← Quay lại trang sách

Chương 22 Điệp phổ: Thượng phẩm không có hàn môn, -hạ phẩm không có sĩ tộc

“Cho nên chân tướng mà Lữ Thịnh phát hiện ra chính là như vậy, gia phả của Địch thị đã bị làm giả, Địch thị Đôn Hoàng bây giờ không phải dòng dõi của Địch Phương Tiến và Địch Thang, vì thế quận vọng cũng không phải Tầm Dương. Các vị chỉ làm giả gia phả, bám vào cành cao Địch thị Tầm Dương thôi!” Huyền Trang cảm khái nói. “Bần tăng tin rằng Địch thị cũng có nỗi khổ tâm. Từ thời Ngụy Tấn tới nay, môn phiệt sĩ tộc bành trướng, quan chức thăng giáng không xem phẩm tính năng lực, chỉ phân biệt dòng họ cao thấp, mà để phân định dòng họ lại không rời được điệp phổ để chứng minh dòng dõi và tư lịch. Có câu ‘Quan có bộ trạng, nhà có phả hệ’. Việc tuyển chọn quan chức phải dựa vào bộ trạng, hôn nhân của gia đình phải dựa vào phả hệ, dòng họ trở thành thứ tượng trưng cho địa vị, của cải và quyền lực. Hàn môn dòng dõi hèn mọn so với sĩ tộc chẳng khác gì một trời một vực. Còn sau thời Tây Tấn, phía bắc nhiều năm liền rối ren loạn lạc, dân số di chuyển thất thường, quê quán dời đổi thường xuyên, vì vậy tạo cơ hội cho một số hàn môn thứ tộc mạo nhận quận vọng của người khác, tiến thân sĩ tộc. Bọn họ làm giả cao môn, ngụy tạo quận vọng. Đây chính là những lời mà Lữ Thịnh đã nói với các vị khi tới nhà đòi lại công bằng sau khi Lữ Đằng bị cự hôn rồi bị sỉ nhục!”

Địch Xương nhìn Huyền Trang, ánh mắt lạnh lẽo như đến từ địa ngục Cửu u, mang cả sự uy nghiêm và kinh khủng vô tận.

Kỳ lạ là các gia chủ như Lệnh Hồ Đức Mậu và Trương Tệ lại không hề đưa ra chất vấn với Địch Xương, dường như đã sớm biết bí mật này. Mọi người sắc mặt nghiêm nghị nhìn chằm chằm Huyền Trang, dường như đang tính toán gì đó.

“Thì ra chính vì điều này mà vị tộc lão của Địch thị kia bị tức chết?” Lý Thuần Phong than thở.

Huyền Trang lắc đầu đắng chát. “Không chỉ thế. Thân là tộc lão, đối với việc gia phả nhà mình là giả không phải ông ấy hoàn toàn không biết, bị người khác biết được sẽ chỉ thẹn quá hóa giận mà thôi, làm sao lại tự dưng bị tức chết? Lữ Thịnh còn vạch trần một bí mật khác nữa của Địch thị.”

“Bí mật gì?” Lữ Thịnh hỏi.

“Ngươi thực sự cần biết sao?” Địch Xương cười dữ tợn hỏi.

“Đương nhiên cần biết!” Sắc mặt Lữ Thịnh không đổi, nắm chặt tay, đâm hai mũi tên vào cổ Trương Diên và Phiếm Chính, máu lập tức chảy ra.

Trương Tệ sợ hãi, cả giận nói, “Huyền Trang, muốn nói liền nói đi! Đừng có lề mề!”

Huyền Trang cắn răng một cái. “Một vấn đề then chốt khác nằm ở hai chữ Long và Hưng! Điều mà Lữ Thịnh tìm cách chứng thực không phải vấn đề thật giả của gia phả Địch thị, mà là vấn đề Địch thị đến từ đâu!

“Trong gia phả của Địch thị ghi lại: ‘Con của Địch Pháp Tứ là Kình, thời Thái Nguyên nhà Tấn chuyển đến Vũ Thủy. Cháu Kình là Trân, giữ chức Tế Âm Hầu, là thế gia vọng tộc quận Lũng Hữu. Trân sinh Hiển, được đề bạt làm Triều nghị đại phu’. Nhưng những ghi chép này vừa chứng thực với sách sử liền sai sót chồng chất. Trong sách sử, chuyện của Địch Pháp Tứ được ghi lại trong Tống thư, ông ta sống thời Thái Nguyên. Lúc phụ thân vẫn còn mà con trai Địch Kình lại chuyển nhà sang Vũ Thủy, điều này hoàn toàn không hợp với lễ pháp cương thường khi ấy! Phải biết huyện Vũ Thủy chính là Địch Đạo, Lan Châu bây giờ, cách xa Tầm Dương hàng nghìn dặm, hơn nữa còn không hề thuộc về Tây Tần. Trong Tính thị thư biện chứng xưng hô Địch Kình là Địch Kinh Vũ Thủy chứ không phải Địch Kình Tam Dương.

“Về điểm này, Lữ Thịnh dùng bút đỏ khoanh một câu trong quyển Tính toàn’: ‘Cháu sáu đời của Địch Thang là Phổ Lâm’. Còn trong ‘Tùy thư và Bắc sử cùng có ghi lại sự tích của Địch Phổ Lâm: ‘Người Sở Khâu, tính chí hiếu, nổi tiếng phụng dưỡng cha mẹ. Cha mẹ đều qua đời, dựng nhà bên mộ, vác đất đắp mộ, sau làm Huyện lệnh huyện Hiếu Dương’. Điều này nói rõ con trai của Địch Pháp Tứ quả thật đã chuyển nhà, nhưng con trai này không phải Địch Kình mà là phụ thân của Địch Phổ Lâm! Bọn họ cũng không chuyển nhà đến Vũ Thủy mà là chuyển nhà đến Sở Khâu, chính là huyện Tào, Sơn Đông hiện nay. Vì vậy đây chính là điểm Địch thị Đôn Hoàng giả mạo quận vọng Địch thị Tâm Dương; tổ tiên của họ là Địch thị đến từ Lũng Hữu, hậu duệ của Địch Kình.

“Địch Kình là người ra sao? Ông ta chính là Tướng quốc Tây Tần, cháu trai ông ta là Địch Trân được phong Tế Âm Hầu, danh gia vọng tộc ở quận Lũng Hữu. Tây Tần là chính quyền của người Tiên Ti, Địch thị có ảnh hưởng lớn trong chính quyền Tây Tần, chẳng những có Tướng quốc Địch Kình mà còn có Thượng thư Bộ Lại là Địch Ôn, Tả Bộc xạ Địch Thiệu, Quán Quân Tướng quân Địch Nguyên. Tây Tần ở giai đoạn trước chỉ tồn tại mười hai năm liền diệt vong, trong mười hai năm, một Địch Kình từ Giang Nam chuyển nhà tới đây tuyệt đối không thể đưa họ hàng tộc nhân vào đầy triều đình, vì vậy tất nhiên Địch Kình là người bản địa Lũng Hữu.

“Nhưng Địch thị Lũng Hữu từ đâu mà đến? Trước hết chúng ta nói về chính quyền của Tây Tần, Tây Tần là do Khất Phục Tiên Ti dựng nên. Khất Phục Tiên Ti là nhiều bộ lạc như Tiên Ti, Đinh Linh và Cao Xa dung hợp với người Khương mà thành. Trong Ngụy thư ghi lại: ‘Cao Xa, là dòng dõi của Xích Địch thời cổ, tên ban đầu là Địch Lịch, phương bắc gọi là Sắc Lặc, đến thời Hạ gọi là Đinh Linh’. Đây chính là dân tộc Địch thời kì Tiên Tần Xuân Thu, chia thành ba chi Xích Địch, Bạch Địch và Trường Địch. Còn trong Thiên gia tính thiên nói: Địch, âm ‘địch’.”

