← Quay lại trang sách

Chương 19 Tàn sát, đoàn tụ và-biệt ly trên hang Phật

Tùng tùng tùng…

Tiếng trống trận ầm ầm vang lên, hai vách đá kẹp hai bên dòng sông, tiếng trống trận vang vọng trầm hùng. Trong tai tất cả mọi người đều là tiếng sấm liên miên, chấn động như muốn vỡ tim, hô hấp nghẹt lại.

Trong tiếng trống này, tất cả quân tốt hai bên bờ đều giương cung đặt tên, lưỡi đao giơ ngang, trường thương chĩa chéo. Lệnh Hồ Đức Mậu nhấc tay, tiếng trống đột nhiên im bặt, cả đất trời lại bỗng lặng ngắt như tờ.

“Yêu sói!” Lệnh Hồ Đức Mậu lớn tiếng nói. “Mấy năm nay ngươi làm hại Đôn Hoàng, giết chết vô số quân dân ta, hôm nay đại nạn đã đến, còn không mau đền tội!”

Lữ Thịnh chỉnh lại y bào, liếc hai bên bờ một cái, vẻ mặt ung dung hờ hững. “Lệnh Hồ Đức Mậu, đến bây giờ ngươi vẫn không dám thừa nhận ta chính là Lữ Thịnh sao? Các binh sĩ Đôn Hoàng, các hương đảng nghe đây! Mỗ chính là Lữ Thịnh! Song Trạng nguyên khoa Tú tài và khoa Tiến sĩ Đại Đường năm xưa, Lục sự tham quân Tây Sa Châu Lữ Thịnh!”

Đám quân tốt tuân thủ quân luật, im lặng không động, nhưng mọi người dưới lũng sông và sạn đạo tầng dưới đang ngẩng đầu đứng xem lại không nhịn được mà phát ra tiếng kêu sợ hãi. Lữ Thịnh chính là người Đôn Hoàng, song Trạng nguyên khoa đầu Đại Đường, là niềm tự hào của Tây Sa Châu. Sau đó hắn phản quốc bị giết, thanh danh ô uế, mặc dù ngày thường ai cũng không dám thảo luận những lúc riêng tư không ai là không cảm thấy nhục nhã, nghiến răng căm thù. Dù vậy cũng đâu ai nghĩ được rằng Lữ Thịnh đã chết trong quân năm đó giờ lại còn sống mà xuất hiện!

“Ha ha ha…” Lệnh Hồ Đức Mậu cười to. “Khuê Mộc Lang, ngươi chỉ là một yêu vật, mượn thể xác của một người chết sống ở nhân gian, vậy mà cũng dám nói mình là Lữ Thịnh? Kể cả ngươi thực sự chính là Lữ Thịnh thì thế nào? Một kẻ nghịch thần phản quốc, năm đó bị giết trong quân, chưa bị xử theo luật pháp là may mắn cho ngươi đấy! Hôm nay ta liền đại diện cho triều đình, đại diện cho Tây Sa Châu giết chết phản nghịch, diệt yêu sói, đòi lại công bằng cho bách tính tử nạn!”

Lữ Thịnh cười lạnh lùng. “Đại diện cho triều đình? Ngươi mà cũng xứng sao! Năm đó vì mưu hại ta, ngươi sẵn sàng cấu kết Đột Quyết xâm lấn, tắm máu Thanh Đôn Thú, ngươi và ta rốt cuộc ai mới là nghịch thần phản quốc?”

“Nói xằng nói bậy!” Lệnh Hồ Đức Mậu giận tím mặt, quát. “Chúng quân nghe…”

“Chúng quân nghe lệnh…” Lệnh Hồ Chiêm bên cạnh vội vàng ngắt lời phụ thân. “Bản quan phụng mệnh Thứ sử Vương công bắt giết yêu sói, bắt hắn cho ta!”

Lệnh Hồ Đức Mậu kinh ngạc một lát, thấy Mã Hồng Đạt bên cạnh chỉ mỉm cười, lúc này mới tỉnh ngộ, nhớ ra mình quả thật không có quyền lực chỉ huy quân đội. Việc ông ta hạ lệnh danh không chính ngôn không thuận, rơi vào trong mắt người khác chính là một tội trạng.

“Chiêm Nhi.” Lệnh Hồ Đức Mậu nói nhỏ. “Phải bắt sống!”

Lệnh Hồ Chiêm gật đầu, cờ lệnh phất cao, đám giáp sĩ hai đầu cầu vòm chậm rãi tiến lên, đi trước là ba hàng đao thuẫn binh, dựng thẳng lá chắn lên hình thành một bức tường lá chắn kín không kẽ hở; theo sát phía sau là ba hàng trường thương binh, trường thương dài đến một trượng, cán thương gác phía trên lá chắn từ từ mà đi, cuối cùng là ba hàng cung thủ.

Hàng ngũ tập trung chật ních cả mặt cầu vòm, giống như một Trường Thành thiết giáp di động, Lệnh Hồ Chiêm lại vẫy cờ lệnh, có thêm hai đội ngũ đi theo phía sau; sáu đội ngũ bộ binh ở hai bên cầu vòm ầm ầm tiến lên, ép về phía chính giữa cầu vòm.

Huyền Trang khẽ thở dài một cái. “Mã Hồng Đạt đã đến, xem ra Vương Quân Khả cuối cùng vẫn lựa chọn sĩ tộc, bán đứng Khuê Mộc Lang.”

“Đúng vậy!” Lữ Thịnh gật gật đầu không để ý. “Vương Quân Khả này là kẻ thay đổi thất thường. Một khi Khuê Mộc Lang đã phái sứ giả đến Đột Quyết và Thổ Dục Hồn, hắn tự nhiên liên không còn giá trị lợi dụng nữa, Vương Quân Khả lựa chọn sĩ tộc là chuyện rất bình thường.”

“Có biện pháp phá vòng vây không?” Lý Thuần Phong hỏi.

Lữ Thịnh lắc đầu. “Đây là một tử cục, bị năm sáu trăm tên bộ binh thiết giáp vây khốn trên cầu vòm cao mấy chục trượng, trên sạn đạo hai bờ còn bố trí đầy cung thủ, ta chỉ là một người bình thường, làm sao có thể chịu được trường thương đâm tới.”

“Có thể đánh thức Khuê Mộc Lang không?” Huyền Trang hỏi. “Với thủ đoạn bay lên trời của hắn, chắc hẳn chạy đi cũng không khó.”

“Pháp sư,” Lữ Thịnh cười nói. “Thân thể ta đã bị Khuê Mộc Lang chiếm ba năm, sở dĩ hồn phách chưa diệt là bởi vì ta tuyệt đối không chịu khuất phục! Chỉ cần có cơ hội, ta nhất định sẽ khống chế thân thể này, đường đường chính chính mà xuất hiện giữa đất trời. Bây giờ ta chỉ còn lại tuổi thọ hai mươi ngày, trước khi đến đã cùng Văn Nhi từ biệt, có một trận lớn như thế làm trận chiến kết thúc kiếp này của ta, ta đã mãn nguyện rồi!”

Huyền Trang và Lý Thuần Phong kinh ngạc. “Ngươi chỉ còn có hai mươi ngày tuổi thọ? Vì sao vậy?”

Lữ Thịnh lạnh nhạt nói, “Ta hồn phách tách rời, mỗi lần Khuê Mộc Lang thi triển thần thuật đều tiêu hao tinh khí của ta. Kéo dài hơi tàn ba năm đã là cực hạn, làm sao ta còn có thể sống lâu hơn được nữa?”

“Lữ huynh.” Huyền Trang thương xót nhìn Lữ Thịnh. “Bần tăng theo đuổi là đại đạo niết bàn, nhưng ngươi thì khác. Ngươi chết rồi, tất cả liền trở thành cát bụi, kí ức của ngươi còn chưa tìm về được, oan khuất của ngươi còn chưa được tẩy sạch, ước mơ trong chùa Đại Hưng Thiện cũng vĩnh viễn không thể nào thực hiện. Lữ huynh, Lý Tiến sĩ tu tập y thuật của Thần y Tôn Tư Mạc, đạo thuật của đại sư Viên Thiên Cương, hắn nhất định có thể nghĩ ra cách giúp ngươi, bần tăng khẩn cầu ngươi không được bỏ cuộc!”

