Chương 21 Phương thức báo thù-của Trạng nguyên Đại Đường
“Đến đi! Chính là nơi này… Chính là nơi này… Ta dẫn ngươi đi tới điểm cuối cùng của vận mệnh, điểm cuối cùng của hủy diệt, chúng sinh như kiến cỏ, thiên đạo như bánh xe, mà kéo chiếc xe này chính là thần linh trên trời! Nghiền nát bọn chúng…”
Trong đường hầm phát ra tiếng tụng niệm trầm thấp.
Đám người Huyền Trang căng thẳng đứng ở trong Phật điện, chăm chú nhìn đường hầm. Nơi Phật điện u ám mênh mông, ánh sao chiếu xuống, một bóng dáng to lớn từ từ bước ra từ trong đường hầm. Trong lúc bóng dáng ấy bước đi, bốn chân giẫm xuống đất phát ra tiếng va chạm nặng nề giữa kim loại và gỗ. Chợt, một con sói toàn thân đẫm máu xuất hiện ở cửa đường hầm, trên lưng còn cắm một mũi tên.
Khuê Mộc Lang dường như đã hao hết tinh khí, thân hình lảo đảo, xung quanh mơ hồ bốc lên một màn sương mù màu đen.
Bùm một tiếng, Khuê Mộc Lang ngã sấp xuống đất, ngay sau đó liền giãy giụa đứng dậy, dường như hình thể lại đang phát sinh sự thay đổi, càng lúc càng giống với hình người.
Trong miệng sói phát ra tiếng người đang nỉ non. “Đến đi! Việc ngươi phải làm là bơi ngược dòng nước, trăm sông cuồn cuộn, nhấn chìm lăng tẩm, núi cao thành vực, vực sâu thành gò. Chính là nơi này… Chính là nơi này…”
“Không, đó là việc mà ngươi phải làm, không phải ta!” Trong miệng sói đột nhiên lại phát ra tiếng người, là giọng nói của Lữ Thịnh, hoàn toàn khác với Khuê Mộc Lang.
“Bồ Đề từ đâu mà có chứng quả, hôm nay mới biết được ta là ta,” Khuê Mộc Lang ngã xuống đất, lẩm bẩm nói. “Nhân gian trên trời đã gặp nhau, ta là ngươi còn ngươi là ta.”
Mọi người đều ngơ ngác nhìn, trong miệng một con sói lớn phát ra hai loại âm thanh đối thoại, quyết liệt tranh luận với nhau, quỷ dị vô cùng. Đột nhiên con sói hú dài một tiếng, một đám sương đen lan rộng, đến lúc sương đen từ từ tan đi đã biến lại thành hình dáng Lữ Thịnh. Hắn toàn thân là máu, tóc tai bù xù, sau lưng còn cắm mũi tên.
Đám người Địch Pháp Nhượng vẫn ngồi yên trên ghế dựa, im lặng nhìn Lữ Thịnh, không hề né tránh.
Lữ Thịnh loạng choạng đứng dậy, đưa tay tóm lấy cán tên rồi đột nhiên rút mạnh, đau đến mức kêu lên một tiếng, mạnh mẽ rút mũi tên ra. Hắn nắm cán tên, đi từng bước về phía Hồ công, hai mắt nhìn chằm chằm vào ông ta. Hắn vừa đi vài bước lại va vào ghế dựa của Lệnh Hồ Đức Mông, chiếc ghế dựa nghiêng đi, suýt nữa thì đã đổ xuống.
Thi thể khô quắt của Lệnh Hồ Đức Mông vừa khéo mặt đối mặt với Lữ Thịnh.
Lữ Thịnh lập tức ngẩn ra, hết quan sát thi thể Lệnh Hồ Đức Mông lại nhìn Hồ công, sau đó đột nhiên tóm lấy Địch Pháp Nhượng, chĩa mũi tên vào cổ họng ông ta rồi quát lên. “Người này là ai?”
“Lệnh Hồ Đức Mông,” Địch Pháp Nhượng lạnh nhạt đáp.
Lữ Thịnh lại chỉ Hồ công. “Người kia là ai?”
“Lệnh Hồ Đức Mông,” Địch Pháp Nhượng nói.
Lữ Thịnh ngẩn người, đột nhiên bỏ ông ta ra rồi tự đấm vào đầu mình, lẩm bẩm nói, “Lệnh Hồ Đức Mông là ai…”
Mọi người cũng hơi bất ngờ, ngơ ngác nhìn nhau.
Địch Pháp Nhượng đã quá già yếu, bò dậy từ dưới đất, thở dốc. “Ông ấy là người mà ngươi hận nhất, ngươi cũng là người ông ấy hận nhất. Ngươi lao tâm khổ tứ tìm cách giết ông ấy, ngày này qua ngày khác, năm này qua năm khác, ông ấy cũng thế. Thậm chí ngay cả chết ông ấy cũng không dám chết, bởi vì nếu ông ấy chết rồi thì sẽ không còn ai khống chế ngươi, ngươi sẽ lật tung cả thiên hạ này lên, trăm sông cuồn cuộn, nhấn chìm lăng tẩm, núi cao thành vực, vực sâu thành đồi.”
Huyền Trang ở bên cạnh nghe vậy chấn động trong lòng, đây là lần thứ hai ngài nghe người ta nói về chí hướng Lữ Thịnh muốn hoàn thành. Lần đầu tiên là Sách Dịch, ông ta đã nói Lữ Thịnh đang ngược dòng mà đi. Hắn đi ngược với đại thế của thiên hạ, thậm chí là đại thế thiên hạ mà ngay cả Hoàng đế Đại Đường cũng bị cuốn vào trong đó. Còn hôm nay Địch Pháp Nhượng nói cụ thể hơn, mấy câu ông ta trích dẫn chính là lấy từ “Tiểu Nhã - thập nguyệt chi giao” trong “Kinh thi”: “Sấm sét sáng lòa, không yên không định. Trăm sông cuồn cuộn, nhấn chìm lăng tẩm, núi cao thành vực, vực sâu thành đồi. Thương xót người nay, thảm thiết ai hay”.
Trương Hoa thời Tây Tấn giải thích: Núi cao thành vực, vực sâu thành đồi, tiểu nhân nắm lệnh, quân tử suy bại, trắng đen không phân, ấy là dấu hiệu của đại loạn.
Địch Pháp Nhượng chỉ thẳng Lữ Thịnh chính là tai ương lớn dẫn đến thiên hạ này đại loạn. Trận tai ương này làm cho sĩ tộc Đôn Hoàng sợ đến mức bất chấp rủi ro vướng vào tội danh phản quốc, dẫn Đột Quyết đến xâm lấn tiêu diệt hắn! sẵn sàng nhường nhịn đám người như Vương Quân Khả, bức bách Trương thị gả con gái đầu hàng! Còn Lệnh Hồ thị càng không tiếc mạng một vị chủ sự của gia tộc! Lúc này đám người Lệnh Hồ Đức Mậu, Địch Xương tới tấp xông lên tầng chín, Hồ công vội vàng ngăn cản bọn họ, thấp giọng quát. “Dẫn bộ khúc đi lên, quân tốt khác canh giữ ở tầng tám!”
Lệnh Hồ Đức Mậu như vừa tỉnh mộng, trên mái vòm này chính là trời sao tinh tượng, triều đình nghiêm cấm, nếu bị người ngoài nhìn thấy ắt dẫn tới tai họa ngập trời. Ông ta vội vàng ra lệnh cho đám quân tốt đi xuống, chỉ cùng đám người Địch Xương, Trương Tệ, Âm Thế Hùng và Phiếm Nhân Kiệt đi lên.
Địch Văn cũng theo đám người Địch Thuật đi lên, vừa thấy vũ trụ trời sao trước mặt thì lập tức hơi kinh ngạc, không nghĩ tới gia tộc lại làm ra một đài thiên tượng khổng lồ như vậy ở Tây Quật.
“Ta là ai? Rốt cuộc ta là ai…” Đúng lúc này, Lữ Thịnh đột nhiên điên cuồng hét to, cầm lên thi thể của Lệnh Hồ Đức Mông hùng hổ đập vào tượng Phật bên cạnh, sau đó giơ cao ghế dựa ra sức đập lung tung, giống như đã phát điên.
“Không được làm nhục thi thể của huynh trưởng ta!” Lệnh Hồ Đức Mậu gầm lên giận dữ.
Lệnh Hồ Chiêm và Địch Thuật rút đao tiến tới, lại thấy Lữ Thịnh cười ác độc, tóm Địch Pháp Nhượng lên, dùng mũi tên chĩa thẳng vào đầu ông ta.