“Nói xằng nói bậy…” Địch Thuật đột nhiên quát lớn, giơ đao lên chém về phía Huyền Trang. “Ta giết ngươi!”

“Lui về!” Lữ Thịnh đâm mũi tên tới, Trương Diên kêu lên một tiếng.

Trương Tệ vội vàng tóm Địch Thuật. “Không được!”

Huyền Trang thương xót nhìn hắn. “Địch lang quân, đây không phải là bần tăng bịa ra, bần tăng không dám nói dối, mỗi câu mỗi lời đều lấy từ sách sử. Trong văn tự Tiên Tần, dân tộc Địch và họ Địch được dùng như nhau, họ Địch chính là dân tộc Địch, dân tộc Địch chính là họ Địch. Lữ Thịnh còn tìm đến ‘Trúc thư kỷ niên’, trong đó ghi lại: ‘Năm Vũ Ất nhà Thương thứ ba mươi lăm, Chu Vương Quý phạt quỷ Nhung Tây Lạc, tù binh hai mươi Địch Vương’. Từ Tây Tấn tới nay, Trung Nguyên xuất hiện rất nhiều người Đinh Linh chuyển vào, hơn nữa thành lập nước Đại Ngụy của Địch thị. Cho nên không có gì phải nghi ngờ, Địch Kình chính là người Đinh Linh đã Hán hóa. Tây Tần dựng nước mười hai năm sau đó hủy diệt, rồi lại phục quốc; có lẽ chính là trong lúc này, nhánh của Địch Kình đã chuyển nhà từ Lan Châu đến Đôn Hoàng, biến thành Địch thị Đôn Hoàng. Năm ấy chính vì Lữ Thịnh đưa ra suy đoán như vậy nên cuối cùng mới làm tức chết tộc lão trong nhà của ngươi, bởi vì ai cũng không chịu thừa nhận tổ tiên của mình là người man di.”

“Có bằng chứng gì?” Địch Thuật quát to.

“Bằng chứng chính là hai chữ Long, Hưng,” Huyền Trang nói. “Chúng ta đều biết, đây là chỉ chùa Long Hưng ở Lan Châu. Bần tăng từ Trường An đến Đôn Hoàng có đi qua Lan Châu, đã đi một chuyến đến chùa Long Hưng tham Phật. Chắc hắn Lữ Thịnh từ Trường An đến Đôn Hoàng cũng đi qua chùa Long Hưng. Trong chùa ấy có một hang động, xây từ thời Tây Tần, phía đông am thờ Phật có một bức thuyết pháp đồ, Phật Tổ ở giữa thuyết pháp, trái phải đều có một Bồ Tát đứng hầu. Phía sau Bồ Tát đứng hầu bên trái có ba người cung phụng là nam tính, đội mũ cao, mặc trường bào cổ chéo tay rộng. Người cung phụng đầu tiên đề tên ‘Tượng Địch nô Đôn Hoàng’.”

Địch Thuật ngây ra như phỗng, hoành đao trong tay “xoảng” một tiếng rơi thẳng xuống đất.

Bằng chứng này đã vô cùng rõ ràng. Người xưng nô trước Phật quá nhiều, Địch nô ba trăm năm trước kia là ai không hề quan trọng, quan trọng là hắn thân là Địch thị Đôn Hoàng, không quản ngại cách xa nghìn dặm đến chùa Long Hưng Lan Châu tạc tượng. Điều đó chỉ có một cách giải thích: Địch thị Đôn Hoàng chính là chi nhánh của Địch thị Lũng Tây tách ra, vị Địch nô này đã trở lại đất tổ tham dự mở hang tạc tượng! Cũng chính vì Địch thị Đôn Hoàng xuất thân từ man di nên mới tìm mọi cách để lau sạch dấu vết trên người mình, giả mạo quận vọng Địch thị Tầm Dương, bịa ra gia phả! Tất cả đều kín kẽ! Không thể cãi lại! Lữ Thịnh đang khống chế hai con tin, ánh mắt ngơ ngẩn, dường như đang liều mạng hồi tưởng lại chuyện cũ.

“Hôm đó, ta nói…” Ánh mắt Lữ Thịnh đột nhiên hiện lên một vẻ bừng tỉnh, lẩm bẩm nói. “Ngươi là man di!”

Dưới bầu trời hoàn toàn yên tĩnh, mọi người đều yên lặng nhìn Địch Xương, ngay cả vẻ mặt đám người Lệnh Hồ Đức Mậu và Trương Tệ cũng có chút khác thường. Mặc dù không hề nói gì, nhưng trong ánh mắt họ lại lộ ra vẻ bàng hoàng tỉnh ngộ.

Địch Xương nộ hỏa công tâm, phun ra một ngụm máu, trước mắt tối sầm, ngã xuống đất.

“A gia…” Địch Thuật ôm lấy ông ta.

“Lý Tiến sĩ!” Huyền Trang ra hiệu một chút, Lý Thuần Phong bước nhanh tới, mấy cây ngân châm đâm vào huyệt vị của Địch Xương, lúc này Địch Xương mới ho kịch liệt rồi từ từ tính dậy.

Khóe miệng Địch Xương chảy máu, vẻ mặt dữ tợn nhìn chằm chằm đám người Lệnh Hồ Đức Mậu. “Hiện giờ có phải các vị đang xem thường Địch thị ta không?”

“Đúng là nghe rợn cả người,” Âm Thế Hùng lẩm bẩm nói.

Địch Xương cười cười, cùng Địch Thuật nhìn nhau một cái, trong mắt hiện ra sát ý. Âm Thế Hùng lập tức run lên một chút, lúc này mới nhớ ra ở ngoài tháp chín tầng này đều là binh mã thủ tróc Tử Đình của Địch Thuật. Một khi Địch Xương muốn diệt khẩu, chỉ cần ra lệnh một tiếng liền có thể giết sạch những người ở đây.

“Đúng là bất chấp thủ đoạn!” Phiếm Nhân Kiệt đanh thép nói. “Để bôi nhọ sĩ tộc Đôn Hoàng ta, quả thực là táng tận thiên lương!”

Lệnh Hồ Đức Mậu và Trương Tệ lại không nói gì.

Khóe miệng Địch Xương lộ ra vẻ châm chọc, sống lưng thẳng lên, trên khuôn mặt từ trước đến nay luôn ung dung nho nhã đột nhiên có thêm một vẻ tàn nhẫn quyết đoán như của kẻ kiêu hùng.

“Pháp sư Huyền Trang, ngươi còn có lời gì muốn nói nữa không?” Địch Xương hỏi. “Đêm hôm nay rất dài.”

Huyền Trang lại không để ý đến sự đe dọa trong lời nói của ông ta, chỉ chăm chú nhìn Lữ Thịnh. “Lữ huynh, chuyện tiếp theo mặc dù đã phá giải ra, nhưng lại phải do ngươi tự mình nói. Ngươi hãy cố gắng suy nghĩ một chút, sau đó xảy ra chuyện gì? Ngươi nhất định có thể nhớ được!”

Trong mắt Lữ Thịnh lại hiện ra vẻ ngỡ ngàng, cơ trên mặt vặn vẹo, dường như đang liều chết để vật lộn với kẻ thù vô hình. Rồi hắn đột nhiên hét lớn một tiếng, lật tay đâm mũi tên vào bắp đùi của chính mình, đau đến mức ngẩng mặt lên kêu to. “Ta bị đánh gậy!”