Trong mắt Lữ Thịnh toàn là cảm kích, hắn cầm hai cánh tay Huyền Trang, tay phải lập tức như bị kim đâm, nhưng vẫn không hề biến sắc. “Pháp sư, kiếp này có thể kết giao với ngài là vinh hạnh cả đời của Lữ mỗ. Năm đó ta đã từng khí phách như cầu vồng, nhưng trải qua rất nhiều chuyện mới hiểu được sự ngắn ngủi và yếu ớt của cuộc đời. Từ cổ chí kim, biết bao nhiêu anh hùng hào kiệt chí hướng chưa thành mà thân đã chết, ta không phải là người đầu tiên, cũng không phải là người cuối cùng. Ta chết rồi ngài vẫn tiến lên, như vậy là đã đủ, bởi vì ta biết trong những người như chúng ta sẽ luôn có người đi về phía thành quả huy hoàng. Cuộc đời không hề lừa gạt ta, cũng không phải một giấc mộng ảo, chỉ có điều ta rời khỏi cuộc chơi trước mà thôi.”

Huyền Trang còn muốn nói nữa, nhưng Lữ Thịnh đã cười đẩy ngài một cái. “Đi thôi, pháp sư. Lệnh Hồ Đức Mậu không dám giết ngài trước mặt nhiều người như vậy đâu. Lý Tiến sĩ, làm ơn.”

Lý Thuần Phong im lặng chắp tay với Lữ Thịnh, kéo Huyền Trang đi về phía tháp bảy tầng.

Huyền Trang ngẩng mặt thở dài, sau đó đột nhiên quay lại, khom người chắp tay với Lữ Thịnh. Lữ Thịnh cũng ôm quyền rồi cúi người thật sâu. Hai người ngẩng đầu lên đối mặt với nhau, trong ánh mắt tràn đầy những lưu luyến bất tận.

Lữ Thịnh rống to. “Bày trận! Hôm nay liền giết một trận long trời lở đất!”

Sáu tên tinh tướng trong đó có Khuê Nhất, Khuê Tam, Khuê Ngũ và Khuê Lục chia thành hai đội, mỗi đội có mười lang binh bảo vệ hai đầu nam bắc, mạch đao to dài giơ ngang trước ngực. Vẻn vẹn hai mươi sáu người, không ngờ lại mang một khí thế vô cùng hào hùng oanh liệt.

Song phương nhanh chóng tiếp cận, đám quân tốt trầm lặng như núi, khi gặp địch chỉ phát ra một tiếng theo sách yếu lĩnh. “Hống…”

Đao thuẫn binh một hàng là một thập mười người, ba hàng ba mươi người, đồng loạt chống lá chắn lớn xuống mặt cầu sau đó ngồi xuống, vai kề chặt vào mặt trong lá chắn, tạo thành một bức tường thành từ lá chắn thép. Trong tiếng quát của thập trưởng, ba hàng trường thương binh hai tay cầm cuối cán trường thương, dùng sức eo vai, nghiêng người đâm về phía trước.

Ba mươi cây trường thương dài một trượng dày đặc đâm ra từ trên bức tường lá chắn, mà trước mặt bọn họ chỉ có ba tên tinh tướng! Tinh tướng lầm lì ít nói, trong cổ họng phát ra âm thanh khó hiểu, ba thanh mạch đao nặng hai mươi cân quét ngang ra. Răng rắc. Ba mươi thanh trường thương lập tức có sáu bảy thanh bị chém gãy, năm thanh bị đánh rời tay bay ra ngoài, nhưng cũng có mấy thanh đâm vào trên người tinh tướng. Cho dù tinh tướng mặc minh quang khải giáp cũng không có cách nào ngăn cản được trường thương đâm mạnh ở cự li gần, lập tức bị thương phá giáp, cắm thẳng vào trong cơ thể.

“Thu!” Đám thập trưởng cùng hô. “Đâm…”

Lại là một lượt đâm tới, đao thương kịch liệt va chạm, lần này có vài ba thanh đâm trúng tinh tướng, nhưng ba mươi thanh trường thương đã tổn thất gần hết. Tinh tướng không còn lui lại mà xông tới phía trước một bước, mạch đao nặng nề hùng hổ chém vào bức tường lá chắn. Ầm một tiếng, lá chắn gỗ bọc sắt lá không thể chịu được lực chém lớn như vậy, lập tức vỡ tan. Quân tốt phía sau lá chắn bị chém gãy hai cánh tay, ngã sấp xuống đất, hàng sau lập tức có lá chắn tiến lên bịt lại lỗ hổng.

Sức lực của tinh tướng lớn vô cùng, vung mạch đao điên cuồng chặt chém, nhất thời lá chắn lớn vỡ vụn, tứ chi tung tóe. Quân tốt hàng sau mất trường thương lập tức rút hoành đao ra tạo thành đao thuẫn binh. Mười tên lang binh cũng liều chết xông lên, hai bên lập tức cận chiến với nhau, vừa mới tiếp xúc liền thâm thiết đẫm máu. Chỉ trong phút chốc trên cầu vòm đã biến thành một tu la trường, tiếng kêu thảm thiết, tiếng gào thét giận dữ, tiếng đao va chạm vào lá chắn và tiếng rên rỉ của người sắp chết vang vọng lâu dài thê lương trong khe núi, làm chấn động cả Tây Quật.

Trên mặt sông Cam Tuyền nhìn lại, trên cầu vòm nối liền hai bờ, máu chảy xuống tựa như thác nước. Máu chảy xuống thành cầu, chảy xuống thân cầu, chảy xuống ba bức tượng Phật đang ngồi chắp tay, hội tụ lại thành từng dòng máu loãng ở trên mặt Phật. Những dòng máu ấy chảy xuống mặt sông, tựa như mưa thu đang chảy róc rách.

Cuộc chém giết trên cầu ngày càng thảm thiết, chỉ sau một khoảng thời gian ngắn ngủi, sáu mươi tên đao thuẫn binh và trường thương binh trong trận hình đầu tiên đã tử thương gần hết, trên mặt cầu xác nằm ngổn ngang. Đám tinh tướng cũng toàn thân đẫm máu, cánh tay trái của Khuê Nhất bị chém đứt, từ vết chém chảy ra máu đen dính đặc; đám lang binh còn chật vật hơn, chỉ còn lại dăm ba người dựa vào nhau, cầm đao đứng sừng sững.

“Bắn…” Lệnh Hồ Chiêm và Địch Thuật đồng thời phất cờ lệnh.

Đột nhiên trong không khí truyền đến tiếng vù vù dày đặc, vô số mũi tên bay qua trên mặt cầu. Sáu mươi mũi tên như sấm sét bắn đến, xuyên qua người tinh tướng và lang binh, đám lang binh ít ỏi còn lại tới tấp trúng tên ngã xuống đất. Đám tinh tướng chỉ có thể dùng mạch đao bảo vệ mặt mũi, vô số mũi tên bắn vào minh quang khải giáp và mặt mạch đao, chỉ sau chốc lát trên người tinh tướng đã cắm đầy những mũi tên trông như mọc cỏ.

Tuy nhiên cảnh tượng làm cho đám người Lệnh Hồ Đức Mậu kinh sợ đã xuất hiện sau một loạt mưa tên, tinh tướng chậm rãi hạ mạch đao xuống, không ngờ lại vẫn hành động tự nhiên, lao nhanh về phía cung thủ!

“Cung thủ lui lại!” Lệnh Hồ Chiêm hô to. “Đội thứ hai, lên!”

Địch Thuật bên kia cũng phát hiện tinh tướng không sợ vết thương đâm xuyên, vội vàng ra lệnh cho đội thứ hai thay thế cho cung thủ.

“Địch huynh!” Lệnh Hồ Chiêm hô to. “Ra lệnh cho đao thuẫn binh tập trung hàng ngũ, đụng ngã bọn chúng!”