Địch Xương bên cạnh hoảng hốt, vội vàng kéo Địch Văn lại. “Văn Nhi, đó là tổ thúc phụ của con!”
Địch Văn đương nhiên biết vị danh tăng này trong gia tộc, buồn bã nói, “Bọn họ chính là thủ phạm đã hại Tứ Lang sao?”
Địch Xương không có tâm tư để tranh cãi với nàng. “Văn Nhi, Lữ Thịnh phát cuồng rồi. Mau cứu tổ thúc phụ của con!”
“Tổ thúc phụ của ta…” Địch Văn cười cười. “Ta vẫn là người của Địch thị sao?”
Địch Xương vội vàng nói, “Đúng, đúng! Văn Nhi, ở trong lòng a gia, con vĩnh viễn là nữ nhi của Địch gia!”
Địch Văn không nói gì, đi thẳng tới bên cạnh Lữ Thịnh, nhẹ nhàng ôm lấy hắn. Thân thể Lữ Thịnh cứng đờ, chậm rãi bình tĩnh lại, có điều ánh mắt vẫn đờ đẫn.
“Ngươi là ai…” Lữ Thịnh nhìn nàng.
“Thiếp là nương tử của chàng.”
“Ta là ai?”
“Chàng là Lữ Thịnh. ‘Đại Đường vô song sĩ, Vũ Đức đệ nhất nhân’.”
“Đây là đâu? Nhân gian? Thiên đình?”
“Đây là địa ngục. Chúng sinh nghiền ép, vạn vật lăng trì, cùng cực đau khổ.”
“Địa ngục… Ta trầm luân bao lâu rồi? Có thể chạy ra sao?”
“Chúng ta sẽ có thể được giải thoát rất nhanh, có thiếp ở bên chàng, vượt qua cửa lục đạo, chúng ta sẽ quên đi hết thảy, một lần nữa làm lại từ đầu.”
Địch Văn ôm Lữ Thịnh, hai người ngồi dựa vào nhau trên bậc thềm đối thoại. Địch Văn vừa nói vừa xé màn che bên cạnh băng bó vết thương trên người cho hắn. Dường như hai người vẫn đang ngồi trong tiểu viện ở Ngọc Môn Quan, như đang nói chuyện hàng ngày, coi mọi người xung quanh giống như không khí.
Ánh mắt Lữ Thịnh chậm rãi khôi phục bình tĩnh, hoàn toàn tỉnh lại sau một thời gian không ngừng biến đổi giữa người và sói. Hắn ngỡ ngàng nhìn xung quanh, pho tượng Phật lớn trước mắt, vũ trụ trời sao trên đầu Phật và mọi người trước mặt.
“Dưới trời sao đều là giun dế,” Lữ Thịnh cảm khái nói. “Pháp sư Huyền Trang!”
Huyền Trang lặng lẽ tiến lên phía trước, chắp tay. “Chúc mừng Lữ huynh khôi phục thần trí.”
Lữ Thịnh cười khổ. “Chưa nói tới khôi phục, linh lực của Khuê Mộc Lang tạm thời hao hết mà thôi.”
Huyền Trang trầm ngâm. “Kí ức trước kia thì sao? Có khôi phục được không?”
Lữ Thịnh lắc đầu. “Hôm nay vợ chồng ta phải chết, cái gọi là chân tướng thế nào giờ đã không còn quan trọng nữa, cuộc đời ta trong quá khứ cũng đã không còn quan trọng. Đến nay ta vẫn nhớ vinh quang khi thi trúng song Trạng nguyên, nhớ ước mơ lúc ta và pháp sư luận chiến tại chùa Đại Hưng Thiện; nhưng người chết như đèn tắt, không thể hoàn thành được lí tưởng chẳng phải là trạng thái bình thường của nhân gian hay sao? Kiếp này ta đã thua, kiếp sau sẽ làm lại! Đa tạ pháp sư bôn ba vất vả, hôm nay Lữ Thịnh ta xin cáo từ.”
Lữ Thịnh được Địch Văn dìu đứng dậy, ôm quyền thi lễ với Huyền Trang, vẻ mặt thê lương khó tả.
“Lữ huynh!” Huyền Trang chăm chú nhìn hắn, nói từng chữ từng câu. “Bần tăng không thẹn với sứ mệnh, đã nhìn thấy quá khứ của ngươi!”
Lữ Thịnh lập tức sững sờ, kinh ngạc nhìn Huyền Trang.
“Năm Vũ Đức thứ sáu, sau khi ngươi thi trúng song Trạng nguyên khoa Tú tài và khoa Tiến sĩ, Thái thượng hoàng đã đề bạt ngươi vào Hoằng văn quán, khi đó còn gọi là Tu văn quán, làm Trực học sĩ, phẩm bậc chính bát phẩm thượng. Mặc dù Trực học sĩ là chức quan thấp nhưng địa vị quan trọng, truyền thụ kinh, sử, tử, tập cho con cháu quan lớn chính ngũ phẩm thượng trong kinh thành. Ngoài những lúc lên triều, Thái thượng hoàng thường xuyên dẫn các vị Trực học sĩ vào trong điện để bàn luận văn nghĩa. Trong các nhân tài mới xuất hiện ở Trường An, ngươi là đệ nhất, khi đó mọi người đều cho rằng hai mươi năm sau ngươi sẽ có thể trở thành Tể tướng…”
Huyền Trang chậm rãi nói, âm thanh vang vọng dưới trời sao trên mái vòm, trong Phật tháp chín tầng.
Lữ Thịnh và Địch Văn ngồi dựa vào nhau trên bậc thềm, chăm chú lắng nghe. Đám gia chủ Lệnh Hồ Đức Mậu, Địch Xương, Trương Tệ, Âm Thế Hùng và Phiếm Nhân Kiệt vẻ mặt khác nhau; còn Lệnh Hồ Chiêm và Địch Thuật dẫn theo bộ khúc sĩ tộc, cầm đao giương cung bao vây xung quanh.
Chỉ có mấy ông lão như Địch Pháp Nhượng vẫn ngồi ngay ngắn ở trên ghế dựa, dường như hết thảy xung quanh đều không có quan hệ gì với họ.
“Đến năm Vũ Đức thứ tám, lão phụ của ngươi đau ốm, cảm thấy ngày tháng không còn nhiều, hi vọng có thể quy táng đất tổ Đôn Hoàng. Ngươi vốn có bốn huynh đệ, ba vị huynh trưởng tất cả đều chết trận trong thời Tùy mạt, thuở nhỏ ngươi cùng lão phụ sống nương tựa lẫn nhau, không đành lòng làm trái tâm nguyện của lão phụ, liền dâng sớ khẩn cầu giáng chức. Bần tăng khi ấy không ở Trường An, không hề biết quá trình này ra sao, có điều hẳn là sẽ có rất nhiều người bóp cổ tay thở dài vì ngươi! Một nhân tài hai mươi năm sau có thể trở thành tể phụ lại rời xa trung khu, đến Tây Sa Châu làm một Lục sự tham quân.
“Khi đó là cuối mùa xuân năm Vũ Đức thứ tám, ngươi ngồi trên lưng ngựa, dẫn hai chiếc xe trâu, một chiếc xe chở lão phụ, một chiếc xe chở thi thư, chạy lên đường Lũng Hữu. Lúc đi qua Lương Châu, ngươi cùng phụ thân đến huyện Cô Tang thăm Lữ Sư Lão. Tám mươi năm trước Lữ thị chạy khỏi Đôn Hoàng, tứ tán khắp nơi, khi đó cha con ngươi đến thăm ông ta, có lẽ là mời chi của ông ta cùng trở lại Đôn Hoàng, cho nên năm Vũ Đức thứ chín Lữ Sư Lão cũng đến Đôn Hoàng một chuyến. Nhưng bần tăng có một nghi vấn, Lữ thị và Lệnh Hồ thị có mối thù không đội trời chung, tám sĩ tộc lớn thống trị Đôn Hoàng suốt bảy trăm năm, cha con ngươi hồi hương định cư, còn muốn mời tộc nhân trở về, chẳng lẽ không sợ tái khởi thù hận với Lệnh Hồ thị hay sao? Chỉ có một cách giải thích, ấy là cha con ngươi trở lại Đôn Hoàng, kì thực mang ý hòa giải!”
Lệnh Hồ Đức Mậu “Hừ” một tiếng, không nói gì.