“Đó là ngươi bị Tư hộ tham quân hãm hại, xảy ra sai sót trong quản lý tiền tô.” Huyền Trang vui mừng. “Tiếp tục!”

“Ta đang chỉnh sửa Tam tự thư!” Lữ Thịnh lẩm bẩm nói, ánh mắt ngơ ngẩn.

“Chưa biết các họ như vậy, là ai phối thuộc cung thương?” Huyền Trang đọc thuộc lòng. “Ngươi dùng ba cuốn sách ấy tuyên chiến với sĩ tộc Đôn Hoàng!”

“Đêm hôm đó có mưa to…” Lữ Thịnh dường như rơi vào hồi ức đau khổ. “Ta quỳ ở cổng phường Thành Hóa, phụ thân mang thân thể bệnh tật bước xuống từ trên xe ngựa, ông ấy nói… Ông ấy nói…” Lữ Thịnh ra sức đấm đầu. “Ông ấy nói… ‘Núi cao thành vực, vực sâu thành gò, sĩ thứ lẫn lộn, chúng sinh binh đẳng’!”

Lữ Thịnh không cầm được nước mắt, giận dữ gầm lên. “Ông ấy nói, ‘Đây chính là đại đạo con chạm không thấy, sờ không được, miệng không thể nói, bút không thể viết’!”

Trong lòng mọi người đều chấn động kịch liệt, chẳng những sĩ tộc Đôn Hoàng mà kể cả đám người Huyền Trang cũng lộ vẻ hoảng sợ, ngài đột nhiên liền nhớ lại lời Sách Dịch đã nói khi đó. “Lữ Thịnh đi vào Đôn Hoàng này, chính là đi vào một dòng nước lũ mênh mông, hắn lại còn đi ngược dòng nước lũ. Nước lũ ấy không có ngọn nguồn, không có điểm cuối; nó cuốn sạch thiên hạ Đại Đường cùng trăm nghìn vạn thần dân, cho dù có là Thiên tử Đại Đường thì cũng bị cuốn vào trong đó thôi, không ai thoát được. Lữ Thịnh nhất định tan xương nát thịt, thân bại danh liệt. Bất kể là ai thống trị Đôn Hoàng này, thống trị Lũng Hữu này, thống trị Đại Đường này đều sẽ phải sửa lại sử sách; hàng trăm hàng nghìn năm sau, Lữ Thịnh đều phải là phản thần, là nghịch thần, là tặc tử. Cho dù Đại Đường này có suy vong, đổi sang triều đại tiếp theo, Lữ Thịnh vẫn sẽ bị đóng đinh ở trong sách sử, trọn đời không được xoay người!”.

Thì ra việc Lữ Thịnh muốn làm ấy, không ngờ lại là diệt sạch tất cả sĩ tộc Đại Đường! Tạm thời không nói suy nghĩ này điên cuồng đến mức nào, chỉ nói về tính khả thi thôi thì hắn đã không có một chút hi vọng thành công nào rồi. Kể cả Hầu Cảnh thời Nam Triều tay nắm đại quân, mặc sức cướp đoạt hào môn phú gia, không hạn sang hèn, đánh gậy bừa bãi, giết cho sĩ tộc Giang Đông xương trắng chất chồng như núi, cuối cùng cũng không dám nói diệt hết sĩ tộc.

Hơn nữa hoàng thất Đại Đường bây giờ cũng khoe khoang sĩ tộc, nghe nói Hoàng đế còn tức giận bất bình bởi vì Lý thị Lũng Tây xếp hạng dưới Thôi thị Bác Lăng. Làm sao hắn có thể diệt hết được sĩ tộc cơ chứ? Chuyện này đừng nói tới việc thực hiện, chỉ cần suy nghĩ một chút thôi, Lữ Thịnh cũng sẽ bị đóng đinh trên sử sách, mãi mãi không được xoay người.

“Không sai, đây chính là đại đạo mà ta theo đuổi.” Kí ức của Lữ Thịnh dường như đang chậm rãi chảy về. “Thời Hoàn Đế Đông Hán, dân hộ thiên hạ có năm mươi triệu, đến khi Đặng Ngải diệt Thục, dân hộ thiên hạ chỉ còn bảy triệu. Khăn Vàng khởi sự, loạn Đổng Trác, chư hầu công phạt, ba nước giết nhau. Trước ngựa treo đầu người, sau xe chở phụ nữ, xương trắng chất ngoài đồng, nghìn dặm không gà gáy, dân sống trăm còn một, nghĩ mà thương đứt ruột. Là lỗi của ai? Là cường hào đại tộc tranh quyền tại triều đình, cát cứ ở châu quận, đạp vạn dân bách tính xuống bùn đen, ngay cả cỏ cây cũng không bằng!

Ngụy Tấn áp dụng cửu phẩm trung chính, công môn có công, khanh môn có khuynh, con cháu sĩ tộc vừa sinh ra đã là lang quan, mà đây lại là điểm cuối phấn đấu cả đời của con cháu hàn môn. Bào Chiếu có thơ viết: ‘Xanh tươi tùng dưới khe, cây nhỏ trên đỉnh núi. Trên gốc to một tấc, dưới phủ bóng trăm thước. Sĩ tộc lên chức cao, tài năng quan cấp thấp. Vì địa thế mà thôi, bao đời nay vẫn vậy’.

Mà những danh gia vọng tộc này tham lam tàn bạo, sưu cao thuế nặng, tùy ý trưng tập. Vì thế nên bách tính thiên hạ phải vứt bỏ nghề nông, lao dịch khổ sở mệt nhọc, vào binh dịch nhiều năm liền, chết nơi tha hương. Cường hào đại tộc khống chế dòng họ nghèo khổ và bách tính làm ấm hộ của mình. Một nhà thế gia thường có cả nghìn nô bộc, những bách tính này ‘Cha con cúi đầu, hầu hạ người giàu, dẫn cả vợ con, cùng nhau phục dịch. Đời đời làm nô vẫn không đủ cơm áo. Sống phải làm quần quật, chết lo bị phơi cốt’. Bọn họ bị ép phải tự hủy hoại, sinh con trai là giết. Sinh con không dám nuôi, góa không dám tái giá.”

Các gia chủ ở đây đều hơi mất tự nhiên, những việc này đối với bọn họ mà nói đều cực kì bình thường, bởi vì bản thân những gì Lữ Thịnh nói chính là chế độ của quốc gia: Chế độ ấm khách.

Đây là trạng thái bình thường từ thời Nam Bắc triều Lưỡng Tấn tới nay. Sĩ tộc tư nhân có tá điền, bộ khúc, môn lại, nô tì và đồng bộc, đều là tài sản tư hữu của họ, không đưa vào hộ tịch quốc gia, không nộp thuế lên triều đình. Còn như Tạ Linh Vận thời Nam Triều, ỷ vào nô bộc đông đảo, quanh năm suốt tháng triệu tập mấy trăm đến hàng nghìn người đục núi đào hồ, công dịch không ngừng không nghỉ, đó chỉ là sở thích cá nhân. Như Lệnh Hồ Chỉnh diệt cả nhà Lữ thị tám mươi năm trước lại không thích xa hoa mà dẫn hai nghìn nô bộc của dòng họ đến nhờ cậy Vũ Văn Thái đánh đông dẹp bắc, cuối cùng giành được công huân hiển hách.

Đám người Trương Tệ, Địch Xương và Phiếm Nhân Kiệt hoàn toàn không cảm thấy điều này có gì không tốt.