Ba hàng đao thuẫn binh chen chật ních, cùng hét lớn đẩy bức tường lá chắn đâm về phía tinh tướng, đám tinh tướng vung mạch đao chém, rầm rầm chém gục mấy người ở hàng đầu, sau đó hai bên liền ầm ầm lao thẳng vào nhau.

Đao thuẫn binh ở chỗ va đập chính diện kêu thảm ngã về phía sau, hai hàng quân tốt phía sau không ngờ lại cũng không ngăn chặn được sức mạnh kinh khủng ấy, bị đụng bay về phía sau tiếp. Đội ngũ lá chắn ba hàng bởi vậy bị đụng ra một lỗ thủng, tuy nhiên đám tinh tướng cũng bị đụng ngã lăn ra ngoài.

Lệnh Hồ Chiêm mừng rỡ. “Trường thương binh…”

Trường thương binh theo sát phía sau đao thuẫn binh lập tức bô’ sung lên, mười mấy cây trường thương đâm mạnh. “phập phập phập,” lưỡi thương dài một thước đâm lung tung trên người tinh tướng. Ở khoảng cách này dù áo giáp có chắc chắn đến mấy cũng không ngăn chặn được trường thương đâm vào, chỉ trong nháy mắt, trên người đám tinh tướng đã bị đâm thủng lỗ chỗ; còn có mấy mũi thương đâm thẳng vào mặt chúng. “rốp” một tiếng giống như đâm xuyên qua quả dưa hấu, đâm thẳng vào tới tận não.

Đám người Khuê Nhất, Khuê Ngũ và Khuê Lục co giật vài cái, liền không hề nhúc nhích nữa.

“Đầu là điểm yếu!” Lệnh Hồ Chiêm vừa ngạc nhiên vừa vui mừng.

Đám quân tốt ở tiền tuyến cũng trở nên kích động, đao thuẫn binh một lần nữa kết thành bức tường lá chắn dày đặc, hùng hổ vung đao về phía đám người Khuê Tam, Khuê Thất và Khuê Thập Nhị còn lại. Tinh tướng mặc dù cục mịch nhưng không phải máy móc, hai bên lao vào nhau, cả đám liên tục lui lại ổn định thân hình, không để chính mình ngã xuống đất. Bức tường lá chắn như núi ép đến, ép dần từng bước, hai bên liên tiếp va đập bốn năm lần, Khuê Tam sơ suất, vướng vào một thi thể lảo đảo ngã xuống. Trường thương binh lập tức tiến lên đâm thẳng vào mặt hắn. “phập phập phập,” bị mười mấy mũi trường thương đâm vào mặt, đầu Khuê Tam gần như trở thành bùn nhão.

Cùng lúc ấy Khuê Lục cũng bị ba mũi trường thương đâm thủng thân thể, ba gã trường thương binh gầm lên cố định thân thể hắn, hơn mười đao thuẫn binh phía sau đồng loạt xông lên, dùng đao chém, dùng lá chắn đập vào đầu hắn. Thân thể Khuê Lục cũng rũ ra rồi ngã xuống. Còn Khuê Thập Nhị bị bức tường lá chắn đẩy vào thành cầu, thành cầu ầm ầm vỡ vụn. Khuê Thập Nhị không đứng vững, ngã khỏi cầu vòm, như thiên thạch rơi thẳng xuống lòng nước sông.

Đến lúc này, sáu tên tinh tướng cùng hai mươi tên lang binh toàn bộ đều đã bị diệt, đám quân tốt cũng phải trả giá bằng hơn trăm người tử thương, cả cây cầu vòm gần như bị tắm máu một lượt, khắp nơi đều là thi thể và tay cụt chân gãy.

Chỉ có phạm vi khoảng một trượng lấy Lữ Thịnh làm trung tâm là không nhuốm bụi trần.

Đám quân tốt cầm trường thương lá chắn, vây Lữ Thịnh chật như nêm cối.

Lữ Thịnh sắc mặt ung dung, tay bám thành cầu, chăm chú nhìn nước sông chảy đi xa, lẩm bẩm nói:

“Tinh Vệ tha cành gỗ, muốn lấp cả biển xanh. Hình Thiên vung búa bổ, ý chí vẫn còn nguyên. Lúc sống không lo nghĩ, khi chết có hối chi…”

Trong toàn bộ quá trình này, Huyền Trang vẫn đứng ở trên sạn đạo, chắp tay lặng lẽ tụng niệm “Bản nguyện kinh Địa Tạng Bồ Tát”. Dù bàn tay phải đã bị thiên y đâm tới mức đầm đìa máu tươi nhưng ngài hoàn toàn không cảm nhận được đau đớn, bởi vì cuộc đại sát lục trước mắt đã khiến cho ngài đau tới tận xương cốt.

“Ta tại ngũ trọc ác thế, giáo hóa chúng sinh xem như kiên cường… Hoặc có ám độn, cảm hóa lâu mới quy y, hoặc có nghiệp nặng, không sinh lòng kính trọng. Như là chúng sinh cùng lứa, lại nhiều khác biệt, phân thân độ thoát… Hoặc hiện rừng núi bình nguyên, sông hồ suối giếng, có lợi với người, tất đều độ thoát…”

Lúc đang niệm nhìn thấy Lữ Thịnh chỉ còn lại một thân một mình, cô độc bị bao vây trên cầu, Huyền Trang không nhịn được mà nghẹn ngào trong họng. “Lý Tiến sĩ, vì sao ta tu hành đến nay, nhưng lại không thể nào độ thoát được một người?”

“Pháp sư, nếu ngài có thể độ thoát, vậy thì vì sao Địa Tạng Bồ Tát đến nay cũng chưa thành Phật?” Lý Thuần Phong nói nhỏ.

“Đi thôi!” Huyền Trang không đành lòng nhìn thấy cảnh tượng cố nhân bị giết, buồn bã xoay người bước vào trong tháp bảy tầng.

Lúc này tất cả mọi người đều đang ở trên cầu xem cuộc chém giết ấy, trong tháp bảy tầng không có một bóng người. Huyền Trang đứng bên cạnh lan can Phật điện, nhìn lên đầu Phật to lớn trên đầu. “Lý Tiến sĩ, nếu ta có thể trở về từ Thiên Trúc, ngươi biết một câu ta muốn nói nhất là gì không?”

“Câu gì?” Lý Thuần Phong tò mò hỏi.

Huyền Trang chậm rãi nói, “Ta muốn như Địa Tạng Bồ Tát, khóc nức nở một trận trước Phật sau đó nói với Phật, ta từ kiếp lâu dài đến, được Phật tiếp dẫn, khiến ta giành thần lực khó tin, có được đại trí tuệ. Phân thân của ta trải rộng khắp trăm, nghìn, vạn, trăm nghìn thế giới, nhiều như cát sông Hằng. Mỗi một thế giới lại biến hóa ra trăm, nghìn, vạn, trăm nghìn thân thể. Mỗi một thân thể lại dẫn độ trăm, nghìn, vạn, trăm nghìn người. Ta quy kính tam bảo, vĩnh viễn rời khỏi luân hồi sống chết, đạt tới sự vui sướng của vĩnh sinh. Ta muốn nói với Phật, hi vọng Thế tôn không cần phiền muộn vì thế giới tương lai có chúng sinh ác nghiệp.”

“Pháp sư đi trên một con đường trải đầy gai góc!” Lý Thuần Phong cảm khái một tiếng. “Chuyện nơi này đã xong, pháp sư ngài nên xuất quan tây du đi thôi!”

“Không!” Huyền Trang lắc đầu, quật cường nói. “Ta đã đáp ứng Lữ Thịnh, phải tìm về quá khứ của hắn. Ngày nào không được thấy chân tướng, ngày đó ta sẽ không xuất quan!”

“Thì ra pháp sư cũng chưa hề phá chấp,” Lý Thuần Phong cười nói.

“Phá chấp…” Huyền Trang hơi thất thần. “Ta đột nhiên nhớ tới thời khắc lần đầu gặp Lữ Thịnh năm ấy, ta chạy gấp chín trăm dặm vào Trường An trong vòng ba ngày, hắn nói với ta một câu Phật kệ, rằng ‘Như cầm phiền não chướng, như nghênh đầu đao phong’.”

“Pháp sư trả lời hắn thế nào?” Lý Thuần Phong hỏi.

