đứng sừng sững, vách núi phía nam là Phật Nhiên Đăng, vách núi phía bắc là Phật A Di Đà. Hai pho tượng Phật này cao tới hàng chục trượng, trên đỉnh am thờ Phật đã tiếp cận đỉnh núi, còn tòa sen dưới chân Phật đã ở sát mặt sông bên dưới vách núi. Lúc tàu thuyền và người đi đường đi qua dưới đài sen của Phật, người đi đường chỉ cao bằng ngón chân Phật; khi họ ngẩng đầu lên nhìn, chỉ thấy mặt mũi Phật giống như ở sâu trong trời xanh mây trắng, đang từ bi nhìn xuống chúng sinh.

Công trình xây dựng hai pho tượng Phật này lớn đến mức chỉ nghe đã thấy sợ hãi. Phải biết nơi đây là khu vực sa mạc, đá là đá phiến, mặc dù ép rất chắc chắn cũng không thể so được với đá tảng. Vì thế tượng Phật không phải được tạc trên vách đá mà là sau khi tạc ra am thờ Phật mới dùng gỗ, liễu đỏ, lau sậy và đất sét đắp thành tượng phật, sau đó tỉ mỉ chạm trổ tô màu trên đó. Có thể chống đỡ cho bức tượng khổng lồ như vậy đứng vững, hơn nữa suốt hàng trăm hàng nghìn năm không bị sập, có thể thấy tài nghệ cao siêu của thợ thủ công. Trên thực tế tượng Phật khổng lồ như vậy không phải một thể, mà là phân đoạn cả vách núi ra, sau khi tạc am thờ Phật mới đắp tiếp. Làm vậy chẳng những lượng công việc giảm bớt mà trên dưới vách đá chống đỡ lẫn nhau cũng chắc chắn hơn, bên ngoài đắp thêm đất sét màu, hoàn toàn không nhìn ra là được ghép lại từ nhiều phần.

Trong nháy mắt nhìn thấy hai tòa Đại Phật này, Huyền Trang liền không cầm được nước mắt, quỳ rạp xuống đầu thuyền khóc nức nở. Ngài cũng không biết vì sao phải khóc, có lẽ là bị chấn động bởi kỳ quan hùng vĩ, hoặc có lẽ là tựa như bước vào điểm cuối cần hướng đến trong kiếp này.

Nhà thuyền bên cạnh cảm khái nói, “Pháp sư là lần đầu tiên đến đây đúng không? Tất cả các tăng nhân lần đầu tiên đi tới Tây Quật đều như thế. Nơi đây bắt đầu đục hang tạc tượng từ thời Tiền Lương, còn xa xưa hơn cả hang Mạc Cao. Pho tượng ở vách núi phía bắc này là do Tiền Lương Thái tổ Trương Quỹ cho tạc, pho ở vách núi phía nam chính là Tây Lương Vũ Chiêu Vương Lý Cảo cho tạc; mỗi một pho đều hao phí sức lực của mấy thế hệ, đời cha chết đời con thay, đời con chết đời cháu tiếp tục tạc tượng. Nghe nói Đại Phật ở vách núi phía bắc bắt đầu tạc từ khi Trương Quỹ còn tại thế, đến tận đời chắt của ông ta là Tiền Lương Hoàn Vương Trương Trọng Hoa mới làm xong. Đáng tiếc Đại Phật làm xong không lâu, Trương Trọng Hoa băng hà. Sau khi ông ta mất hơn hai mươi năm thì Tiền Lương bị người Hồ diệt quốc.”

Lý Thuần Phong nhìn tòa tượng Phật to lớn trên đỉnh đầu này, cũng không nhịn được cuồn cuộn cảm xúc. “Nhà thuyền, ở hai bên Đại Phật dường như có sạn đạo và lang đạo lượn vòng mà lên, chẳng lẽ từ nơi này còn có thể đi tới Phật đỉnh hay sao?”

“Đương nhiên rồi,” Nhà thuyền nói. “Mặc dù bây giờ hang Phật ở vách núi phía bắc này không phải tài sản riêng của Trương thị, nhưng Trương thị lại nuôi dưỡng tăng nhân sống trong hang Phật, xưng là trú quật thiền sư, mỗi năm đến Phật tiết, toàn tộc Trương thị đều phải đến tham bái lễ Phật. Ngài xem, Đại Phật ở vách núi phía nam là Lý thị đang cung dưỡng. Không chỉ hai tòa này, chúng ta đi tiếp không xa còn có những tòa khác hùng tráng hơn, các sĩ tộc lớn ở Đôn Hoàng như Lệnh Hồ thị, Địch thị, Âm thị, Sách thị, Phiếm thị và Tống thị đều mở gia quật ở đây. Chỉ có điều Trương thị và Lý thị đã có người làm Hoàng đế, năm ấy tạo hang là huy động sức lực của cả nước, gia quật của các sĩ tộc khác không lớn như vậy, nhưng cũng đều có thịnh cảnh.”