“Sau khi Đại Đường ta dựng nước, triều đình mở khoa cử, sĩ tử hàn môn hoan hô nhảy nhót, cho rằng có hi vọng lên cao.” Lữ Thịnh lộ ra nụ cười đắng chát. “Năm ấy ta đã làm quan, lại tới tham gia khoa cử, thi đỗ song Trạng nguyên khoa Tú tài và khoa Tiến sĩ. Năm ấy pháp sư cũng đã từng hỏi ta, vì sao đã thi đỗ khoa Tú tài chính bát phẩm thượng mà còn muốn đi thi khoa Tiến sĩ tòng cửu phẩm thượng? Ta nói với pháp sư, ta muốn xem xem chế độ khoa cử này có phải đại đạo ta chờ đợi kiếp này hay không. Đáng tiếc là không phải, đây chỉ là chút ân huệ mà hào môn sĩ tộc bóp ra từ trong kẽ ngón tay, thượng quận mỗi năm tuyển chọn ba người, trung quận lấy hai người, hạ quận lấy một người. Khoa Tú tài ba mươi người thi, chỉ lấy trúng có một mình ta. Khoa Tiến sĩ nghìn người thi, thứ dân thi đỗ chỉ có mười tới hai mươi người.

“Mà so sánh với tình hình này, trong chế độ môn ấm của triều đình Đại Đường ta, con cháu quan chức đều được phong ấm. Quan nhất phẩm, con phong ấm chính thất phẩm thượng; quan nhị phẩm, con phong ấm chính thất phẩm hạ; quan tam phẩm, con phong ấm tòng thất phẩm thượng; quan tòng tam phẩm, con phong ấm tòng thất phẩm hạ. Quan chính tứ phẩm, con phong ấm chính bát phẩm thượng. Thậm chí tam phẩm trở lên phong ấm đến chắt trai, ngũ phẩm trở lên phong ấm đến cháu trai. Còn trăm nghìn sĩ tử Đại Đường, trong số nghìn người cạnh tranh thi vào khoa Tiến sĩ thì chỉ có mười tới hai mươi người trúng tuyển, quan phẩm giành được cũng chỉ là tòng cửu phẩm thượng. Đây không phải Đại Đường mà ta muốn!

“Đại Đường mà ta muốn là Đại Đường chúng sinh bình đẳng, không có chuyện mang một dòng họ nào đó liền cao hơn người khác một bậc, không phải ông cha làm quan liền có thể không làm mà được ngồi hưởng; bất cứ gia tộc nào cũng đều không có quyền coi trăm nghìn dân nghèo như tài sản riêng, càng không có chuyện khỏi điểm sinh ra của một người chính là điểm cuối phấn đấu của những người khác. Đại Đường mà ta muốn là dân chúng nộp thuế rồi liền có thể an cư lạc nghiệp, là người đọc sách nỗ lực tiến tới liền có thể thay đổi vận mệnh, là một đứa trẻ khóc oa oa sinh ra sẽ không bị số mệnh định sẵn phải làm nô bộc của người khác…”

Lữ Thịnh múa may hai cánh tay, tay nắm chặt mũi tên, ra sức hét lên giận dữ. Trên mặt hắn dính vết máu, vẻ mặt dữ tợn điên cuồng. Thời khắc này hắn vô cùng giống ác ma, nhưng cũng cực kì giống thánh nhân.

Tất cả mọi người dưới bầu trời sao và pho tượng Phật khổng lồ đều thấy kinh sợ.

“Đồ điên!” Phiếm Nhân Kiệt lẩm bẩm nói.

“Phát rồ!” Âm Thế Hùng lạnh lùng nói.

“Hắn không chỉ là kẻ thù chung của sĩ tộc, mà còn là kẻ thù chung của cả thiên hạ!” Địch Xương uy nghiêm nói.

“Ta sớm đã nói rồi, hắn còn đáng sợ hơn so với Hầu Cảnh mà!” Lệnh Hồ Đức Mậu nghiến răng nghiến lợi tiếp lời.

Trương Tệ nói từng chữ từng câu. “Sau khi Hầu Cảnh bị giết, Vương Tăng Biện chặt hai tay hắn tặng cho Văn Tuyên Đế của Bắc Tề, đầu tặng cho Nguyên Đế của Nam Lương. Thi thể hắn phơi ngoài đầu phố, bách tính chia nhau ăn gần hết, ngay cả vợ hắn là Lật Dương Công chúa cũng ăn thịt hắn; còn có bách tính đem hài cốt của hắn đốt thành tro, hòa vào với rượu mà uống. Nguyên Đế Nam Lương luộc đầu hắn rồi quét sơn lên, giao cho kho vũ khí cất giữ. Lữ Thịnh hôm nay còn nguy hại đối với quốc gia hơn cả Vương Mãng và Hầu Cảnh, chúng ta cũng không ngại làm theo lệ cũ đã xử trí Vương Mãng và Hầu Cảnh.”

“Ha ha ha…” Lữ Thịnh được Huyền Trang dẫn dắt, kí ức dường như đang dần dần khôi phục, cười dài nói. “So sánh ta với Vương Mãng và Hầu Cảnh, các vị đánh giá thấp ta như thế, xem ra vẫn chưa đủ đau đây mà! Từ xưa đến nay, có bao giờ quyền lực hủy diệt được sĩ tộc chưa? Có bao giờ quân đội hủy diệt được sĩ tộc chưa? Không không không, đều không được. Pháp sư Huyền Trang, ngài biết ta làm như thế nào không?”

“Bần tăng chỉ thấy ngươi tìm mua sách sử và sách dòng họ khắp nơi để khảo chứng phả hệ của Địch thị,” Huyền Trang nói.

“Pháp sư đoán không sai, nhưng chỉ khảo chứng một Địch thị thôi thì còn chưa đến mức làm ta phải tốn công đến thế,” Lữ Thịnh cười nói. “Ta tìm mua sách sử và sách dòng họ, nghiên cứu ngọn nguồn, lần theo thế hệ, không hề chỉ nhằm vào một nhà Địch thị, mà là khảo chứng toàn bộ tám nhà sĩ tộc như Lệnh Hồ thị, Trương thị, Lý thị, Tống thị, Sách thị, Phiếm thị và Âm thị!”

Tất cả mọi người đều xôn xao, đám người Lệnh Hồ Chiêm còn không ngừng quát mắng.

Lữ Thịnh chỉ cười lạnh lùng, tiếp tục nói, “Vừa rồi pháp sư nói không sai. Sau thời Tây Tấn, phía bắc nhiều năm liền rối ren loạn lạc, dân số di chuyển không ngừng, quê quán dời đổi thường xuyên, một số hàn môn thứ tộc liền mạo nhận quận vọng của người khác nhằm tiến thân sĩ tộc. Nhưng người làm giả cao môn, ngụy tạo quận vọng chẳng lẽ chỉ có một nhà Địch thị thôi hay sao? Chỉ là một số gia tộc làm hơi qua loa, còn một số gia tộc khác làm kín kẽ hơn mà thôi. Ta lần lượt kiểm tra đối chiếu gia phả của tám nhà sĩ tộc với sách sử và sách dòng họ, phát hiện nhiều chỗ sơ hở. Có điều một số sĩ tộc đã giả mạo từ rất xa xưa, gia phả làm giả khi ấy lại hoàn toàn kín kẽ, khó mà đóng đinh được bọn chúng. Thế là ta liền đi đào mộ tổ nhà bọn chúng lên!”

Chuyện này Huyền Trang sớm đã nghe đám người Địch Pháp Nhượng nói, nhưng thế hệ trẻ như Lệnh Hồ Chiêm và Địch Thuật lại là lần đầu tiên nghe thấy, lập tức hai mắt đỏ rực, chửi bới không ngừng.