Huyền Trang nói, “Ta trả lởi hắn một câu Phật kệ: Túi da thối tầm thường, buông bỏ không vấn vương. Trong lò lửa hừng hực, vẫn gió mát trăng thanh. Khi đó, hôm ấy, ta đã lựa chọn như thế; giờ này, ngày này, ta vẫn lựa chọn như vậy. Theo bần tăng thấy thì ta phá chấp không phải vòng qua nó rồi chạy, mà là phá nó rồi bước qua, còn Đôn Hoàng chính là nơi hoả lò hừng hực.”

Lý Thuần Phong vẻ mặt nghiêm nghị, vái chào thật sâu. “Pháp sư đã có hồng nguyện ấy, Thuần Phong phụng bồi đến cùng! Pháp sư dự định làm thế nào?”

“Cuộc chiến Tây Quật lần này, ta có chút nghi vấn. Lý Tiến sĩ, ngươi trả lời ta mấy vấn đề.” Huyền Trang nhìn bóng lưng Lệnh Hồ Đức Mông ngoài Phật điện. “Thứ nhất, vì sao Lệnh Hồ Đức Mông lại lựa chọn mai phục tại Tây Quật?”

Lý Thuần Phong suy nghĩ một lát. “Một là Tây Quật khắp nơi đều là hang Phật, dễ dàng giấu quân, ngoài ra cây cầu vòm này chính là tuyệt địa, cho dù là Khuê Mộc Lang cũng khó mà thoát chết.”

“Vậy thì…” Huyền Trang cau mày suy tư. “Khuê Mộc Lang gian trá xảo quyệt, Lữ Sư Lão đa mưu túc trí, vì sao bọn họ nghe tin Lệnh Hồ Đức Mông ẩn nấp ở Tây Quật lại không hề nghi ngờ nơi đây là một cạm bẫy?”

“Cái này…” Lý Thuần Phong cũng chìm vào suy nghĩ sâu xa. “Chẳng lẽ đối với bọn họ mà nói, Tây Quật có chỗ nào đó đặc biệt?”

“Nhất định có chỗ đặc biệt!” Huyền Trang nói chắc chắn. “Hơn nữa cả Khuê Mộc Lang và Lữ Sư Lão đều cho rằng Lệnh Hồ Đức Mông trốn ở đây là hợp tình hợp lí. Rốt cuộc chỗ đặc biệt ấy là gì?”

Huyền Trang ngẩng đầu lên nhìn quanh, đột nhiên trong lòng chợt động. Ngài thấy pho tượng Phật lớn trước mặt này cực kì cổ quái, tháp cao bảy tầng, mà tầng bảy cũng vẻn vẹn chỉ đến vai Phật, đầu Phật to lớn trực tiếp đi sâu vào trên đỉnh vách đá. Huyền Trang chăm chú lắng nghe, bên trên dường như có không ít người, có tiếng bước chân người vội vã bước đi, có tiếng nói nhỏ khe khẽ, có tiếng thấp giọng lầm bầm, còn có những tiếng lách cách hỗn loạn, dường như là tiếng hạt châu đang va vào nhau.

Huyền Trang nghiêng tai lắng nghe, dường như là âm thanh đến từ tầng trên.

Huyền Trang đột nhiên giật mình tỉnh lại. “Phía trên hình như có người. Pho tượng Phật Thích Ca Mâu Ni này chính là để mọi người đến lễ Phật tham bái, vì sao không làm thêm hai tầng, để đầu Phật cũng ở trong tháp… Chẳng lẽ tòa tháp bảy tầng này có bí ẩn khác?”

Huyền Trang bám lan can nhìn lên phía trên, tầng thứ bảy cao hai trượng, đỉnh điện vẽ bích họa trang trí tinh xảo, nhưng vẫn có thể nhìn ra được là kết cấu bằng gỗ, không phải đỉnh hang bằng đá giống như bình thường.

Huyền Trang nhìn trái nhìn phải, vòng quanh lan can Phật điện đi đến tận cùng, thấy trên vách núi có một pho tượng Kim Cang bằng đất vẽ màu, dưới chân giẫm lên cái bục.

“Lý Tiến sĩ, giúp ta một chút.” Huyền Trang vén màn che màu vàng lên, cùng Lý Thuần Phong dùng sức đẩy pho tượng Kim Cang này, quả nhiên tượng Kim Cang hơi dịch chuyển.

Hai người đều hơi vui mừng, cùng dùng sức đẩy tượng Kim Cang ra ngoài hơn một thước, sau lưng tượng Kim Cang lộ ra một đường hầm! Hai người nhìn nhau một cái, Huyền Trang cầm lấy một chiếc đèn dầu trên bàn thờ, đi trước bước vào đường hầm. Trong đường hầm có bậc thang dẫn lên trên, hai người theo bậc thang đi lên, bậc thang có hai chỗ ngoặt, sau đó xuất hiện một cánh cửa nhỏ. Hai người mở cửa nhỏ ra, đã đến tầng tám, tầm nhìn lập tức trở nên rộng rãi.

Trên tầng tám bày mấy chục án thư, một đám thư lại đội khăn vấn đầu, mặc sam bào khuyết khoa đang ngồi bên án tính toán suy diễn.

Trong đám thư lại ấy, một số người đang sao chép sách vở, một số người loay hoay tính toán, một số người gạt bàn tính hạt gốm, còn một số người khác thì đang vẽ ra những đường nét phức tạp trên tấm ván gỗ.

“Những người này đang làm gì vậy?” Huyền Trang thấp giọng hỏi.

Lý Thuần Phong thần sắc nghiêm nghị, nói nhỏ. “Hình như là đang tính toán trị số nào đó. Pháp sư xem tấm ván gỗ kia, có chín vạch ngang, trên cột dọc đặt một hạt châu, ghi số từ dưới lên trên, đây là tính Thái Nhất. Hành trình của Thái Nhất đi qua chín đường. Bên cạnh đó là tính Lưỡng Nghi, trên ván gỗ khắc năm đường ngang, trên mỗi cột dọc đặt hai hạt châu, hạt trên màu xanh, hạt dưới màu vàng; hạt xanh từ trên xuống dưới, hạt vàng từ dưới lên trên. Tính Lưỡng Nghi có thể tính toán thời tiết, xem xét bốn mùa. Ngài lại nhìn bên cạnh, từ trái qua phải, theo thứ tự là tính tam tài, tính ngũ hành, tính bát quái và tính cửu cung.”

“Lượng tính toán khổng lồ như thế, rốt cuộc bọn họ đang tính cái gì?” Huyền Trang thấp giọng hỏi.

Lý Thuần Phong cau mày không đáp, nhìn một hồi lâu.

Huyền Trang nhìn quanh, phát hiện bên cạnh còn có một đường hầm, hai người lập tức nhẹ nhàng đi ra cửa nhỏ, chui vào đường hầm. Những thư lại kia quá chăm chú, không ngờ lại không có ai phát hiện ra hai người.

Trong đường hầm có bậc thang, hai người đi tới cuối bậc thang, mở ra một cánh cửa trên đỉnh, đồng thời mở to mắt, kinh ngạc nhìn đỉnh đầu: Không ngờ lại là sao trời dày đặc! Hai người chớp chớp mắt, thị giác thích ứng lại, lúc này mới phát hiện trên đầu căn bản không phải bầu trời đêm mà là một mái vòm to lớn. Thì ra trên tầng chín này lại tạc vách đá thành một đỉnh vòm hình chóp tứ giác cụt, đầu Phật to lớn của tượng Phật vừa khéo làm thành trụ hang trung tâm; phía gáy tượng Phật thì đục rất sâu vào trong, khiến đầu Phật nằm ở vị trí trung tâm của vòm hình chóp cụt.