Lệnh Hồ Chiêm cười lạnh lùng. “Bọn chúng về là để hòa giải? Mối thù diệt môn năm xưa, Lữ thị ghi nhớ suốt tám mươi năm, lời này có thể lừa được ai chứ?”
Huyền Trang điềm đạm nói, “Quả thật bọn họ về để hòa giải. Hai bên kết thù từ cuối thời Bắc Ngụy, sau đó lại trải qua Bắc Chu, Tùy, đến Đường. Ba triều đại nhanh chóng hưng vong, vô số gia tộc sụp đổ. Các ngươi ở Đôn Hoàng hẻo lánh có thể không cảm thấy, nhưng nhà của bần tăng ở Trung Nguyên, sau một trận loạn lạc, nhân khẩu châu huyện mười không còn một. Lữ Đằng thân là lão binh, sau khi trải qua loạn thế tự nhiên cũng hiểu thù hận hay hòa giải mới quý giá nhất”
“Ta vẫn không tin!” Lệnh Hồ Chiêm nghiến răng nghiến lợi nói.
“Vậy bần tăng liền nói tiếp, vì sao Lữ Đằng muốn hòa giải? Bởi vì ông ấy nhìn thấy hi vọng phục hưng gia tộc trên người con trai mình là Lữ Thịnh. Lữ Thịnh thi trúng song Trạng nguyên, Thái thượng hoàng khen là Vũ Đức đệ nhất nhân, người đương thời coi là lựa chọn cho tể phụ tương lai, vì vậy Lữ Đang liền phải suy nghĩ cho tương lai của con trai mình. Ông ấy suy nghĩ cho tương lai của Lữ thị, hoặc chìm trong thù hận diệt môn tám mươi năm trước không thể nào tự giải thoát được, hay là xóa bỏ chuyện cũ, cho con trai và Lữ thị một tương lai huy hoàng rực rỡ? Ông ấy lựa chọn cách thứ hai. Nói gần, ông ấy muốn sống quãng đời còn lại tại Đôn Hoàng, táng vào mộ tổ. Nói xa, Lệnh Hồ Đức Phân đã làm Thị lang Bộ Lễ trong triều đình, nếu không hòa giải, Lữ Thịnh liền có một tử địch trong triều đình. Cho nên sau khi trở lại Đôn Hoàng, chuyện đầu tiên cha con Lữ thị cần làm chính là muốn thông hôn với Địch thị.”
Lệnh Hồ Chiêm thoáng nhìn Địch Văn một cái, lập tức nổi giận. “Nói bậy! Hắn cầu thân với Địch thị rõ ràng là để phân hóa sĩ tộc!”
“Không phải phân hóa, là hòa giải.” Huyền Trang một bước cũng không nhường. “Người đời đều biết, Lệnh Hồ thị và Địch thị từ thời Tây Hán đã đồng khí liên chi. Địch Nghĩa và Lệnh Hồ Mại liên hợp khởi binh chống Vương Mãng, sau khi binh bại bị giết, con cháu lại cùng nhau chạy trốn đến Đôn Hoàng, hơn sáu trăm năm đời đời giao hảo. Lữ Đằng chẳng lẽ không có mắt sao? Cầu thân giúp con trai chẳng lẽ lại có thể phân hóa được hai gia tộc?”
Lệnh Hồ Chiêm không biết nói sao.
“Lữ Đằng muốn thông hôn với Địch thị, thứ nhất là bởi vì con trai Lữ Thịnh chính là song Trạng nguyên Đại Đường, Lục sự tham quân nắm quyền hành thực tế trong châu, long phượng trong loài người, tiền đồ vô lượng, có thể xứng với con gái của Địch thị; thứ hai chính là bởi vì Địch thị giao hảo với Lệnh Hồ thị, ông ấy thông hôn với Địch thị, kì thực là đưa ra thiện ý với Lệnh Hồ thị,” Huyền Trang nói.
“Đúng vậy!” Lý Thuần Phong than thở. “Tám mươi năm trước dù sao cũng là mối thù diệt môn, Lữ thị muốn hòa giải cũng không thể chủ động đến nhà. Việc thông hôn với Địch thị kì thực là hy vọng Địch thị làm cầu nối, chậm rãi hoà hoãn quan hệ giữa hai bên.”
“Lệnh Hồ lang quân nếu không tin, có thể hỏi Hoằng Nghiệp công xem.” Huyền Trang quay đầu sang nhìn Địch Xương, hơi cảm khái. “Bần tăng từng hỏi thăm, được biết năm ấy Lữ Đằng đã mời các bô lão trong phường đi cùng, đích thân đến Địch phủ cầu hôn. Theo lý mà nói, cầu hôn chỉ cần người mai mối là được, Lữ Đằng đã tự mình đi, chắc là để nói rõ thiện ý của Lữ thị với Hoằng Nghiệp công đúng không?”
Địch Thuật nhìn phụ thân, lại thấy Địch Xương không lộ cảm xúc, trên mặt dường như mang một vẻ sợ hãi mơ hồ.
“Đáng tiếc, Địch thị chẳng những không thể làm cây cầu nối này mà ngược lại còn làm gay gắt thêm mâu thuẫn giữa các bên, sỉ nhục Lữ Đằng trước mặt người khác. Nếu bần tăng đoán không sai, khi ấy Lữ Đằng hẳn là tức giận đến mức bất tỉnh, được người ta khiêng về phường An Hóa,” Huyền Trang nói tiếp.
Thấy Huyền Trang chỉ trích phụ thân mình, Địch Thuật cũng không nhịn được phản bác. “Pháp sư chớ ăn nói ba hoa! Địch thị ta há có thể làm chuyện như vậy!”
“Chuyện năm ấy quả thật bị che giấu rất kín, bần tăng đã hỏi thăm, cả châu thành không ngờ lại không có người nào dám nhắc tới, những bô lão đi cùng với Lữ Đằng còn không chịu gặp bần tăng. Một tộc Địch thị sẽ không có lực lượng mạnh mẽ đến như vậy, nên đây là do tám sĩ tộc lớn liên thủ cùng nhau làm đúng không?” Huyền Trang không ngừng lắc đầu. “Có điều bần tăng đã làm quen với một vị thí chủ ở chùa Thánh Giáo, nữ thí chủ ấy là nương tử của ông chủ y quán nổi tiếng nhất Đôn Hoàng.”
Địch Pháp Nhượng cũng không kìm được tò mò, cuối cùng mở mắt ra. “Có phải là Triệu Thất Nương của y quán Thẩm gia không? Bà ấy thế nào rồi?”
Huyền Trang lấy một chiếc túi gấm từ túi da trên người, mở ra lấy một tập giấy hơi ố vàng, chính là đơn thuốc của y quán Thẩm gia. Huyền Trang nghiêm túc mở đơn thuốc rồi bày trên án thư.
“Lữ Đằng đã có bệnh trong người, vì vậy không thể không xem bệnh bốc thuốc. Ông chủ của y quán Thẩm gia là hội thủ của phường hội y dược, bần tăng liền nhờ Triệu Thất Nương mang tất cả đơn thuốc của Lữ Đằng năm ấy tới. Cũng rất khéo, Lữ Đằng quả thật đã xem bệnh bốc thuốc ở chính y quán Thẩm gia.”
Lệnh Hồ Đức Mậu lạnh lùng nói, “Triệu Thất Nương này lại dám làm như thế.”
Lời này vừa nói ra, mọi người đều thở dài một hơi, như vậy chẳng khác nào biến tướng thừa nhận chuyện các sĩ tộc liên thủ giết Lữ Thịnh.
“Triệu Thất Nương không dám nói, có điều bần tăng đàm thiền với Triệu Thất Nương trên Phật điện chùa Đại Thừa, Triệu Thất Nương có can đảm lừa người, nhưng không dám lừa Phật,” Huyền Trang nói.
Đám người Lệnh Hồ Đức Mậu và Địch Xương ngơ ngác nhìn nhau, tới tấp cười khổ. Tăng nhân này đúng là quá vô lại, tra hỏi tín đồ trước mặt Phật Tổ, quả thực còn có hiệu quả hơn cả dụng hình.