“Ta đào ba mươi ba ngôi mộ tổ của tám nhà sĩ tộc, tự mình đi vào mộ thất xem bia mộ chí. Pháp sư tất nhiên biết, trên mộ chí ghi lại họ tên, quê quán, thế hệ, tước lộc và giản lược cuộc đời của người chết, tương tự như truyện chí. Nhưng có một điểm khác biệt: Truyện chí là để cho người sống ở trên đời xem, còn mộ chí lại là để cho Diêm Vương dưới âm ty xem. Thế hệ con cháu nhà bọn chúng dám lừa dối người sống trên đời, nhưng không dám lừa dối ma quỷ ở dưới âm ty! Vậy nên mặc dù trong gia phả nhà chúng chỉ ghi toàn mấy thứ giả dối, nhưng những gì ghi trên mộ chí lại hoàn toàn chân thực!” Lữ Thịnh cười nói.

Đám người Huyền Trang và Lý Thuần Phong nghe mà trợn mắt há mồm. Đám gia chủ sĩ tộc như Lệnh Hồ Đức Mậu và Địch Xương lại vừa xấu hổ vừa giận dữ, toàn thân toát mồ hôi như mưa, run rẩy không ngừng. Người này quá cay độc, quá đáng sợ.

“Nhưng cuối cùng ngươi chỉ trộm đi bảy tấm bia mộ chí thôi.” Huyền Trang nói khẽ.

“Đúng vậy! Bia mộ chí quá nặng, bia có vấn đề ta đương nhiên phải mang đi, bia không có vấn đề ta mang đi làm gì?” Lữ Thịnh như cười như không liếc mọi người. “Bảy tấm bia này lần lượt thuộc về Địch thị, Âm thị, Trương thị, Lý thị và Phiếm thị.”

Đám bộ khúc của Địch thị, Âm thị, Trương thị và Phiếm thị tới tấp giậm chân mắng chửi, các loại ô ngôn uế ngữ cứ thế văng ra vô cùng vô tận.

Lữ Thịnh thờ ơ nói, “Không phục sao? Vậy ta sẽ lần lượt nói cho mà nghe. Đúng như Hoằng Nghiệp công nói, đêm nay rất dài. Giờ chúng ta nói về Phiếm thị.”

Phiếm Nhân Kiệt lập tức rùng mình, sắc mặt trở nên khó coi.

Lữ Thịnh nói, “Trong Đôn Hoàng danh tộc chí ghi lại, tổ tiên của Phiếm thị chính là Ngự sử trung thừa Phiếm Hùng thời Tây Hán Thành Đế, bởi vì cương trực mà bị luận tội; năm Hòa Bình nguyên niên, từ huyện Lư ở Tế Bắc chuyển đến sống ở Đôn Hoàng. Phiếm thị đời đời sống ở đây, vì thế là vọng tộc Đôn Hoàng.”

“Phiếm thị ta nguồn cội sâu xa người Đôn Hoàng đều biết!” Phiếm Nhân Kiệt lạnh lùng nói: “‘Danh tộc chí’ chính là tác phẩm từ thời Bắc Chu, giấy trắng mực đen, ta xem ngươi đổi trắng thay đen thế nào!”

“Rất tốt!” Lữ Thịnh không đổi sắc mặt. “Nhưng ta lại đào được một tấm bia trong phần mộ thời Tiền Lương của Phiếm thị ngươi, bên trên có khắc ‘Đôn Hoàng Phiếm thị gia truyền’, ghi lại: ‘Thời Hán có Phiếm Thắng Chi soạn sách nói chuyện trồng trọt. Con là Tập, là Thái thú Đôn Hoàng, con cháu an gia tại đây’.”

Phiếm Nhân Kiệt lập tức ngẩn ra, nghẹn lời không biết nói gì. “Ngươi… Nói xằng nói bậy… Làm gì có Đôn Hoàng Phiếm thị gia truyền này?”

Lữ Thịnh cười lạnh lùng. “Thật sự không có sao?”

Phiếm Nhân Kiệt muốn phủ nhận, nhưng lại nghĩ lỡ như Lữ Thịnh thật sự lấy ra tấm bia này, chính mình sẽ há miệng mắc quai, đành phải gân cổ lên cãi. “Có thì làm sao? Mau trả lại bia mộ chí của tổ tiên ta!”

“Có thì tốt!” Lữ Thịnh nói. “Trong lịch sử đúng là có người tên Phiếm Thắng Chi, ông ta từng viết sách và biên soạn Phiếm Thắng Chi thư’, dạy nông nghiệp trồng trọt, sáng tạo ra khu điền pháp, sưu chủng pháp, tuệ tuyển pháp và giá tiếp pháp, cùng ‘Tề dân yếu thuật của Giả Tư Hiệp được gọi là ‘hai cuốn sách lớn viết về nông nghiệp’.”

Phiếm Nhân Kiệt thở phào nhẹ nhõm. “Tổ tiên Phiếm thị ta ở các triều đại đều có công lao hiển hách.”

“Phiếm Thắng Chi là Thị lang hoàng môn thời Hán Thành Đế,” Lữ Thịnh mỉm cười nói.

Phiếm Nhân Kiệt mấp máy môi, cả người đều ngơ ngẩn.

Đám người Huyền Trang và Lý Thuần Phong lập tức hiểu ra, Phiếm Hùng là Ngự sử trung thừa của Hán Thành Đế, Phiếm Thắng Chi là Thị lang hoàng môn của Hán Thành Đế, đều họ Phiếm. Dòng họ hiếm như vậy làm quan cùng triều, điều này cũng không nói rõ được gì, nhưng hai họ Phiếm lại gần như đồng thời chuyển đến Đôn Hoàng, khả năng này cực kì bé nhỏ.

“Ngươi nói là trong ấy tất có một cách nói là giả, không phải tổ tiên thật sự của Phiếm thị sao?” Huyền Trang hỏi.

“Không, cả hai cách nói đều là giả,” Lữ Thịnh đáp. “Trên đời này không hề có người nào tên là Phiếm Hùng đảm nhiệm chức Ngự sử trung thừa. Đúng là có Phiếm Thắng Chi, nhung ông ta không có một người con trai nào tên là Phiếm Tập, càng không cần phải nói tới chuyện đứa con trai ấy từng làm Thái thú Đôn Hoàng! Nói ngắn gọn, nguồn gốc của Phiếm thị Đôn Hoàng là hư cấu!”

Tất cả mọi người đều nhìn trân trối!

“Ngươi nói xằng nói bậy!” Phiếm Nhân Kiệt hét lên như phát điên, có cảm giác nhục nhã trần trụi như bị lột sạch tất cả quần áo. “Đưa ra chúng cứ đi!”

“Các vị có thể đi xem toàn bản Ấn sĩ truyện của Hoàng Phủ Mật thời Tây Tấn, trong ấy nhắc tới con nối dõi của Phiếm Thắng Chi, không hề có người tên là Phiếm Tập,” Lữ Thịnh nói. “Mà Phiếm Hùng làm Ngự sử trung thừa, quan lớn ăn bổng nghìn thạch, nhưng lật khắp tất cả các sử liệu thời Thành Đế lại không tra ra được người này! Còn bằng chứng, chờ đến khi tấm bia Đôn Hoàng Phiếm Thị gia truyền kia tái hiện nhân gian, ngươi tự khắc sẽ nhìn thấy.”

Trán Phiếm Nhân Kiệt toát mồ hôi như mưa, thân thể trượt theo lan can ngồi xuống đất.