Huyền Trang vội vàng đứng dậy. “Gia quật của Lệnh Hồ thị ở đâu?”

“Tiếp tục đi thêm hai dặm đường nữa, đảm bảo pháp sư sẽ nhìn thấy, không uổng chuyến đi!” Nhà thuyền cười nói, gọi vào bên bờ. “Thạch Đầu, la ngựa nhanh lên một chút, đưa vị pháp sư này đến Lệnh Hồ quật!”

La ngựa trên bờ lập tức đẩy nhanh tốc độ, tàu thuyền xé rách sóng nước cấp tốc tiến lên. Sông Cam Tuyền chảy đến chỗ Đại Phật này hơi chuyển dòng, sau khi tàu thuyền vòng qua khúc ngoặt, Huyền Trang và Lý Thuần Phong lại một lần nữa chấn động, nhìn thấy giữa lòng sông vách đá sừng sững thình lình xuất hiện một cổng vòm to lớn! Cổng vòm này nói chính xác là một cây cầu dài, nối liền hai bờ sông Cam Tuyền, cao hơn mặt nước gần trăm trượng, chính là kết cấu hình vòm bằng gỗ bắt mộng, giống như một cầu vồng vắt qua trên vách núi.

Hai bên cầu hình vòm, mỗi bên đục ra ba am thờ Phật, trong mỗi một am thờ Phật đều có một pho tượng Phật.

Chỉ tiếc cổng vòm thật sự quá cao, khoảng cách lại hơi xa, không thấy rõ mặt mũi của tượng Phật. Hai đầu cổng vòm được khảm vào trong vách đá hai bên, đầu bên vách núi phía nam có một tòa Phật tháp cao tới bảy tầng.

Phật tháp kia cũng cao đến trăm trượng, lại chỉ có một phần ba lộ ra ngoài vách đá, giống như là khảm vào trong vách núi. Phật tháp rất cao, có lẽ một trong những mục đích xây nên cổng vòm này chính là để chống đỡ cho Phật tháp.

Đừng nói là Huyền Trang, ngay cả Lý Thuần Phong nhìn thấy cảnh tượng này cũng bị kinh sợ không nói nên lời, một hồi lâu sau mới chậm rãi nói, “Trời ạ, một tháp một cầu này, dù là ở Trường An cũng không hề có một công trình xây dựng nào hùng vĩ đến thế. Đôn Hoàng chỉ là châu biên giới không đến vạn hộ, vậy mà lại làm ra được kỳ quan bậc ấy!”

“Mặc dù chỉ có vạn hộ, nhung đời đời con cháu người Đôn Hoàng chúng ta không ngừng không nghỉ, sau hàng trăm hàng nghìn năm, kể cả chỉ dựng một tòa lầu cũng có thể hái được sao trời,” Nhà thuyền cười nói.

“Nhưng làm như vậy cần kiệt quệ bao nhiêu sức dân!” Lý Thuần Phong tu Đạo, vì vậy không đồng tình lắm.

“Lang quân có chuyện không biết, so với đói rét về cơm áo, thứ khiến bọn ta sợ hơn là nỗi cô độc trên đại mạc.” Nhà thuyền than thở. “Đôn Hoàng nằm ở trong sa mạc, bốn phương tám hướng hoang vu rộng lớn, ta từng nghe có người đọc một bài thơ: ‘Ra quan ải Trường Thành tây tiến, ruộng nương xen lẫn giữa cát vàng. Tráng sĩ Hán gia cùng nhau hát, Đôn Hoàng vắng bóng người lại qua.”

Huyền Trang ngẫm nghĩ trong lòng, ngài nhớ khi mới vào Đôn Hoàng, đi qua Qua Sa cổ đạo đã từng nghe người kể chuyện Lưu Sư Lão đọc bài thơ này.