Huyền Trang lấy ra một tờ đơn thuốc, giơ lên cho mọi người xem. “Bần tăng đã hỏi Sách Dịch, ngày tháng Lữ Đằng xem bói để cầu hôn là ngày Bính Thìn, tháng Bảy, mùa hè năm Vũ Đức thứ tám, mà buổi tối hôm đó Lữ Thịnh đến y quán kê đơn bốc thuốc, đơn thuốc không hề giống với đơn Lữ Đằng dùng hàng ngày. Đơn thuốc này trị chứng hôn mê, kê đơn dầu cao hoa hồng trị bị thương do ngã hoặc bị đánh. Bần tăng đoán với môn phong lễ pháp của Địch thị, chưa đến mức sẽ đánh một người già tới nhà cầu hôn, vì vậy phỏng đoán là dùng ngôn ngữ sỉ nhục, dẫn đến Lữ Đằng ngất xỉu ngã bị thương. Địch gia chủ, không biết suy đoán ấy của bần tăng có đúng không?”
Lữ Thịnh im lặng nghe, dường như nhìn thấy phụ thân mình trong lời kể của Huyền Trang, già nua và khắc khổ, vì đường làm quan của mình mà sẵn sàng khom lưng trước mặt kẻ thù. Hắn lờ mờ nhớ năm đó phụ thân nói với mình một câu, dường như rất quan trọng, nhung lại không thể nào nhớ ra được.
Mọi người đều nhìn Địch Xương, Địch Xương im lặng rất lâu rồi gian nan gật đầu.
“Hôm đó phụ thân ta nói, ông ấy ‘xem thường nhất chính là loại thứ dân hàn môn như các ngươi, tình cờ bồi dưỡng được một đứa con trai, có được một chút công danh liền muốn ngang vai ngang vế với môn phiệt sĩ tộc’.”
Địch Văn bỗng nhiên lên tiếng, nàng không thèm nhìn Địch Xương, hai mắt chỉ dịu dàng nhìn Lữ Thịnh, lạnh nhạt nói, “Phụ thân nói, ‘Loại cha mẹ như các ngươi là đáng hận nhất, chính mình tầm thường vô năng, chỉ mong con cái thành tài. Một khi con cháu có được chút công danh là các ngươi liền mang đi khoe khoang khắp nơi, tự cho rằng đã lột xác tiến thân cao môn. Vì sao triều đình lại phải quy định ba đời làm quan mới có thể được đánh giá phiệt duyệt? Chính là để đề phòng bọn chuột như các ngươi đó’.”
“Tiểu muội!” Địch Thuật quát.
“Huynh trưởng, ta có nói sai không?” Địch Văn cười cười. “Hôm ấy ta ở hậu đường nghe. Ta không dám đi vào, bởi vì Lệnh Hồ thế thúc đang ngồi sau bình phong.”
“Thì đã làm sao?” Lệnh Hồ Đức Mậu lạnh lùng nói. “Trước khi Lữ Đằng tới nhà, Hoằng Nghiệp công đã báo cho ta. Hê hê, hòa giải? Có lẽ pháp sư Huyền Trang đoán không sai, hắn muốn hòa giải. Nhưng hắn muốn hòa giải liền có thể hòa giải được sao? Pháp sư Huyền Trang đã nói, hắn hòa giải có hai lí do, một là để lá rụng về cội, hai là để mở cục diện cho Lữ Thịnh trên triều đình, đây đều là lợi ích của Lữ thị hắn, còn Lệnh Hồ thị ta có chỗ tốt gì? Vì sao Lệnh Hồ thị ta phải hòa giải với hắn? Thành tựu hiển hách của tiên tổ phụ Diên Bảo công giết Lữ Hưng, đuổi Trương Bảo, bảo vệ Đôn Hoàng đến nay vẫn còn khắc trên trụ phiệt duyệt nhà ta! Để tàn dư của Lữ thị trở lại Đôn Hoàng, chẳng lẽ là cho rằng Lệnh Hồ thị ta không có người hay sao?”
Huyền Trang than thở. “Không trách được tới giờ Địa Tạng Bồ Tát vẫn không thể nào ra khỏi địa ngục, chúng sinh thế gian tự xiềng xích mình, ai cũng không mở nổi những gông cùm này. Lữ huynh, hôm ấy chính là như thế, phụ thân ngươi được người ta khiêng về nhà. Bần tăng tra lại công văn xin nghỉ của nha môn châu, khi đó ngươi xin nghỉ phép, mời Thẩm y sư tới khám chữa cho phụ thân. Ngày hôm sau ngươi liền xông vào Địch phủ, đòi lại công bằng cho phụ thân. Tình hình hôm ấy bần tăng dò hỏi nhiều ngày, lại không có người nào biết được, chỉ biết hôm sau Địch phủ phát tang, trong phủ có một tộc lão đột nhiên qua đời.”
“Đó là tứ đệ tục gia của lão tăng,” Địch Pháp Nhượng đột nhiên nói.
“Bần tăng không biết vị tộc lão này vì sao mà chết, chỉ biết sau đó Lữ Thịnh liền bị sĩ tộc Đôn Hoàng chèn ép, tại Tây Sa Châu bước một bước cũng gian khổ, bị cả quan trên và thuộc hạ đều xa lánh. Bần tăng đã tra khảo khóa bạ của châu nha, quan lại khảo hạch trước khảo đức hạnh, sau khảo tài cán. Cứ mỗi năm một lần tiêu khảo, trước hết do bản thân người ứng khảo ghi công tội năng lực của mình, sau đó do Ty khảo công của châu viết ra khảo trạng, định thứ bậc khảo khóa rồi báo cáo với Ty khảo công của Bộ Lại để phê duyệt. Đây là khảo trạng của Lữ Thịnh năm Vũ Đức thứ tám do bần tăng sao lại…”
Huyền Trang lấy ra một phần khảo trạng bày trước mặt mọi người, mở ra tờ cuối cùng, bên trên không ngờ viết thứ bậc khảo khóa: Hạ thượng!
“Các vị không ít người đều đã làm quan, hẳn là không xa lạ, thứ bậc khảo khóa tổng cộng có chín bậc, thượng thượng, thượng trung, thượng hạ, trung thượng, trung trung, trung hạ, hạ thượng, hạ trung, hạ hạ. Quan lại tại nhiệm cần trải qua bốn lần khảo khóa, thứ bậc mỗi lần khảo khóa đều phải từ trung trung trở lên mới có thể điều nhiệm và thăng chức. Lữ Thịnh thi được hạ thượng. ‘Khảo khóa lệnh’ viết: ‘Xử lý công việc theo tình bỏ lí, ấy là hạ thượng’. Lữ Thịnh bị đánh giá hạ thượng, cơ bản vô vọng thăng quan, không giáng quan đã coi như may mắn. Lạ hơn nữa là trên khảo khóa bạ này còn ghi lại hắn từng bị Tư công khiển trách vì say rượu; còn có mấy lần do quản lý việc giao dịch mua bán phạm sai lầm, bị liên đới phạt bổng; do kiểm tra số lượng tiền tô có sai lầm, bị đánh trượng, do tuyển cử quan võ có gian lận, người gian lận nói đã hối lộ cho Lữ Thịnh, bị phạt bổng; do xử trí không hài hòa tranh chấp thủy lợi đồng ruộng, bị quan trên trách cứ; do điều giải tranh chấp của người Hồ ở chợ phiên dẫn phát ẩu đả; do nghiệm thu cầu không hợp với bản vẽ… Vì sao bần tăng nói những chuyện này, bởi đây là sĩ tộc của các vị bắt đầu liên thủ đối phó Lữ Thịnh, muốn hoàn toàn chặn đứng khả năng thăng quan tiến chức của hắn.”
Huyền Trang nghiêm túc bày ra từng tờ văn thư khảo khóa mình đã sao chép.
“Đây rõ ràng là chính bản thân Lữ Thịnh không làm tròn chức trách, tại sao lại dính líu đến sĩ tộc bọn ta?” Lệnh Hồ Chiêm phản bác.
Huyền Trang cười cười. “Tư công tham quân của Tây Sa Châu họ Lệnh Hồ, Tư thương tham quân là người của Trương thị, Tư sĩ tham quân là người của Phiếm thị. Chúng ta xem những chỗ Lữ Thịnh phạm sai lầm, tất cả đều có liên quan đến Thương tào, Hộ tào, Binh tào, Sĩ tào. Chợ phiên là do Thị lệnh huyện Đôn Hoàng quản hạt, Thị lệnh cũng vừa khéo là tộc nhân Trương thị. Các vị gia chủ có thể phủ nhận, nhưng xin nhớ các vị phải trả lời không phải bần tăng mà là thần Phật ở sau lưng.”
Huyền Trang đưa tay chỉ, đám người Trương Tệ vừa quay đầu lại liền nhìn thấy đầu Phật to lớn dưới trời sao vũ trụ, đều không nhịn được mà run lên.