“Chúng ta tiếp tục nói về Trương thị.” Lữ Thịnh nhìn Trương Tệ, cười lạnh lùng.

Sắc mặt Trương Tệ lập tức biến đổi, nhưng chỉ cười lạnh không nói một lời.

“Đôn Hoàng danh tộc chí ghi lại, Hiệu úy Tư Lệ thời Hán là Trương Tương, cháu chín đời của Triệu Vương Ngao. Khi ấy sau khi vợ của quyền thần Hoắc Quang là Hoắc Hiển đầu độc chết Hứa Hậu, Hoàng hậu của Hán Tuyên Đế, Trương Tương liền mật tấu Tuyên Đế. Đế nói Hoắc Quang có công lớn, cấm bàn việc này. Trương Tương lo sợ, năm Địa Tiết nguyên niên cả nhà chạy về phía tây, qua Thiên Thủy rồi chết bệnh. Con Tương tới Thử Quận, nhà tại Bắc Phủ, tục hiệu Trương Bắc Phủ,” Lữ Thịnh nói. “Câu chuyện đúng là lên bổng xuống trầm, đáng tiếc ta tra hết sách sử, cả Tây Hán không hề có Hiệu úy Tư Lệ nào tên gọi Trương Tương.”

“Ngươi không tra được không hề có nghĩa là không có.” Sắc mặt Trương Tệ từ từ giãn ra. “Sách sử quá nhiều, trải qua các triều đại rơi rớt càng nhiều. Chẳng lẽ chỉ dùng một câu ‘sách sử không ghi’ liền có thể phủ định tổ tiên của Trương thị ta hay sao?”

“Đương nhiên không thể. Mặc dù ta không tra được Trương Tương nhưng lại tra được một người khác.” Lữ Thịnh cười to. “Trong Tây Hán kỷ ghi lại một việc: Trương Chương ở Trường An mật cáo Hoắc thị mưu phản, Tuyên Đế sắc phong Bác Thành Hầu. Đây đúng là hơi tương tự với Phiếm thị. Cũng là trong thời Tuyên Đế, trong thành Trường An; một người tên là Trương Tương, một người tên là Trương Chương, hình chữ tương tự, âm đọc gần giống; một tố cáo vợ của Hoắc Quang đầu độc chết Hứa Hậu, một tố cáo Hoắc thị mưu phản. Các vị có thể nghĩ thông bí mật ẩn trong đó không?”

Trương Tệ như bị sét đánh, nhất thời lại không biết phản bác thế nào. Bởi vì sách sử như Tây Hán kỷ, chỉ cần tiện tay tra liền có thể tra được ngay.

“Cho nên Trương Tương này chính là căn cứ vào sự tích của Trương Chương để sáng tạo ra,” Lữ Thịnh nói. “Còn Trương thị Đôn Hoàng căn bản không phải hậu duệ của Thái tổ Tiền Lương Trương Quỹ và Thế tổ Trương Tuấn. Chỉ vì danh tướng Đông Hán Trương Hoán và Thảo Thánh Trương Chi đều xuất phát từ quận Đôn Hoàng nên cả họ Trương thị Hà Tây đều nói chính mình là quận vọng Đôn Hoàng. Gia tộc của vị Trương công trước mặt này đã không phải hậu duệ của Trương Chi, cũng không phải hậu duệ của Trương Quỹ, lại dung hợp hai danh môn Trương thị lớn thành một, khoe khoang là hậu nhân của họ. Nhưng năm ngoái bọn họ xây miếu Trương Chi, vậy mà ngay cả quê quán Mặc Trì của Trương Chi ở đâu cũng không biết, phải phái người đi tìm khắp nơi.”

Sắc mặt Trương Tệ càng lúc càng khó coi, nhưng vẫn duy trì phong độ không hề phát tác.

“Chỉ vì sau khi gia chủ Trương Trạm của Trương thị Mặc Trì thật sự bị Bắc Ngụy chuyển đến thành Bắc Bình, Trương thị Mặc Trì tại Đôn Hoàng suy yếu, nên mới cho tổ tiên của Trương Tệ có cơ hội tận dụng. Trương thị Đôn Hoàng liền làm giả gia phả, kết luận cả Trương thị Mặc Trì và Trương thị Tiền Lương đều là tổ tiên của mình, xưng là hậu duệ vương tộc hạng nhất Đôn Hoàng!”

“Ăn nói bừa bãi!” Trương Tệ không thể nào nhịn được nữa, nổi giận mắng.

“Khiêm Chi,” Trương Diên ngồi bên cạnh đột nhiên nói. “Không cần giải thích, cũng không cần phải thừa nhận. Trương thị đặt chân ở Đôn Hoàng bảy trăm năm nay, người vũ nhục ta đếm không hết, có lúc nước bẩn hắt đến trên người, con càng lau lại càng bẩn. Bất kể hắn nói thế nào, chỉ cần đêm nay không một ai có thể còn sống sót ra ngoài, tất cả liền vẫn như thường.”

“Vâng, thưa phụ thân,” Trương Tệ gắng gượng ổn định tâm tình, khom người nói. “Tệ tuân lệnh.”

Ánh mắt của Lữ Thịnh thoáng nhìn Trương Diên một cái tán thưởng, lại nhìn Âm Hạ Lan và Âm Thế Hùng.

Âm Thế Hùng nhếch miệng, cười lạnh lùng không thôi. “Đến phiên Âm thị ta rồi chứ?”

“Âm thị của ngươi không có gì để nói, chỉ là quân nhân họ Âm thời Đông Hán đến Đôn Hoàng tòng quân chém giết sa trường, lập nên công huân mà thành. Đến tận khi trong phủ của Trương Quỹ thời Tiền Lương xuất hiện nhân tài như Âm Sung và Âm Đạm mới được sách sử ghi lại,” Lữ Thịnh nói. “Âm thị các ngươi tự xưng là hậu duệ của Âm Thức ở Nam Dương, chỉ vì Âm Thức chính là người họ Âm có quận vọng cao nhất, em gái của Âm Thức là Âm Lệ Hoa còn là Hoàng hậu của Quang Vũ Đế. Một câu ‘Làm quan phải làm Chấp kim ngô, lấy vợ phải lấy Âm Lệ Hoa’ càng khiến cho Âm thị danh dương bốn biển. Ta lại thắc mắc, thời Đông Hán, làm sao các ngươi đã dám mạo nhận gia tộc của Quang Liệt Hoàng hậu được? Điều này càng khiến ta nhận định tổ tiên của ngươi chính là binh lính một chữ bẻ đôi cũng không biết! Nhưng các ngươi đã nhận Nam Dương làm quận vọng, còn dính líu họ hàng gì với Âm Thế Sư thời Tiền Tùy nữa? Âm Thế Sư thông tin rõ ràng, là quận vọng Vũ Uy chính hiệu. Vừa muốn với lên quận vọng cao môn, vừa muốn bám vào quan lớn triều đình, các ngươi thô tục không chịu nổi, sơ hở chồng chất, thật sự là không đáng để nói chuyện!”

Âm Hạ Lan và Âm Thế Hùng tức giận đến mức cả người run lên, lại hiển nhiên đã coi lời của Trương Diên là chuẩn mực, chỉ cười lạnh lùng.

“Vậy còn Lệnh Hồ thị ta?” Lệnh Hồ Chiêm hãnh diện hỏi.