Như thế, đỉnh hang liền giống như vòm trời bao phủ khắp nơi, còn hình trang trí bên trên đã không phải tranh Phật bình thường, cũng không phải hoa sen gì đó, mà là sao trời chi chít! Đầu Phật nằm ở đúng vị trí của Tử Vi viên, bên cạnh có Thái Vi viên, Thiên Thị viên và Nhị thập bát tú, tổng cộng có sáu trăm hai mươi bảy ngôi sao! Mỗi một ngôi sao đều phát ra ánh sáng hoặc rõ ràng hoặc lờ mờ, gần như giống hệt hình ảnh trên bầu trời đêm. Huyền Trang vội vàng đi tới bên vách đá, tiên vách đá bên cạnh cũng khảm mấy ngôi sao xa xôi. Ngài tỉ mỉ quan sát mới phát hiện không ngờ đó lại là những hốc lõm trên vách đá, rãnh hốc đặt trường minh đăng đốt bằng mỡ cá voi; mặt ngoài hốc có xích pha lê che kín, ánh đèn xuyên qua xích pha lê, nhìn xa xa trông giống như sao! Huyền Trang nhớ lại xích pha lê nhìn thấy trong hội đấu giá ở hang Mạc Cao lần trước, biết làm ra một vòm hang như vậy quả thực tốn kém vạn kim. Mà cả vòm trời còn dùng lá vàng làm ra hoàng đạo, lá bạc làm ra bạch đạo. Nếu như tòa tháp dưới chân này có thể quay tròn, vậy thì quả thực giống bầu trời như đúc.

Hai người ngơ ngác cất bước đi tới, đột nhiên dưới chân di chuyển, ngã thẳng xuống đất, sau đó thân thể lại nhanh chóng di động trên mặt đất. Thì ra không ngờ trên mặt đất lại có một quỹ đạo xoay tròn xung quanh trời sao! Huyền Trang không thể tin được. “Tòa tháp này quả thật có thể quay tròn!”

“Ta biết rồi!” Lý Thuần Phong ngã nhe răng trợn mắt, lẩm bẩm nói. “Bọn họ đang tính toán quỹ tích vận hành của thiên thể!”

Trên cầu vòm, đội ngũ bộ binh đang bao vây xung quanh Lữ Thịnh, vô số trường thương giống như rừng cây gai, vây chặt hắn trong phạm vi hẹp.

Lệnh Hồ Đức Mậu và Địch Xương từ đầu cầu chậm rãi bước tới, Lệnh Hồ Chiêm và Địch Thuật vội vàng đi đến, khom người thi lễ.

“Phụ thân!” Lệnh Hồ Chiêm nói. “Hôm nay sỉ nhục nhiều năm của Lệnh Hồ thị ta và Địch thị cuối cùng cũng có thể rửa sạch rồi!”

“Ra lệnh cho quân đội lui lại mười trượng,” Lệnh Hồ Đức Mậu nhìn chằm chằm Lữ Thịnh, trầm giọng nói.

Lệnh Hồ Chiêm lập tức sửng sốt, Địch Thuật vội nói, “Thế bá, kẻ này thủ đoạn xảo trá, hơi có sơ suất sẽ để hắn chạy thoát!”

Địch Xương sắc mặt nghiêm nghị nhắc lại. “Ra lệnh cho quân đội lui lại mười trượng!”

Lệnh Hồ Chiêm và Địch Thuật nhìn nhau một cái, đều không hiểu, nhưng cũng không dám không tuân theo.

“Lui lại mười trượng!” Hai người tự mình hạ lệnh.

Quân trận duy trì hàng ngũ, chậm rãi lui về phía sau, dựng bức tường lá chắn ngoài mười trượng, cung thủ giương cung đặt tên, tập trung tinh thần chờ đợi.

Lệnh Hồ Đức Mậu và Địch Xương đi thẳng qua rồi dừng lại trước mặt Lữ Thịnh, hai bên cách nhau không quá năm thước. Lệnh Hồ Chiêm và Địch Thuật hết sức kinh hãi, vội vàng theo sau, một người rút đao một người giương cung, bảo vệ chu đáo phụ thân của mình.

Lệnh Hồ Đức Mậu vẻ mặt phức tạp quan sát Lữ Thịnh, lạnh nhạt nói, “Năm Sơ Thủy Tây Hán nguyên niên, tổ tiên Lệnh Hồ thị ta và tổ tiên Địch thị chạy trốn đến Đôn Hoàng, đến nay đã có sáu trăm hai mươi mốt năm. Bọn ta trải qua vương triều sụp đổ, Hà Tây hỗn loạn, trong thời gian ấy có vô số đối thủ đáng sợ, cho tới bây giờ tất cả đều đã tro bụi không còn, mà bọn ta vẫn cắm rễ ở Đôn Hoàng, lập nên môn phiệt sĩ tộc. Dù vậy chưa từng có bất cứ một đối thủ nào khiến cho bọn ta sợ hãi, chật vật và vô lực giống như ngươi.”

“Vậy nói đi, rốt cuộc ta đã làm việc gì khiến các ngươi phải e ngại như thế?” Lữ Thịnh nói.

“Không thể nói được!” Lệnh Hồ Đức Mậu chậm rãi đáp. “Không thể nói được! Dù ngươi đã đâm một đao vào trong tận xương tủy bọn ta, bọn ta cũng không dám kêu đau!”

“Đáng tiếc, rất nhiều chuyện cũ ta đều đã quên.” Lữ Thịnh cảm khái. “Ngươi không nói ta cũng sẽ không biết. Hôm nay ta chết, các ngươi hãy vĩnh viễn chịu đựng nỗi đau đớn này đi!”

“Ngươi quả thật đã mất trí nhớ?” Địch Xương đột nhiên hỏi. “Ngươi còn nhớ ta không?”

“Biết ngươi, nhưng không nhớ ngươi.” Lữ Thịnh nhìn hắn. “Địch Xương, Địch Hoằng Nghiệp, gia chủ Địch thị hiện nay, phụ thân của Địch Văn.”

“Còn dám nhắc tới Địch Văn!” Lệnh Hồ Chiêm gầm lên giận dữ, định tiến lên.

Lệnh Hồ Đức Mậu bỗng xoay người, một cái tát đánh thẳng vào mặt hắn, Lệnh Hồ Chiêm lập tức ngây người.

Lệnh Hồ Đức Mậu không để ý tới hắn, nhìn chằm chằm Lữ Thịnh. “Ta mặc kệ ngươi mất trí nhớ thật hay mất trí nhớ giả, mau nói ra tung tích của những thứ kia!”

“Ta không biết ngươi đang nói tới những thứ gì.” Lữ Thịnh lắc đầu. “Bây giờ ta đã như một cái xác không hồn, hoàn toàn không có ký ức, trong lồng ngực chỉ còn lưu lại duy nhất một câu nói, đó chính là ‘Tái chiến Đôn Hoàng’! Ta không biết chiến ý này từ đâu mà đến, cũng không biết đao trong tay phải chém tới đâu, ta giống như Hình Thiên mất đầu, vung búa tìm lại con đường mà chính mình đã đi qua.”

Lệnh Hồ Đức Mậu và Địch Xương nhìn nhau một cái, đều cảm thấy sống lưng phát ra từng đợt lạnh toát, lập tức đầm đìa mồ hôi.

“Đã như thế…” Lệnh Hồ Đức Mậu xoay người đi, quát. “Vậy liền triệt để chôn vùi đi! Giết…”

Địch Xương bi thương nhìn Lữ Thịnh một cái, không nói một lời xoay người bước đi.

Lệnh Hồ Chiêm cười ác độc, khẽ hất mũi chân, từ dưới đất hất lên một cây trường thương nắm trong tay, quát to. “Yêu sói, hôm nay ân oán giữa ngươi và ta cuối cùng cũng chấm dứt!”

Lữ Thịnh nhắm mắt mỉm cười, khẽ ngâm:

“Đành thôi, cả một nước không ai hiểu lòng ta, những buồn đau trong lòng biết ngỏ cùng ai? Phượng hoàng vỗ cánh bay lên cao vợi, ta nay cũng đành phải đi xa. Thần long nơi vực sâu vô tận, lại lặn sâu để tự bảo vệ mình. Chỉ biết trốn dưới đáy vực quanh năm, lại có khác nào loài đỉa loài giun? Sống tầm thường nơi kênh rạch đục ngầu, sao sánh nổi với cá lớn nuốt thuyền! Ta như cá kình tung hoành biển lớn, kiến dế kia sao hiểu nổi lòng ta…”

Địch Thuật cũng hất lên một cây trường thương, hai người đồng thời ra tay, trường thương dính máu đột nhiên đâm về phía ngực Lữ Thịnh.