“Lão phu nhận thì thế nào?” Trương Tệ lạnh lùng nói. “Lữ Thịnh là nghịch tặc, người người đều có thể giết.”
“Nhưng khi đó Lữ Thịnh chỉ có thù với Lệnh Hồ thị, có oán với Địch thị, lại không hề có ân oán với Trương thị của ngài cũng như Phiếm thị, Sách thị và Âm thị, đúng không?” Huyền Trang hỏi. “Trương công, Âm công và Phiếm công đều ở đây, xin trả lời bần tăng, vì sao các vị cho rằng Lữ Thịnh người người đều có thể giết?”
Các vị gia chủ ngơ ngác nhìn nhau, cho dù là người tính tình nóng nảy như Trương Tệ cũng không chịu nói ra một câu nào.
“Bần tăng nghĩ, nguyên nhân thật sự có lẽ vẫn là do Lữ Thịnh đã làm một số chuyện hoặc nói một số lời ở Địch gia, khiến tám sĩ tộc lớn đồng loạt tấn công. Những chuyện này bởi vì bần tăng không có nhân chứng, chúng ta để sau hẵng nói.” Huyền Trang lấy ra ba quyển sách từ trong túi da, chính là Tam tự thư của Lữ Thịnh gồm Tự trạch kinh, Tự lộc mệnh và Tự táng thư: “Sau khi Lữ Thịnh gặp phải tám sĩ tộc lớn liên thủ chèn ép, đã căm phẫn sửa chữa Tam tự thư của mình, truyền bá rộng rãi ở Tây Sa Châu.”
Lý Thuần Phong nói, “Đến nay Trường An vẫn có sách ấy, ta đã đọc rồi.”
“Bản thảo này là do Thập Nhị Nương nhà Thứ sử lần trước đoạt được trong tay của lang binh Ngọc Môn Quan, nội dung có nhiều chỗ khác so với bản bần tăng đã từng đọc ở Trường An khi trước,” Huyền Trang cười nói. “Lý Tiến sĩ chớ ngại xem xem.”
Huyền Trang đưa bản thảo cho Lý Thuần Phong.
Lý Thuần Phong vội vàng cầm lấy xem, đám người Lệnh Hồ Đức Mậu đương nhiên biết bản thảo này, sắc mặt lập tức trở nên hơi khó coi.
Cái gọi là Trạch kinh còn được gọi là Hoàng Đế trạch kinh, chính là một bộ sách thuật sĩ dùng để xem phong thuỷ nhà cửa. Hậu nhân lấy danh nghĩa Quách Phác thời Tây Tấn viết ra sách này. Trong ấy thuật sĩ phân loại các dòng họ theo cung, thương, giác, chủy, vũ, xưng là năm họ; muốn chọn địa chỉ trạch để của mỗi một nhóm dòng họ đều phải tuân theo ngũ hành tương sinh tương khắc; kể cả những chuyện như cửa mở về phía nào, cửa sổ mở về phía nào cũng đều phải phù hợp với lý luận năm họ.
Trong quyển sách này, Lữ Thịnh đã căn cứ vào các quy luật khách quan để bác bỏ tan tác thuyết năm họ ấy.
Hắn khảo sát từ khởi nguyên dòng họ, nói thời Hoàng Đế chỉ có vài họ là Khương, Cơ; sau đó dòng họ càng ngày càng nhiều, lại bởi vì phong ấp và phong quan nên hình thành các chi nhánh của dòng họ, cuối cùng có tới hàng trăm và hàng nghìn họ. Thậm chí sau khi Quách Phác viết xong Trạch kinh vẫn có dòng họ mới hình thành, lại không biết những dòng họ này là ai phối thuộc cung thương cho? Trong “Tự lộc mệnh,” Lữ Thịnh khảo sát ngọn nguồn của thuyết lộc mệnh, chỉ ra họa phúc, sang hèn và thọ yểu của người không liên quan gì đến lộc mệnh. Tự táng thư thì chủ yếu bác bỏ âm dương táng pháp do Táng thư tuyên dương, vạch trần những mê tín về lành dữ và cấm kỵ trong mai táng, nhưng một câu cuối cùng lại kết nối ý chính của cả ba quyển sách này lại với nhau. “Mai táng lành dữ đều tiện lợi cho năm họ”.
Câu cuối cùng mới là nguy hiểm nhất, Lữ Thịnh đã sắp xếp lại ngọn nguồn của các dòng họ từ Hạ, Thương đến Tùy, Đường, dự kiến ra sự chìm nổi của các họ suốt ba nghìn năm! Hắn nói rõ rằng không hề có sự phân chia cao thấp sang hèn giữa các dòng họ, chỉ có sự dịch chuyển của một nhóm người đã được lợi ích sang một nhóm người đạt được lợi ích khác trong một vương triều thôi.
Chẳng hạn như thời Thương, Chu, quý trụ đời đời kế tục, mà sau khi Tần diệt sáu nước, thông qua di chuyển và phân tách khiến tôn thất quý tộc sáu nước sụp đổ. Sau khi nhà Hán thống nhất, không còn có quý trụ trời sinh gì nữa, người người đều có thể từ áo vải mà đoạt thiên hạ, giành công huân mà được vương hầu. Trong số các triều thần đầu thời Hán, Tiêu Hà là lại duyên huyện Bái, Tào Sâm là ngục duyên, Nhâm Ngao là ngục lại, Phàn Khoái là kẻ mổ chó, Chu Bột là người thổi kèn đám ma, Lâu Kính là người kéo xe; những triều thần có quân công tổng số có sáu mươi vạn, tam công cửu khanh, công hầu khanh tướng và quan lại quận thủ đều bị bọn họ chiếm hết. Những người này đều có thực ấp, còn có thể dựa vào quyền lực mà cướp bóc bình dân, mở rộng đất đai, thế là con cháu liền thành hào môn đại tộc ở bản địa.
Nhưng cùng với việc Hoàng đế tru diệt các vương khác họ, Lữ Trĩ cũng tru diệt các vương họ Lưu kéo theo một loạt những tranh đấu thảm thiết. Chỉ vẻn vẹn có hơn trăm năm. “người được phong ấp đã không còn, có người mất họ, có họ mất chủ, xương khô dưới mộ, con cháu lưu đày, sống là nô lệ, chết phơi thây ở nơi hoang dã”.
Công thần đã chết, chế độ tiến cử gặp thời mà sinh, thế là lại có một đám người khác bổ sung ghế trống. Những bình dân trước đó ở quê, người thông một môn kinh thuật liền có thể thông qua hương lý tiến cử, dựa vào kinh thuật mà làm quan. Ví dụ như đám người Địch Phương Tiến và Trương Vũ làm đến chức vị Thừa tướng đời Hán đều dựa vào kinh thuật mà được tiến cử nhập sĩ.
Nhưng bởi vì chế độ “nhiệm tử,” quan chức bổng lộc hai nghìn thạch trở lên có thể tiến cử một con em làm quan, khiến cho những quan chức ở địa vị cao ấy được đời đời làm quan.
Cùng với hệ thống chính trị của Đông Hán thối nát, tiến cử không công bằng, các quan chức đề cử chéo con em họ hàng của nhau, nắm giữ quyền lực triều chính và quận chính, thậm chí cả hương lý, thế là liền hình thành họ lớn ở các châu quận.
Do bị những người đã giành được lợi ích này thao túng, nên chế độ tiến cử hoàn toàn không thể áp dụng nữa.
Đến thời Ngụy Tấn, chế độ cửu phẩm trung chính là tiến hành chọn quan mới, lấy xếp hạng và hành trạng chia người thành chín cấp bậc, phong cho chức quan tương ứng. xếp hạng là xét theo gia thế của mỗi người, hành trạng là tài đức của người đó.
Mong muốn ban đầu của triều đình vốn là muốn do triều đình và dân gian cùng tuyển chọn nhân tài, lấy tài năng luận ưu khuyết, không phải vì thế tộc sang hèn, kết quả lại bị các quan chức cấp cao thao túng, biến thành tài đức gắn với “tư”. “Tư” chính là quan tước của ông cha, tài đức phụ thuộc vào mức độ cao thấp của quan tước thế hệ trước.
Cuối cùng trở thành “Thượng phẩm không có hàn môn, hạ phẩm không có sĩ tộc”!