Lữ Thịnh hơi tiếc nuối nói, “Ta đã đào mười chín ngôi mộ tổ của Lệnh Hồ thị các ngươi, vậy mà không tìm được điểm đáng ngờ nào ở trên phả hệ, bao gồm cả Tống thị và Sách thị cũng không tìm được. Nhưng không tìm được không hề có nghĩa là không có, không ít phần mộ còn chưa kịp đào đã bị các ngươi phát hiện, đành phải thu tay lại. Sau này nếu có cơ duyên nhất định phải đi đào thêm lần nữa xem.”

Lệnh Hồ Chiêm tức giận đến mức nhảy dựng cả lên, lại sợ làm hại con tin nên không dám làm bừa.

“Trên thực tế, mặc dù Lệnh Hồ thị các ngươi bị đào mộ tổ nhưng lại là người được lợi lớn nhất ở đây,” Lữ Thịnh cười nói. “Chẳng lẽ các ngươi không thấy lạ sao? Mấy năm nay hành động vây bắt Khuê Mộc Lang phần lớn là do Lệnh Hồ thị các ngươi dẫn đầu. Hơn nữa Địch, Trương, Phiếm, Âm và Lý mất bia mộ chí, vì vậy mới xây dựng đài quan sát tinh tượng trong tháp bảy tầng để nghiên cứu tinh tượng, Lệnh Hồ thị các ngươi không hề mất bia, vì sao cũng ở đây, hơn nữa còn ngồi ở bậc trên cùng?”

Lữ Thịnh liếc Lệnh Hồ Đức Mông đã thành thây khô một cái.

Lệnh Hồ Chiêm lập tức kinh ngạc, thoáng nhìn phụ thân. Lệnh Hồ Đức Mậu chỉ cười lạnh lùng.

Ngay cả Huyền Trang cũng hơi bất ngờ. Từ khi ngài vào Đôn Hoàng tới nay, về cơ bản những chuyện dính dáng đến Khuê Mộc Lang đều là do Lệnh Hồ Đức Mậu chủ trì. Ngài cho rằng đây là bởi Lệnh Hồ thị nóng lòng muốn rửa sạch nỗi sỉ nhục bị bắt mất cô dâu, nhưng giờ xem ra lại có thâm ý khác.

“Bởi vì ta không tìm ra sơ hở trên phả hệ của Lệnh Hồ thị, vậy nên chẳng khác nào cho Lệnh Hồ thị một cái thóp để bắt chẹt năm sĩ tộc lớn kia cả!” Lữ Thịnh lạnh nhạt nói. “Lệnh Hồ thị chủ trì đài quan sát tinh tượng, tìm bia mộ chí, trên thực tế chính là đang dắt mũi nãm sĩ tộc lớn. Mấy năm nay, thế lực của Lệnh Hồ thị đã bành trướng rộng khắp Đôn Hoàng. Năm Trinh Quán nguyên niên, ngươi giành chức Trấn tướng trấn Tây Quan từ trong tay Âm thị, Công tào tham quân châu nha là người của Lệnh Hồ thị ngươi, Huyện úy Đôn Hoàng cũng là người của Lệnh Hồ thị ngươi. Mấy năm ngắn ngủi, Lệnh Hồ thị các ngươi lần lượt nắm giữ binh quyền, quyền sát hạch quan lại, quyền phân phối nước rồi tới quyền trị an châu thành, sau đó nhảy lên đứng đầu sĩ tộc. Những quyền lực này từ đâu mà đến? Là Lệnh Hồ Đức Mông ép đến từ chỗ các sĩ tộc khác! Vì sao Lý thị thà rằng cúi đầu trước ta, chuộc lại bia mộ chí chứ quyết không chịu gia nhập mật hội phán cung? Là do họ đã bị Lệnh Hồ Đức Mông ép quá mức tàn nhẫn rồi!”

Trong lòng đám người Địch Pháp Nhượng, Phiếm Chính, Trương Diên, Âm Hạ Lan và Địch Xương, Trương Tệ, Âm Thế Hùng cùng Phiếm Nhân Kiệt lập tức cảm thấy rất u sầu. Họ cùng nhìn vào thây khô của Lệnh Hồ Đức Mông, nhớ lại sự cam khổ mấy năm nay, không nhịn được mà rùng mình một cái.

Còn Lệnh Hồ Chiêm lại lộ vẻ vừa xấu hổ vừa tức giận, hắn vẫn cho rằng vị trí Trấn tướng Tây Quan này là do hắn dựa vào chính mình phấn đấu mới có được, không nghĩ tới ra là được gia tộc mạnh mẽ nhấc lên!

“Đây là kế sách ly gián sĩ tộc của hắn, các vị chớ mắc lừa,” Lệnh Hồ Đức Mậu thấy sắp không khống chế được cục diện nữa, liền vội vàng nói.

Người của bốn sĩ tộc lớn không hề nói gì, chỉ im lặng thở dài một tiếng.

“Pháp sư, ngài xem, cái gọi là môn phiệt sĩ tộc chính là như thế, vì quyền lực và lợi ích mà có thể dùng tới bất cứ thủ đoạn nào.” Lữ Thịnh cười nói với Huyền Trang. “Tám sĩ tộc lớn Đôn Hoàng này, ta vừa khảo chứng liền tìm ra năm nhà có đủ loại việc làm kinh khủng như mạo nhận quận vọng, hư cấu tổ tiên. Sĩ tộc thiên hạ lại có bao nhiêu người giống như bọn chúng? Không đếm xuể! Cho nên cái gọi là danh môn sĩ tộc, cái gọi là phiệt duyệt quận vọng tựa như tấm áo bào hoa lệ vậy, bên trong bò đầy những chấy với rận. Tất cả các dòng họ trong thiên hạ đều bình đẳng như nhau, những dòng họ được cho là cao hơn người khác một bậc, chẳng qua chỉ là xuất phát từ lợi ích mà dựng lên thôi. Kể cả đương kim hoàng thất thì thế nào? Bởi vì bọn họ nắm giữ thiên hạ nên Lý thị Lũng Tây mới được nâng lên tầm thần thánh. Nào là hậu duệ của Lão Tử, nào là hậu nhân của Lý Lăng, đến lúc Đại Đường sụp đổ cũng chỉ khiến cho hậu nhân được dịp chê cười. Như Lưu Bang để thần thoại hóa họ Lưu, ngay cả chuyện lão mẫu của chính mình bị rắn cường bạo cũng bịa ra được, bây giờ chẳng phải đã trở thành trò cười cho đời sau hay sao?”

“Cho nên…” Huyền Trang thở dài một tiếng. “Ngươi muốn dùng thủ đoạn này để diệt sạch sĩ tộc? Lấy chuyện sĩ tộc Đôn Hoàng mạo nhận quận vọng làm lời dẫn, viết một quyên tương tự như Tam tự thư rồi truyền bá thiên hạ?”

“Không sai,” Lữ Thịnh gật đầu nói. “Trong tám tộc Đôn Hoàng đã có năm tộc mạo nhận dựa hơi, vậy thì trong thiên hạ này có bao nhiêu sĩ tộc làm chuyện tương tự? Nếu ta có thể sống sót, ta sẽ đào cả mộ tổ của sĩ tộc năm họ Sơn Đông; phả hệ của Lý, Thôi, Lư, Trịnh, Vương cũng có chỗ khả nghi, ta sẽ lần lượt lật ra phả hệ của bọn chúng, phơi bày những thủ đoạn ti tiện của chúng cho khắp thiên hạ này xem. Từ nay về sau, hai chữ ‘sĩ tộc’ sẽ không bao giờ còn là vinh quang nữa mà là trò cười! Từ nay về sau, người người sẽ phải cảm thấy nhục nhã khi tự nhận mình là sĩ tộc! Từ nay về sau, không còn có dòng họ nào vừa sinh ra liền cao hơn người khác một bậc! Từ nay về sau, sẽ không còn có người tầm thường vừa sinh ra đã chiếm địa vị cao, sĩ tử bình dân chỉ cần chăm chỉ tiến tới liền có thể thực hiện được tham vọng! Đây chính là Đại Đường mà ta muốn!”