“Dừng tay!” Đột nhiên, một giọng nữ thê lương vọng đến từ trên vách núi phía bắc. “Huynh trưởng, không thể giết chàng!”

Địch Thuật và Lệnh Hồ Chiêm kinh hãi, đồng thời dừng tay lại.

Lệnh Hồ Chiêm nói chậm rãi. “Huynh trưởng… Chẳng lẽ là…”

“Là tiểu muội!” Địch Thuật kích động nói.

Hai người cầm trường thương, cùng nhìn về phía bắc, nhìn thấy một người phụ nữ mặc váy dài vội vàng chạy tới, phía sau còn có hai người đàn ông trung niên ăn mặc có vẻ như văn lại.

Trên cầu đứng đầy quân tốt, có quân tốt giơ trường thương định ngăn cản, Lệnh Hồ Chiêm quát. “Để cho họ tới đây!”

Đám quân tốt nhường ra một lối đi, người phụ nữ kia cùng văn lại chạy đến trước mặt họ, quả nhiên là Địch Văn. Văn lại đi theo phía sau là Triệu Phú và Trịnh Biệt giá.

Thì ra Lữ Thịnh và Địch Văn bị đám người Trịnh Biệt giá ép đi tới Tây Quật. Trịnh Biệt giá căn cứ theo mệnh lệnh Khuê Mộc Lang để lại trước lúc ngủ say, cho người giám sát Lữ Sư Lão. Sau khi Lữ Sư Lão cố ý để mình bị bắt, tìm ra nơi ẩn thân của Lệnh Hồ Đức Mông, Trịnh Biệt giá đang định hạ lệnh cho đám tinh tướng tập kích tháp bảy tầng thì lại thấy Lữ Sư Lão lao ra từ trong tháp, sau đó bị bắn chết trên cầu.

Trịnh Biệt giá biết là có bẫy, nhưng Lữ Thịnh lại nhớ hình dáng của Lữ Sư Lão, muốn gặp ông ta lần cuối để hỏi lại chuyện cũ của mình. Trịnh Biệt giá và Địch Văn đau khổ khuyên bảo nhưng Lữ Thịnh nói với Địch Văn rằng mình chỉ còn có hai mươi ngày tuổi thọ, hắn hi vọng trước khi chết có thể tìm về được kí ức. Trước mặt mặc dù là cạm bẫy thật, nhung.chết sớm mấy ngày so với chết muộn mấy ngày cũng chẳng có gì khác biệt.

“Văn Nhi, xin lỗi vì đã không thể ở bên nàng thêm hai mươi ngày nữa,” Cuối cùng Lữ Thịnh nói. “Ta hy vọng nàng sẽ sống tiếp, sau này có thể giúp ta tìm về thi thể, táng trong tiểu viện của chúng ta ở Ngọc Môn Quan.”

Địch Văn khóc nức nở, nàng ở trên hang Phật trơ mắt nhìn Lữ Thịnh từng bước một rơi vào tuyệt cảnh, cuối cùng vẫn không thể nào mà dứt bỏ được.

Địch Văn chạy đến gần, bước chân chậm lại. Lữ Thịnh lặng lẽ nhìn nàng, tuy hơi đắng chát nhưng cũng có chút vui mừng.

“Tiểu muội…” Địch Thuật ném xuống trường thương trong tay, vừa ngạc nhiên vừa vui mừng. “Muội… muội còn sống… Chẳng lẽ là ta đang nằm mơ?”

“Huynh trưởng!” Nước mắt của Địch Văn chậm rãi rơi. “Muội còn sống.”

Địch Thuật không cầm được nước mắt, quay đầu lại hét to. “A gia! Tiểu muội còn sống…”

Lệnh Hồ Chiêm ngơ ngác nhìn Địch Văn, Địch Văn trước mặt và trong trí nhớ của hắn hoàn toàn không giống nhau.

Trên thực tế đối với hắn mà nói, hình dáng của Địch Văn sớm đã mờ nhạt rồi. Mấy năm nay hắn coi đây là chấp niệm, dựng lại hình dáng của Địch Văn trong đầu, cho rằng cô gái ấy là một người dịu dàng, mềm mại và đáng yêu, lại hơi yếu ớt, cần hắn đến bảo vệ và cứu vớt. Hắn đã từng vô số lần giật mình tỉnh lại từ trong đau khổ và giày vò, giữa đêm khuya “đối thoại” với “nàng” trong phòng hay dưới mái hiên, kể cho “nàng” nghe về sự nhục nhã và nỗi bi thương của mình; “nàng” cũng nói với hắn rằng mình đang chờ đợi và tha thiết trông mong hắn tới cứu.

Trong nháy mắt khi Địch Văn xuất hiện. “nàng” bỗng dưng nổ tung, vỡ vụn rồi tan biến thành cát bụi. Lệnh Hồ Chiêm đau nhói trong lòng, dường như trái tim vừa bị cắt mất một miếng, lúc này đã chảy đầm đìa máu tươi.

Xuyên qua giáp trận trùng trùng, Địch Xương sớm đã trông thấy Địch Văn, sắc mặt nhất thời mưa nắng thất thường, một hồi lâu sau vẫn không nói gì. Các gia chủ khác cùng nhìn ông ta chằm chằm, Trương Tệ than thở. “Hoằng Nghiệp, đi tới đi. Luân lý cha con, chúng ta đều hiểu.”

Đã bố trí gian tế như Triệu Phú, các vị gia chủ sĩ tộc đương nhiên sớm đã biết Địch Văn còn sống, dù vậy xuất phát từ vinh dự của gia tộc, Địch Xương vẫn tuyên bố với bên ngoài rằng con gái đã chết. Ông ta biết rõ con gái mình đang bị cầm tù ở Ngọc Môn Quan nhưng không thể nào cứu được, cũng không biết đã đau khổ bao nhiêu năm. Mắt thấy hôm nay con gái lại xuất hiện trước mặt mình, ông ta buồn vui lẫn lộn, cũng có một loại cảm giác như vừa mới trút xuống được gánh nặng, buồn bã thở dài một hơi rồi cất bước đi tới.

Nhưng Địch Xương vừa mới đi được một bước thì Lệnh Hồ Đức Mậu đột nhiên nắm lấy cánh tay ông ta, không nói một lời, chỉ nhìn ông ta chằm chằm.

Địch Xương vẻ mặt đau khổ. “Đức Mậu công!”

“Đức Mậu công…” Âm Thế Hùng lạnh lùng nói. “Địch gia đã hi sinh vì chúng ta nhiều rồi!”

“Chẳng lẽ Lệnh Hồ gia ta hi sinh không đủ nhiều hay sao?” Lệnh Hồ Đức Mậu nghiến răng nghiến lợi nói.

Trương Tệ, Âm Thế Hùng và Phiếm Nhân Kiệt nhìn thấy dáng vẻ hung ác của ông ta, trong lòng đều chột dạ, ngượng ngùng không nói gì nữa.

“A gia…” Địch Thuật ở xa xa cho rằng Địch Xương không nghe thấy, nghẹn ngào gọi to. “Tiểu muội còn sống! Tiểu muội về rồi!”

Cách binh giáp và trường thương san sát, Địch Xương nhìn con gái nhiều năm không gặp, nước mắt nhanh chóng che mờ hai mắt. Ông ta không nhìn Lệnh Hồ Đức Mậu nữa, đưa tay nắm lấy tay Lệnh Hồ Đức Mậu rồi từ từ nhưng kiên quyết gỡ ngón tay của Lệnh Hồ Đức Mậu ra, sau đó bước về phía cầu vòm.

Quân trận tránh đường nhường một lối đi, Địch Xương cố gắng làm ra vẻ mặt nghiêm khắc, nhưng còn chưa đi tới bên cạnh Địch Văn thì nước mắt đã trào ra. “Văn Nhi…”

Địch Văn lao tới quỳ xuống dưới chân phụ thân. “A gia, nữ nhi về rồi!”