Trên tầng tháp thứ chín im lặng như tờ, Lý Thuần Phong vừa lật xem vừa đọc, lúc này người người đều đã biết rốt cuộc vì sao Lữ Thịnh lại bị tất cả tám sĩ tộc lớn liên thủ tấn công rồi. Đây rõ ràng là ba bài hịch thảo phạt sĩ tộc! Mọi người đều nhìn về phía Lữ Thịnh, Lữ Thịnh vết máu đầy mặt, cứ thế lẳng lặng ngồi, không nói không động, dường như không liên quan đến mình.
“Sĩ tộc Đôn Hoàng liều mạng cấm đoán, tịch thu rồi tiêu hủy Tam tự thư bản mới, một quyển cũng không cho phép ra khỏi Tây Sa Châu, vì vậy khi bần tăng tới Đôn Hoàng đã không có duyên thấy được. Lúc Lữ Thịnh ở Ngọc Môn Quan cũng chỉ có thể sai lang binh cầm bản thảo của mình một lần nữa đi khắc bản in.”
Huyền Trang chậm rãi kể, mới đầu Lệnh Hồ Đức Mậu còn thỉnh thoảng phản bác lại một câu, lúc này dứt khoát ngậm miệng, trên mặt mang nét cười lạnh lùng.
Chuyện sau đó đã rất rõ ràng, Lữ Thịnh bị toàn bộ sĩ tộc Đôn Hoàng chèn ép, cấm quán rượu cho hắn vào, cấm xe cộ chở hắn, ngay cả hương liệu dầu muối đều không bán cho hắn. Nếu không phải trong bổng lộc của quan phủ phát có vải lụa và ngô, quả thực đến cả cuộc sống cũng khó mà duy trì nổi.
Nghiêm trọng hơn là Lữ Đằng bị ốm, nhưng lại không có một hiệu thuốc hay y quán nào chịu bốc thuốc và khám chữa cho ông ta. Mặc dù Lữ Thịnh tinh thông y thuật nhưng không có thuốc cũng không chữa được, y quán Thẩm gia trước đó cũng không dám chữa cho ông ta nữa. Dù Lữ Thịnh đã nghĩ mọi cách chăm sóc phụ thân nhưng Lữ Đằng lại buồn bực không vui, cuối cùng bệnh nặng.
Trong một đêm mưa, Lữ Đằng đột ngột hấp hối, Lữ Thịnh lập tức đóng xe ngựa đưa phụ thân đi đến y quán Thẩm gia cách đó hai phường. Tuy nhiên lúc này là giờ giới nghiêm, cổng phường đã đóng, vũ hậu không chịu mở cửa phường! Theo luật Đường quy định, nếu có công vụ, chuyện kết hôn hay tang bệnh, xin văn điệp ở trạm vũ hậu trong phường liền có thể mở cổng phường, nhưng đám vũ hậu lại từ chối mở cổng, bắt hắn đi tìm phường chính.
Lẽ ra với chức quan và địa vị của Lữ Thịnh ở Tây Sa Châu, điều này là tuyệt đối không bình thường, nhưng Lữ Thịnh cũng biết rõ mình bị chèn ép, đang lúc lão phụ bệnh nặng, đành phải cắn răng nhẫn nhịn đi tìm phường chính. Kết quả là phường chính lấy cớ xuống nông thôn, đóng cửa không gặp.
Đêm mưa như trút nước ấy, Lữ Thịnh nghe phụ thân ho, rên rỉ, mấy lần ngất đi, đường đường một Lục sự tham quân Tây Sa Châu, vậy mà đến cả cổng phường cũng không thể qua!
“Bần tăng không biết khi đó hắn làm thế nào, nhưng chắc chắn là hắn đã nói hết lí lẽ, dùng hết thủ đoạn. Với sự hiếu thuận của hắn đối với phụ thân, có lẽ hắn sẽ cầu khẩn, sẽ van xin, thậm chí vứt bỏ cả tôn nghiêm mà quỳ rạp xuống vũng nước bùn ướt sũng. Nhưng thời gian trôi qua từng giờ từng khắc, đám vũ hậu vẫn không hề cử động. Có lẽ những tiểu tốt chức quan hèn mọn này sẽ nhìn dáng vẻ chật vật của vị Lục sự tham quân cao quý ngày trước mà châm chọc rồi nhạo báng. Giờ khắc ấy chắc chắc Lữ Thịnh rất hối hận, không phải hắn hối hận vì đã viết Tam tự thư, khai chiến với sĩ tộc Đôn Hoàng, mà là hối hận vì đã trở lại Đôn Hoàng, làm liên lụy tới lão phụ. Ngươi có tài năng ngút trời thì sao chứ? Là vô song sĩ thì thế nào? Kết cục là ngay cả lão phụ bệnh nặng hấp hối cũng không bảo vệ được! Có lẽ hắn còn nhớ đến ba vị huynh trưởng của mình, bọn họ nhập ngũ cùng với lão phụ, ở Dương Châu, Cao Câu Ly và quận Nhạn Môn, bất kể họ chết không đáng giá thế nào, hèn mọn như tro bụi ra sao, nhưng cuối cùng cũng đã bảo vệ lão phụ an toàn, để ông ấy bình an về già. Nhưng chính bản thân Lữ Thịnh thì sao? Lão phụ dốc hết toàn lực bồi dưỡng ra Đại Đường song Trạng nguyên, không ngờ lại bảo vệ không nổi tính mạng của lão phụ, cuối cùng để ông ấy tuyệt vọng mà chết…”
Huyền Trang lẩm bẩm nói, Lữ Thịnh vẫn im lặng đột nhiên không câm được nước mắt, bật khóc nức nở.
Địch Văn vội vàng ôm vai hắn, thấp giọng an ủi.
“Đường đường là song Trạng nguyên, ‘Đại Đường vô song sĩ, Vũ Đức đệ nhất nhân’, chưa từng bại trong tay sĩ tộc mạnh mẽ nhưng lại bị hủy bởi mấy phường đinh môn tốt! Từ đây Lữ Thịnh quyết ý báo thù, đoạn tuyệt với Đôn Hoàng, đoạn tuyệt với triều đình, đoạn tuyệt với thiên hạ!”
“Đúng là nói rất sống động, giống như ngươi tận mắt nhìn thấy không bằng!” Lệnh Hồ Đức Mậu cười lạnh lùng.
“Đương nhiên bần tăng không tận mắt nhìn thấy, những việc này cần gì phải tận mắt thấy, chỉ cần suy luận liền có thể thấu tỏ chân tướng,” Huyền Trang nói. “Năm Vũ Đức thứ chín, Khuê Mộc Lang chặn giết đội ngũ đón dâu trên phố lớn Cam Tuyền, ngoài giết người tại đó, ngày thứ hai lại giết chết vũ hậu và phường chính ở phường Thành Hóa.
“Ngoài ra những người quan phủ tuyên bố chết vào tay Khuê Mộc Lang trong ba năm qua, bần tăng sớm đã điều tra ra, đều là có người nhân cơ hội giết người diệt khẩu. Cũng là nói, trong ba năm nay Khuê Mộc Lang chưa hề lén vào thành giết người. Hắn giết người khi cướp dâu mọi người đều biết nguyên nhân, vậy vì sao hôm sau khi quan phủ bắt đầu vây bắt hắn, hắn không giết người khác, lại đến phường Thành Hóa giết vũ hậu và phường chính? Ngày tháng Lữ Đằng bệnh chết cũng không khó hỏi thăm, là giờ Hợi mùng chín tháng Ba năm Vũ Đức thứ chín. Bần tăng đã từng nhờ Tham quân Tào Thành tra lại văn điệp cổng phường của trạm vũ hậu phường Thành Hóa, nhưng không thấy ghi chép đêm đó có người của Lữ gia ra khỏi phường. Ngươi có thể nói hắn thấy phụ thân bệnh nặng sắp chết cũng không đưa ông ấy ra khỏi phường chữa trị, nhưng ngươi giải thích thế nào về chuyện Lữ Thịnh sau khi biến thành sói đã giết hết vũ hậu và phường chính của phường Thành Hóa?”
Huyền Trang nói một hồi khiến Lệnh Hồ Đức Mậu cứng họng.
“Sau khi phụ thân chết, Lữ Thịnh an táng ông ấy ở mộ tổ Lữ thị, thủ mộ bảy ngày. Sau đó hắn đến nha môn xin nghỉ phép ở nhà, đi khắp nơi mua sách. Lúc đầu khi bần tăng điều tra bản khắc của Khuê Mộc Lang đã thăm hỏi mười mấy hiệu sách ở thành Đôn Hoàng, tìm được danh mục các loại sách Lữ Thịnh tìm mua năm ấy.