“Lão hủ thời trung niên đã từng theo đội buôn ra ngoài Dương Quan, đi qua Tây Vực vạn dặm, xa nhất tới tận Thư Mạt. Bọn ta rời khỏi ốc đảo Dương Quan, một nghìn năm trăm dặm đại mạc hoang vắng không người, trên không có chim bay, dưới không có cỏ nước, trên đường đi chỉ có thể tiến lên theo hài cốt người và ngựa lạc đà đi trước, ai cũng không biết bao giờ chính mình sẽ biến thành một bộ hài cốt trong sa mạc này, chỉ dẫn phương hướng cho người đến sau.” Nhà thuyền dường như đã chìm vào những năm tháng trước kia. “Cảm giác thê lương ấy, cảm giác cô liêu ấy, thật sự là khó mà tưởng tượng được. Trọn một năm sau, ta may mắn cùng với đội buôn trở về, lại đi qua sa mạc một nghìn năm trăm dặm, đi vào Dương Quan, nhìn thấy ốc đảo Đôn Hoàng này, ngài biết cảm nhận của bọn ta như thế nào không?”

“Mừng rỡ,” Lý Thuần Phong nói.

“Không, tất cả mọi người bọn ta đều quỳ rạp xuống đất, kêu khóc nức nở,” Nhà thuyền nói. “Bọn ta cảm ơn mặt đất Đôn Hoàng này, cảm ơn hang Phật và tượng Phật này. Năm đó bọn ta gần như người người đều mang tượng Phật rời khỏi Đôn Hoàng, nếu không có sự an ủi và phù hộ của Phật, gần như không có người nào có thể còn sống giữa đất trời cô độc. Gia súc chỉ cần ăn no và mặc ấm là đủ rồi, nhưng người thì khác.”

Lý Thuần Phong đột nhiên hơi hiểu được, hắn im lặng nhìn tòa kỳ quan trên trời này, không nói gì nữa.

“Lão trượng, xin lập tức cập bờ!” Huyền Trang đột nhiên trầm giọng nói.

Lý Thuần Phong kinh ngạc nhìn theo ánh mắt của Huyền Trang, cũng kinh hãi, nhìn thấy một chiếc bè gỗ đang xuôi dòng xuống với tốc độ cực nhanh. Bè gỗ đó đã tháo dỡ hết hàng hóa, cực kì nhẹ nhàng, trên đường đi phá tan sóng nước, tung hoành giữa đám tàu thuyền, khiến những tàu thuyền đó luống cuống chuyển hướng, một số thuyền không kịp chuyển hướng bị đụng thẳng vào, trên thuyền có người ngã lộn xuống nước. Không ít người chửi bới ầm ĩ.

Còn trên bè gỗ bất ngờ đứng hai tên tinh tướng và mười tên lang binh, chính là Khuê Tam và Khuê Thất vẫn đuổi giết trên đường đến đây. Lý Thuần Phong nhớ lại tình cảnh thê thảm đêm qua liền kinh hãi, vội vàng hô. “Mau! Cập bờ!”

Nhà thuyền cũng phát hiện bè gỗ từ thượng du lao xuống, sợ bị đụng phải liền vội vàng chỉ huy người chèo thuyền cập bờ. Còn chưa vào đến sát bờ, Huyền Trang và Lý Thuần Phong đã từ trên thuyền nhảy xuống dưới nước. Nước bên bờ chỉ sâu đến bắp đùi, hai người rẽ nước chạy lên trên bờ, trốn vào đám người.

Khuê Tam và Khuê Thất ở trên bè tre phóng tầm mắt nhìn quanh, không ngừng tìm kiếm. Tàu thuyền trên mặt sông không hề nhiều, thế là bọn chúng ra lệnh cho bè gỗ cập bờ, dẫn người sục sạo trên đường dọc theo bờ sông. Huyền Trang và Lý Thuần Phong vội vàng chạy lên một sạn đạo, lên đến tầng ba sạn đạo, hết sức thận trọng đi qua trên đỉnh đầu đám người Khuê Tam.

Đứng ở trên sạn đạo nhìn xuống phía dưới, tầm nhìn cực tốt. Bờ sông ở đây rộng hơn một chút, địa thế cũng cao, có một rừng cây rậm rạp, trong rừng xây một ngôi chùa là chùa Đại Vân. Ngoài sơn môn là một quảng trường rất rộng, lúc này mặc dù không phải ngày lễ nhưng tín chúng đến đây ngắm Phật dâng hương cũng không ít. Gần đó còn mở hang Phật, có rất nhiều thợ thuyền và nô bộc ở luôn tại đây. Đường giữa bờ sông và vách núi chỉ rộng hơn mười trượng, xe cộ, gia súc và người đi đường đi qua liền tỏ ra hơi chen lấn. Chỉ có đến trên quảng trườ