Tay Địch Xương run rẩy đặt lên vai Địch Văn, giọng nói nghẹn ngào. “Đầu gối mấy năm nay có đỡ hơn không?”

Địch Văn kinh ngạc, lập tức khóc nức nở. Nàng còn nhớ thuở nhỏ đầu gối mình bị đau, Đôn Hoàng ngày đêm chênh lệch nhiệt độ quá lớn, vừa đến đêm đầu gối lại đau nhức, phụ thân liền đến bên giường xoa bóp đầu gối cho mình. Có lúc nàng trầm lắng chìm vào trong giấc mơ, tới lúc tỉnh giấc phát hiện phụ thân đang ngồi dựa vào bên cạnh ngủ, dù vậy bàn tay vẫn còn vô thức xoa bóp gối cho nàng.

“Mấy năm nay không tái phát nữa,” Địch Văn vừa khóc vừa nói.

“Tiểu muội, mấy năm nay muội sống thế nào? Khuê Mộc Lang kia vì sao…”

Địch Thuật hỏi, vẻ mặt vui sướng, còn chưa nói xong lại bị Địch Xương ngắt lời.

“Vậy thì tốt! Vậy thì tốt!” Địch Xương nhẹ nhàng xoa đầu Địch Văn, đột nhiên bàn tay đau đớn như bị kim đâm, kêu lên một tiếng. Vừa rồi ông ta đặt tay lên vai Địch Văn còn cách y phục, lần này chạm vào da lập tức bị thiên y đâm vào tay.

“A gia làm sao thế?” Địch Thuật giật mình kinh ngạc.

“Không sao… Không sao…” Địch Xương trong lòng biết rõ nhưng không muốn vạch trần, chịu đựng đau đớn kéo Địch Văn lên, quan sát kĩ rồi thở dài thương cảm.

“Cửu Lang!” Địch Thuật gọi Lệnh Hồ Chiêm. “Mau đến đây!”

Lệnh Hồ Chiêm xách trường thương chậm rãi đi tới, bình tĩnh chắp tay. “Địch nương tử!”

“Lệnh Hồ lang quân!” Địch Văn cũng cúi người thi lễ.

Nhìn thấy hai người chào hỏi bình thản mà xa cách, lúc này Địch Thuật mới lấy lại tinh thần sau lúc đầu mừng rỡ như điên, lắc đau đắng chát. “Tiểu muội, mọi người đều biết mấy năm nay muội chịu nhiều đau khổ. Nhưng bất kể đã trải qua chuyện gì, muội đều là tiểu muội của Địch Thuật ta. Mấy năm nay vì tìm muội, Lệnh Hồ Cửu Lang cũng lăn lộn khắp nơi, cửu tử nhất sinh, đến nay muội vẫn là nàng dâu của Lệnh Hồ gia, những việc này có vi huynh lo liệu, nhất định sẽ không để muội phải ấm ức nữa. Hôm đón dâu ấy ta không thể bảo vệ muội, nhưng sau này sẽ khác!”

“Tạ ơn huynh trưởng, là muội đã phụ lòng Lệnh Hồ lang quân.” Ánh mắt của Địch Văn khẽ đụng chạm với Lệnh Hồ Chiêm một chút, sau đó liền lướt qua vai hắn, chăm chú nhìn Lữ Thịnh cách đó không xa. “Bây giờ muội đã là thê tử của Lữ Thịnh rồi!”

Ba người Địch Xương, Địch Thuật và Lệnh Hồ Chiêm đều đồng loạt sửng sốt.

Ngay cả Địch Xương sớm đã biết Địch Văn bị cầm tù, nhưng lúc đầu tin tức nhận được từ chỗ Triệu Phú cũng không nói tỉ mỉ, chỉ nói Địch Văn còn sống, bị yêu sói cưỡng chiếm. Ông ta cũng không nghĩ rằng con gái mình lại trở thành vợ của kẻ thù. Nhìn dáng vẻ đầy thâm tình ấy, dường như còn là nó cam tâm tình nguyện!

“Con nói bậy bạ cái gì thế!” Địch Xương thấp giọng quát, sợ hãi nhìn hai bên một chút, thấy đám quân tốt đều đứng cách ba mươi bộ, chưa chắc có thể nghe thấy, lúc này mới thở phào nhẹ nhõm.

Trong nháy mắt, mặt Lệnh Hồ Chiêm đỏ bừng lên, nghiến răng nghiến lợi nói, “Địch nương tử có biết mình đang nói cái gì hay không?”

“Đây là lỗi của ta.” Địch Văn thản nhiên nhìn hắn. “Ta đã hứa gả cho lang quân làm vợ, nửa đường lại theo người khác. Nữ tử trên thế gian không có ai vô liêm sỉ như ta, kiếp này gặp nỗi khổ hình lục, sau khi chết vào địa ngục A Tỳ, bất kể nghìn vạn tai kiếp ta đều nguyện ý, nhưng ta không muốn che giấu tâm ý của mình.”

“Địch Văn!” Lệnh Hồ Chiêm nghiến răng nghiến lợi. “Nữ tử trên thế gian này đều bạc bẽo và tuyệt tình như nàng hay sao?”

Địch Văn thở dài. “Muốn chung tình với một người thì phải vô tình với một người khác. Kiếp này ta đã gả cho Tứ Lang rồi thì bất kể có bao nhiêu ách nạn cũng đều sẽ cùng Tứ Lang đi tiếp, cho dù đó có là tuyệt lộ nhân gian.”

“Không phải ta muốn nàng quay lại,” Lệnh Hồ Chiêm đã hoàn toàn tuyệt vọng, một luồng ngạo khí bốc lên, lạnh lùng nói. “Cũng không phải muốn nàng cảm ơn, phỏng chừng nàng cũng sẽ không hiểu. Nhưng nàng phải biết, bất kể nàng lựa chọn tình cảm kiểu gì cũng đều không thể trả giá bằng việc làm tổn thương người khác, làm hại tới gia tộc mình.”

“Lệnh Hồ lang quân, ta biết rõ việc này mang đến sỉ nhục cho lang quân và Lệnh Hồ thị, cũng có lỗi với lang quân đã tìm kiếm suốt mấy năm nay,” Địch Văn buồn bã nói. “Nhưng ta chưa bao giờ từng có lỗi với gia tộc. Năm ấy gia tộc vì muốn hãm hại Lữ Tứ Lang mà hứa gả ta cho Tứ Lang. Sau khi hủy diệt Tứ Lang vì gia tộc muốn kết minh với Lệnh Hồ thị của lang quân nên lại gả ta cho lang quân, ngay sau đó lại bị Lữ Tứ Lang bắt đi. Trong toàn bộ chuyện này, có một chút nào là lựa chọn của chính ta không?”

Môi Địch Xương run run, trong lòng vô cùng xót xa nhưng không thể nói được gì. Vẻ mặt Địch Thuật cũng vô cùng áy náy, thở dài buồn bã.

“Thuở nhỏ trong gia tộc ta rất được sủng ái, ta cũng chưa từng oán hận những an bài của gia tộc, cam nguyện hi sinh. Nếu ngày ấy gặp nạn ta chết thì cũng coi như đã trả hết những ân tình của họ, nhưng ngẫu nhiên sống sót liền không thể trả hết được sao? Thế gian này đâu có đạo lý ấy, kể cả Phật Tổ cũng không thể yêu cầu ta vĩnh viễn không ngừng hy sinh vì gia tộc được,” Địch Văn chậm rãi nói. “Ba năm sống ở Ngọc Môn Quan, Tứ Lang cực kì tốt với ta. Chàng nói Ngọc Môn Quan chính là đích đến cuối cùng của ta, chàng sẽ để ta sống theo đúng tâm ý của mình, chàng sẽ bảo vệ ta đến cuối cùng của sinh mạng chàng, sẽ không để người khác thao túng vận mệnh của ta nữa. Có lẽ mới đầu ta là tham sống sợ chết, cố sống tạm bợ; nhưng sau ba năm nay, ta biết ta đã yêu chàng rồi và điều đó không thể nào thay đổi.”

Địch Thuật nhìn em gái, nói hơi thẫn thờ. “Tiểu muội, ta chưa hề nghĩ rằng trong lòng muội lại có nhiều oán niệm với phụ thân và với ta như vậy.”