“Khi đó Lữ Thịnh còn mượn rất nhiều sách từ châu học, huyện học và châu nha. Bần tăng đã từng nhìn thấy những quyển sách đối ứng với danh mục này trong nhà cũ của Lữ thị ở phường Thành Hóa, bây giờ đã sao chép ra, mời các vị xem.”
Huyền Trang lại lấy một trang giấy từ trong túi da, phía trên ghi chi chít danh mục. Ngài đưa cho Lý Thuần Phong, Lý Thuần Phong nhìn một cái, lại đưa cho đám người Địch Xương.
Trong danh mục trên ấy đa số là sách sử như Quốc ngữ, Tả truyện, Trúc thư kỷ niên, Hán thư, Đông Hán thư, Tấn thư, Ngụy thư, Tống thư, Tùy thư và Xuân Thu mười sáu nước; ngoài ra còn có các sách văn học như Thế thuyết tân ngữ, Dữu Lượng văn tập; sách dòng họ như Thiên gia tính thiên, Thị tộc chí, Tính toản, Tính thị thư biện chứng, Tân tập thiên hạ tính quận vọng thị tộc phổ, thậm chí còn có cả một số tấu chương công khai như tấu chương của Cao Sĩ Liêm về Điêu cử thị tộc năm Vũ Đức thứ sáu.
Mọi người truyền tay nhau xem một lượt danh mục sách này, ngay cả bốn ông lão Địch Pháp Nhượng cũng từng người xem qua, nhưng đều không hiểu ý nghĩa của nó, cuối cùng đưa trả lại cho Huyền Trang.
“Lúc đầu nhìn thấy những quyển sách này ở nhà cũ của Lữ thị, bần tăng cũng không hiểu, sau đó nhờ Thế tử Lý Thiền tìm người chuyển hết sách về chùa Đại Thừa, nghiên cứu từng cuốn. Chỉ xem những quyển sách này thì tuyệt đối sẽ không nhìn ra cái gì, then chốt cốt lõi giải thích bí mật không hề nằm trong sách, mà là ở trên tường chính đường nhà cũ của Lữ thị,” Huyền Trang nói.
“Trên tường?” Lệnh Hồ Đức Mậu đột nhiên hỏi. “Ngươi nói là mấy chữ được viết trên đó, ta nghĩ…”
“Là sáu chữ ‘Long, Tiến, Hung, Hoàng, Nghĩa, Thang’,” Địch Pháp Nhượng lạnh nhạt nói. “Năm ấy lão tăng cũng đã lưu ý, lại không đoán được mấy chữ này rốt cuộc có bí mật gì.”
“Sáu chữ ấy chẳng những là phương thức tuyên chiến với sĩ tộc Đôn Hoàng của Lữ Thịnh, mà cũng là cách để có thể phá giải được bí mật hôm đó hắn nhắc tới khi đến Địch gia khiêu khích, đồng thời cũng là then chốt khiến cho tộc lão của Địch thị chết bất ngờ!” Huyền Trang nói.
Mọi người đều khiếp sợ, sắc mặt của Địch Xương càng biến đổi, gắt gao nhìn Huyền Trang. “Ngươi mau nói!”
“Rất đơn giản, mấy chữ này đã bị xáo trộn. Tiến là Địch Phương Tiến, Nghĩa là Địch Nghĩa, Hoàng là Địch Hoàng, Thang là Địch Thang!” Huyền Trang nói. “Còn hai chữ Long và Hưng là chùa Long Hưng.”
Đám người trẻ tuổi như Lý Thuần Phong và Lệnh Hồ Chiêm đều đầy mặt ngơ ngác.
“Tây Sa Châu không hề có chùa Long Hưng, chẳng lẽ là chùa Long Hưng ở Lan Châu?” Lệnh Hồ Chiêm trầm ngâm. “Hình như chùa được xây dựng vào thời Tây Tấn, có am thờ Phật và tượng Phật, cái này thì ẩn giấu bí mật gì?”
“Không sai, trước thời Đường nơi đó được gọi là hang Đường Thuật,” Huyền Trang nói. “Về chùa Long Hưng sau này bần tăng sẽ nói tiếp, trước hết nói về bốn cái tên kia.”
“Pháp sư, dường như bốn người ấy là người của Địch gia? Có quan hệ gì với Lữ Thịnh?” Lý Thuần Phong hỏi.
“Không có quan hệ gì với Lữ Thịnh.” Địch Xương lạnh lùng đáp. “Bốn người này đều là tổ tiên của Địch thị ta!”
Địch Phương Tiến chính là tổ tiên của Địch thị Đôn Hoàng, Thừa tướng thời Tây Hán Thành Đế, bởi vì có thù hận với nhà chiêm tinh Lý Tầm nên bị Lý Tầm mượn chuyện Huỳnh Hoặc thủ Tâm hãm hại, cuối cùng tự tử mà chết.
Địch Nghĩa là con thứ của Địch Phương Tiến, làm Thái thú Đông Quận. Vương Mãng soán Hán cầm quyền, Địch Nghĩa khởi binh thảo phạt, lập Lưu Tín làm vua, tự xưng Đại tư mã, Trụ Thiên Đại tướng quân, sau đó binh bại bị giết, tru di tam tộc.
Địch Hoàng là quốc tướng của nước Ngụy thời Chiến quốc, phò tá Ngụy Văn Hầu, giúp Ngụy Văn Hầu diệt Trung Sơn, tước vị Thượng khanh.
Địch Thang, tự Đạo Uyên, người Sài Tang thời Đông Tấn, là người ở ẩn nổi tiếng khi đó. Bốn đời ông cháu ẩn cư Lư Sơn, mọi người gọi là “Tứ thế Địch gia”. Từng được Tư đồ Vương Đạo mời ra làm quan nhưng từ chối không làm, thân với danh sĩ Can Bảo và Dữu Lượng.
Nhất thời mọi người đều thấy hơi kỳ quái, mặc dù bốn người này đều là tổ tiên của Địch gia nhưng hai bên không hề có dính dáng gì đến nhau, vì sao Lữ Thịnh lại viết tên của bọn họ lên trên tường?
“Sau khi phát hiện bốn chữ này dính dáng đến tổ tiên của Địch thị, bần tăng liền tới chỗ Đại tông chính tìm đọc lưu trữ gia phả của Địch thị. Trong gia phả ghi lại, khởi nguồn của Địch thị chính là từ con thứ của Đế Nghiêu là Đan Trọng, Đế Nghiêu phong cho Đan Trọng làm Địch Thành Hầu, thế nên lấy họ Địch.”
“Đó là đương nhiên, Địch thị ta chính là hậu duệ của Nghiêu Đế, người đời đều biết!” Địch Thuật hãnh diện nói.
“Câm miệng!” Địch Xương giận dữ hét lên. “Pháp sư Huyền Trang, chớ ép người quá đáng! Các vị, Huyền Trang chính là bạn tốt của Lữ Thịnh, đây là đang kéo dài thời gian để Khuê Mộc Lang hồi phục, phải lập tức bắt hắn lại!” Ông ta chỉ về phía Lữ Thịnh. “Cung thủ, bắn!”
Đám bộ khúc lập tức tiến lên, giương cung đặt tên chuẩn bị bắn, ngay cả Địch Văn bên cạnh cũng không để ý tới nữa.
Huyền Trang đột nhiên bước qua một bước chặn ở trước mặt Lữ Thịnh và Địch Văn, chỉ yên lặng nhìn Địch Xương.
Địch Xương nghiến răng. “Bắn…”
Mọi người đều giật nảy mình, Địch thị đời đời tin Phật, bây giờ lại muốn giết một vị cao tăng, đây chính là tội nghiệt không thể nào mà rửa sạch nổi. Huống hồ vị cao tăng này còn có vô số quan hệ với Hoàng đế, giết chết ngài trước mặt bao nhiêu người như vậy, sợ là cả Địch thị đều phải gặp nạn. Nhưng nhìn vẻ mặt dữ tợn của Địch Xương, chỉ sợ là dù ông ta có chết cũng phải giết cho bằng được Huyền Trang và Lữ Thịnh.
Đột nhiên có bóng người lướt qua, Lữ Thịnh lao tới, cầm một mũi tên chế trụ Trương Diên bên cạnh.
Hắn cực kì thông minh, không khống chế Địch Pháp Nhượng mà khống chế phụ thân của Trương Tệ.
Lúc này quả nhiên Trương Tệ sốt ruột. “Hoằng Nghiệp, chớ động thủ! Phụ thân ta ở trong tay hắn!”