“Muội biết huynh trưởng hy vọng muội được hạnh phúc,” Địch Văn nói. “Có lẽ vận mệnh trên thế gian chính là như thế, bước về phía trước một bước liền xoay trời chuyển đất. Nếu lần thứ hai gả cho Lệnh Hồ lang quân chính là kết cục cuối cùng thì có lẽ sẽ là kết cục phụ từ nữ hiếu, huynh muội thuận hòa; nhưng vận mệnh chính là như vậy, không chỉ một cô gái yếu đuối như muội không thể kháng cự mà đàn ông như huynh cũng không thể kháng cự.”

Địch Văn mỉm cười, bước đến chỗ Lữ Thịnh, đi sát qua bên cạnh Lệnh Hồ Chiêm. “Lệnh Hồ lang quân, nếu lang quân hận ta sỉ nhục lang quân và gia tộc của lang quân, ta cũng không có cách nào làm cho lang quân tiêu tan nỗi hận. Trong tay lang quân có thương, có thể một thương đâm chết ta. Hôm nay Lữ Tứ Lang phải chết, ta đến đây chính là muốn được cùng chết với Tứ Lang. Hi vọng cái chết của ta có thể giảm bớt đôi chút căm hận trong lòng lang quân.”

“A…” Lệnh Hồ Chiêm muốn nứt khóe mắt, giơ trường thương lên định đâm tới.

“Cửu Lang…” Địch Thuật xông về phía trước một bước, rút đao chặn trên lá giáp trước ngực hắn. Keng một tiếng. “Hai nhà chúng ta đã giao tình suốt hàng trăm hàng nghìn năm nay, việc này luôn có thể giải quyết, nhưng nếu Cửu Lang thương tổn Văn Nhi sẽ trở thành kẻ thù của ta!”

Địch Văn và Lữ Thịnh sánh vai đứng bên cạnh thành cầu. Địch Văn khoác cánh tay Lữ Thịnh, vẻ mặt thỏa mãn, dường như đang chờ mong cái chết sắp đến.

“A gia…” Địch Thuật cầu khẩn. “A gia phải cứu tiểu muội!”

Địch Xương lệ già rưng rưng, lại luống cuống chân tay không biết xử trí thế nào.

“Hoằng Nghiệp, ta sớm đã khuyên ngươi, ngươi không nên tới.” Lệnh Hồ Đức Mậu từ xa bước tới, chán ghét nhìn Địch Văn và Lữ Thịnh một cái.

“Đó là con gái ta!” Địch Xương khẽ quát.

Lệnh Hồ Đức Mậu lạnh nhạt nói, “Con gái của sĩ tộc sinh ra được hưởng thụ vinh quang của gia tộc, liền phải thừa nhận sự cắn trả của vinh quang. Hơn sáu trăm năm qua, tổ tiên hai nhà chúng ta đời đời hy sinh cho gia tộc mới tạo nên được vinh quang của hôm nay, vì sao đến đời này của chúng ta lại không nỡ? Ngươi xem các nhà Tống, Sách từ Bắc triều tới nay giờ đang dần dần suy tàn, vì sao? Bởi vì không có người chịu hy sinh vì gia tộc!”

“Vì sao hi sinh không phải ta mà lại là con gái ta?” Địch Xương chậm rãi hỏi.

“Bởi vì mỗi người đều có vị trí và sứ mệnh của riêng mình, không thể nào thay thế được. Trương Tệ không nỡ hi sinh con gái nên gặp phải kiếp nạn hôm nay, chẳng lẽ Địch thị cũng định bước theo chân của Trương thị sao?” Lệnh Hồ Đức Mậu nói.

“Ngươi muốn ta làm thế nào?” Địch Xương hỏi.

“Bất kể là kẻ phản quốc hay là yêu sói, thứ hắn mang cho ngươi đều là sự sỉ nhục.” Lệnh Hồ Đức Mậu lạnh lùng đáp. “Ba năm trước con gái của ngươi đã chết rồi, hôm nay xuất hiện trước mắt ngươi chỉ là yêu thuật, là ảo giác thôi.”

“Bao nhiêu người ở đây đều đang nhìn chằm chằm vào đấy!” Địch Thuật cả giận nói.

“Thì đã làm sao?” Lệnh Hồ Đức Mậu cười lạnh lùng. “Năm ấy trên phố lớn Cam Tuyền, ngươi và Chiêm Nhi giết hết nhân chứng, ai dám nói nhảm? Chẳng qua chỉ là giết thêm vài người thôi.”

Địch Xương và Địch Thuật nhất thời lộ vẻ sợ hãi.

Lệnh Hồ Đức Mậu tóm được cánh tay Địch Xương, nói nhỏ. “Môn phong lễ pháp của sĩ tộc chính là da của con người. Da đã không còn, lông bám vào đâu? Hôm nay ngươi muốn da của Địch thị bị cắt đi lúc còn đang sống sờ sờ như vậy hay sao?”

Địch Xương giãy giụa, do dự nhìn Địch Văn rồi đột nhiên khóc lớn.

“A gia!” Địch Thuật kinh hãi. “Đó là tiểu muội mà! Ngài không thể…”

Địch Xương đột nhiên lật tay, một cái bạt tai đánh thẳng vào mặt hắn, lại đưa tay tóm lấy dây buộc trên áo giáp của hắn, ném hắn ra ngoài. Ông ta vừa đi toàn thân vừa run rẩy, rơi lệ không ngừng, không dám nhìn Địch Văn một lần nào nữa.

Lệnh Hồ Đức Mậu xoay người đi thẳng. “Chiêm Nhi, bắn tên!”

Lệnh Hồ Chiêm ngơ ngác nhìn xung quanh, lại nhìn Địch Văn trước mặt, vẻ mặt thẫn thờ.

Lệnh Hồ Đức Mậu quay lại nhìn hắn, vẻ mặt lạnh lùng. “Ta yêu cầu ngươi hạ lệnh, bắn tên!”

Lệnh Hồ Chiêm đột nhiên hét to một tiếng, giơ ngang trường thương đập mạnh xuống đầu gối, cán thương gãy đôi, xoay người đi thẳng. Lệnh Hồ Đức Mậu không nén được giận, rút cờ lệnh từ trên người hắn ra rồi giơ tay vẫy xuống.

Đám quân tốt xung quanh ngơ ngác nhìn nhau một lát, Mã Hồng Đạt gật đầu, thế là cùng kéo ra dây cung, ngắm chuẩn Lữ Thịnh và Địch Văn. Trong thời khắc sinh tử, Lữ Thịnh nhìn Địch Văn, có chút bi thương. “Văn Nhi, nàng không nên tới.”

“Chỉ cần hai người ở bên nhau, bất kể ở đâu cũng đều là tiểu viện Ngọc Môn Quan, cần gì phải để ý chúng ta táng nơi nào?” Địch Văn dịu dàng nói. “Tứ Lang, kết cục như vậy thật sự rất tốt, ta rất vui vẻ.”

“Nhưng ta không cam lòng.” Lữ Thịnh lắc đầu. “Ta là phu quân của nàng, năm đó hứa hẹn với nàng rằng ta còn sống sẽ bảo vệ nàng, chết rồi cũng sẽ bảo vệ nàng. Đây là lời thề của ta đối với nàng.”

“Đến địa phủ suối vàng rồi chàng vẫn tiếp tục bảo vệ thiếp mà,” Địch Văn cười nói.

“Không!” Lữ Thịnh khăng khăng cố chấp. “Văn Nhi, để ta an bài vận mệnh của nàng một lần cuối cùng, ta muốn nàng sống tiếp.”

Lữ Thịnh nhặt một mũi tên từ dưới đất lên, vạch một cái trên cánh tay, máu lập tức tuôn ra. Hắn giơ cánh tay lên chậm rãi quẹt lên mặt, trên mặt lập tức dính đầy máu tươi, dữ tợn vô cùng.

“Khuê Mộc Lang, ta nhận thua!” Lữ Thịnh cười thảm thiết.

“Bắn…” Ngoài quân trận, Mã Hồng Đạt gầm lên giận dữ.