Địch Xương lập tức sững sờ, nếu là Địch Pháp Nhượng, đây xem như người nhà, bắn chết cũng liền bắn chết, cho dù chính mình chết theo tạ tội cũng không sao. Nhưng Trương Diên là phụ thân của Trương Tệ, gia chủ Trương thị đời trước, nếu bắn chết chỉ sợ phải không chết không dứt với Trương thị.
“Để pháp sư nói xong!” Lữ Thịnh nói từng chữ từng câu.
Phiếm Nhân Kiệt uy nghiêm nói, “Tệ công, Hoằng Nghiệp công, việc này nếu lan ra khắp thiên hạ, chớ nói sĩ tộc Đôn Hoàng ta, mà kể cả sĩ tộc thiên hạ cũng phải gặp nạn!”
“Ngươi cũng lại đây!” Lữ Thịnh kéo ghế dựa của Phiếm Chính, khống chế ông ta bằng tay phải, một trái một phải, hai đầu mũi tên kề thẳng vào cổ họng của hai ông lão.
Phiếm Nhân Kiệt lập tức nghẹn lời không biết nói sao. “Phụ thân…”
“Nói thì nói, sợ cái gì!” Phiếm Chính không hề hoang mang, thờ ơ nói. “Sau khi nghe xong, chỉ cần không ai có thể sống sót rời khỏi đây thì đâu có gì ghê gớm. Chẳng lẽ nói ra một câu vu vơ còn có thế khắc lại giữa đất trời này hay sao?”
Trong lòng mọi người lập tức nặng trĩu, bí mật kia không ngờ lại đáng sợ đến mức làm cho sĩ tộc Đôn Hoàng sẵn sàng giết hết tất cả mọi người ở đây! Địch Xương nhắm mắt thở dài một hơi, khom người lui về bên cạnh, dáng vẻ cam chịu số phận, ý là không sợ chết thì ngươi cứ nói tiếp.
Huyền Trang im lặng một hồi lâu, nhìn Lữ Thịnh một cái.
Lữ Thịnh gật đầu, vẻ mặt nghiêm nghị. “Khẩn cầu pháp sư!”
Huyền Trang thở dài một hơi, tiếp tục nói, các thế hệ trong gia phả của Địch thị rất dài, ngài chỉ thuật lại đơn giản:
Địch Hoàng làm Tướng quốc nước Ngụy, tước đến Thượng khanh, con cái trải rộng sơn hà. Phương Tiến thời Thành Đế làm Thừa tướng nhà Hán, phong Cao Lăng Hầu. Con thứ của Phương Tiến là Nghĩa, làm Thái thú Đông Quận, Di Hịch Quận quốc, chống Mãng soán vị. Cháu bốn đời của Nghĩa là Thang, thời Khang Đế được mời làm Thị lang tán kỵ nhưng không nhận. Con Thang là Trang, con Trang là Kiểu, không làm quan. Con Kiểu là Pháp Tứ, Hiếu Vũ Đế phong làm Thị lang tán kỵ cũng không nhận.
“Các thế hệ trong gia phả dính dáng đến bốn cái tên ấy là như vậy. Chúng ta cùng xem một chút, trong sách sử không hề có ghi lại năm sinh năm mất của Địch Hoàng. Sử ký và Quốc ngữ ghi lại, Địch Hoàng từng tiến cử với Ngô Khởi cho Ngụy Văn Hầu trị quân, tiến cử Tây Môn Báo trị nghiệp, tiến cử Lạc Dương công phạt nước Trung Sơn, tiến cử Lý Khôi thủ Trung Sơn. Chúng ta cân nhắc một chút về năm sinh năm mất của Địch Hoàng. Ngô Khởi dẫn quân phạt Tần là năm Ngụy Văn Hầu thứ ba mươi bảy, Lạc Dương phạt Trung Sơn là năm Ngụy Văn Hầu thứ ba mươi tám. Sử ghi, một năm sau khi phạt Trung Sơn, Địch Hoàng và Hàn Triệu liên thủ phạt Tề, khi ấy ông ta là Ngụy Tướng quốc. Điều đó đồng nghĩa với việc năm Ngụy Văn Hầu thứ ba mươi chín, Địch Hoàng đã làm Tướng quốc rồi. Còn Lý Khôi làm Ngụy Tướng quốc, chủ trì biến pháp vào năm Ngụy Văn Hầu thứ bốn mươi sáu, cũng là nói khi ấy có thể Địch Hoàng đã qua đời hoặc cáo lão từ chức.”
“Pháp sư, ngài suy luận năm sinh năm mất của Địch Hoàng có ý nghĩa gì?” Lý Thuần Phong kinh ngạc hỏi.
“Có!” Huyền Trang nói. “Địch Phương Tiến là Thừa tướng thời Hán Thành Đế, tự tử năm Tuy Hòa thứ hai. Các vị có thể tính toán, từ năm Ngụy Văn Hầu thứ bốn mươi sáu đến năm Tuy Hòa thứ hai của triều Tây Hán, tổng cộng có bao nhiêu năm?”
Mọi người đều sửng sốt, các đời đều lấy can chi và đế vương để ghi năm, vì vậy tính toán cực kì phiền phức, có điều may mà ghi năm trong sách sử chưa từng gián đoạn. Từ thời Xuân Thu đến Tây Hán, sắp xếp lại cách ghi năm của các đời đế vương thì vẫn có thể tính toán được.
Tất cả mọi người ở đó đã tính toán tinh tượng trên trời ba năm, cũng xem như tính thông thuật số, lập tức nhắm mắt lại tính nhẩm. Lý Thuần Phong mở mắt ra trước tiên. “Khoảng bốn trăm lẻ bảy năm!”
“Không sai.” Huyền Trang gật đầu, than thở. “Chắc hẳn đây chính là bí mật mà Lữ Thịnh đã phát hiện ra năm ấy, từ Địch Hoàng đến Địch Phương Tiến, bốn trăm năm dài đằng đẵng vậy nhưng lại chỉ có sáu đời!”
Tất cả mọi người đều trợn mắt há mồm, sắc mặt Địch Xương xanh mét, trán toát mồ hôi như mưa vậy mà lại không nói một lời. Đám người Lệnh Hồ Đức Mậu muốn bác bỏ, nhưng suy luận của Huyền Trang tinh vi kín kẽ, hoàn toàn dựa vào sách sử và gia phả, thật sự là không thể bàn cãi.
“Trong gia phả Địch thị đã bỏ bớt thế hệ từ Địch Nghĩa đến Địch Thang, chỉ viết Địch Thang là cháu bốn đời của Địch Nghĩa, ở giữa bỏ hết toàn bộ. Vậy chúng ta tiếp tục xem xem, theo Hán thư ghi lại, Địch Phương Tiến có hai con, con trưởng Địch Tuyên làm Thái thú Nam Quận, con thứ Địch Nghĩa làm Thái thú Đông Quận; lại ghi năm thứ hai Vương Mãng nắm quyền, Địch Nghĩa và Lưu Tín khởi binh, bị Mãng đánh bại, tru di tam tộc, giết hết con cháu, chôn cùng một hố với các loại rắn rết…”
Địch Xương cười lạnh lùng. “Pháp sư là đang nghi vấn, không biết vì sao Vương Mãng tru di tam tộc tổ tiên mà còn có tộc nhân tồn tại?”
“Không không,” Huyền Trang nói. “Tru di tam tộc không hề có nghĩa là không có con nối dõi còn sống, bao gồm bản thân Địch Nghĩa cũng không hề bị Vương Mãng bắt sống, mà là tự tử trên đường trốn chạy. Trong Hán thư ghi lại, Địch Phương Tiến có cháu ở Lang Gia. Cho nên trong gia phả của các ngài ghi rằng con cháu Địch Nghĩa chạy về tây, tới Đôn Hoàng, cái này cũng không sai. Vấn đề là ở Địch Thang. Chúng ta cùng xem ghi chép về Địch Thang: Ngày Nhâm Ngọ, năm Kiến Nguyên nguyên niên thời Tấn Khang Đế, lấy dải lụa mời ẩn sĩ Địch Thang ở Tam Dương. Bạn thân của Địch Thang là Dữu Lượng có viết một bài Địch chinh quân tán văn trong tập văn của mình như sau: ‘Tấn mời Địch quân ở Nam Dương… Dù dùng dải lụa vẫn không chịu… chết tại Nam Sơn, Tầm Dương’. Địch quân ở đây tất nhiên là Địch Thang. Trong Thế thuyết tân ngữ nói: ‘Ban đầu Dữ