Lữ Thịnh đứng ở dưới trời cao vũ trụ này, trước đầu Phật Thích Ca Mâu Ni, điên cuồng cười to, giống như điên khùng.

Nơi đỉnh núi đá, trên đài thiên tượng.

Ngư Tảo và Lý Thiền ghé sát vào bên khe cửa gỗ của ngôi nhà nhỏ, đang nghiêng tai lắng nghe âm thanh bên trong. Tiếng cười dài ngang ngược của Lữ Thịnh vang lên khiến cho hai người họ cả kinh, sắc mặt sợ hãi.

Lý Thiền ngồi bệt xuống đất, lẩm bẩm nói, “Gã Lữ Thịnh này, quả đúng là… quả đúng là…”

“Quả đúng là gì?” Ngư Tảo liếc hắn một cái.

Lý Thiền lập tức cười cầu tài. “Cảm giác ấy thật không thể nào mà diễn tả nổi. Người này lòng dạ rộng lớn, khí vượt muôn đời, trong lịch sử chưa từng có ai như thế xuất hiện. Sĩ tộc Đôn Hoàng vậy mà lại dám so sánh hắn với Hầu Cảnh, thật đúng là xem nhẹ hắn rồi. Hầu Cảnh đứng trước mặt hắn chỉ là một tên đồ tể giết heo, kể cả Vương Mãng thay đổi cả một triều đại cũng còn kém hắn rất xa rất xa.”

“Ngươi lấy hai đại ác nhân ấy ra để so sánh với Lữ Tứ Lang?” Ngư Tảo giận tím mặt.

“Không không.” Lý Thiền vội vàng giải thích. “Đây là gia chủ sĩ tộc so sánh, ta nhất thời chưa tìm ra nhân vật nào thích hợp để hình dung thôi. À… Chỉ có một người ta nhớ tới được, đó chính là Công Tôn Ưởng.”

Công Tôn ưởng thực hiện biến pháp cho Đại Tần oai hùng, đặt ra pháp luật muôn đời cho nước Tần, thậm chí cho cả các đời vương triều tương lai. Nhưng ông ta dùng hình phạt nghiêm khắc để phổ biến luật mới, một ngày xử quyết bảy trăm tử tù bên sông Vị Thủy, khiến nước sông Vị Thủy chuyến màu đỏ, tiếng gào khóc vang động cả trời. Trong mười năm làm Tướng quốc, Công Tôn Ưởng khiến nhiều người căm hận, cuối cùng chính mình binh bại mà chết, chịu khổ xé xác, toàn tộc bị giết.

Ngư Tảo suy nghĩ một lát. “Cũng thích hợp. Có điều… kết cục của Tứ Lang cũng sẽ thảm thiết như vậy sao?”

“Chuyện phía sau sự thảm thiết của Thương Quân chính là lời chú thích tốt nhất cho thành tựu huy hoàng của ông ấy. Giống như việc Lữ Thịnh muốn làm, chỉ cần làm được, ta nghĩ hắn sẽ vui vẻ nhìn chính mình cáo biệt thế gian này bằng phương thức thảm thiết nhất!” Lý Thiền nói.

“Không nghĩ tới ngươi lại là tri âm của Tứ Lang,” Ngư Tảo nói.

Lý Thiền cười khổ. “Ta chính là người tầm thường sinh ra đã cao hơn người khác một bậc mà hắn nói, là đối tượng hắn thề chết phải tiêu diệt… À không, là đối tượng hắn tiện tay tiêu diệt.”

Ngư Tảo nở nụ cười hiếm thấy. “Ngươi biết ta suy nghĩ thế nào không? Tứ Lang vẫn là dáng vẻ ta nhìn thấy lần đầu tiên, vai cao hơn cả Thừa Thiên Môn! Sự phong hoa của Đại Đường, sự tráng lệ của Trường An chẳng qua chỉ là điểm xuyết trên vai chàng thôi.”

Đúng lúc này, đột nhiên có tiếng vó ngựa lộn xộn truyền đến từ đỉnh núi bên ngoài tường bao.

Hai người lập tức kinh hãi, vội vàng nấp ở sau tường.

Lúc này đã là ban đêm, trăng sáng treo trên khung trời, núi Kỳ Liên núi non trùng điệp bị ánh trăng nhuộm thành màu trắng tinh. Trên mặt đất, các loại thiên tượng nghi cao lớn in bóng đen xuống, ngọn lửa cháy dưới hơn sáu trăm tấm xích pha lê dày như sao trời, chiếu sáng sao trên trời.

Tám tên kỵ sĩ vội vàng chạy tới từ trong bãi cát trên đinh núi. Tám người lại có mười hai con ngựa, tất cả đều mặc áo bào đen, trên người đeo đao, trên ngựa treo cung. Vó ngựa của những người đó dường như được bọc vải, giẫm trên cát đá chỉ phát ra âm thanh trầm đục rất nhỏ.

Ngư Tảo chậm rãi giương cung đặt tên, Lý Thiền từ từ rút hoành đao ra.

Những người kia tới quá kỳ lạ, bên này núi đá bị sông Cam Tuyền chia cắt, nối với mạch chính của núi Kỳ Liên, trên núi không có một ngọn cỏ, ít khi có vết chân người, lại càng không có đường đi. Những người kia nửa đêm dùng vải bọc vó ngựa, lặng lẽ đi tới đài thiên tượng này, không biết là có ý đồ gì.

Tường bao rất thấp, chỉ cao đến ngang hông người lớn, đứng ở ngoài tường có thể nhìn thấy hết tình hình trong tường, càng khỏi phải nói đến thiên tượng nghi đang đứng sừng sững. Đến ngoài khoảng sân có đài thiên tượng, đám kỵ sĩ áo bào đen xuống ngựa, kéo mười hai con ngựa quay đầu lại rồi buộc vào cùng nhau, mông ngựa quay về phía sân. Sau đó tất cả các kỵ sĩ lấy ra từng cuộn dây thừng dài từ trên lưng ngựa, một đầu buộc vào vòng sắt trên yên ngựa, một đầu cầm trong tay, lũ lượt đi vào đài thiên tượng.

Ngư Tảo và Lý Thiền trốn ở gần cửa căn phòng nhỏ, lập tức khó xử. Đài thiên tượng cũng không lớn, mặt đất lại bằng phẳng, hoàn toàn không có cách nào đứng dậy trốn ra ngoài tường; hơn nữa cửa gỗ của căn phòng nhỏ đã khóa, không có cách nào để đi vào.

“Giết!” Ngư Tảo đột nhiên đứng dậy, bắn tới một mũi tên.

Những kỵ sĩ áo bào đen kia không hề phòng bị chút nào, ai cũng không ngờ đài thiên tượng hoang vắng không người này lại có giấu người. Một tên kỵ sĩ bị mũi tên bắn trúng ngực, lực bắn do cung hai thạch bắn ra cực lớn, ở cự li gần, mũi tên trực tiếp xuyên thấu thân thể người đó. Chát một tiếng bắn vào trên tường.

Lý Thiền cũng tung người nhảy lên, một đao hùng hổ bổ vào trên vai của một người khác, người đó kêu một tiếng thảm thiết rồi xoay người ngã xuống.

Những kỵ sĩ áo bào đen này cũng cực kì tinh nhuệ, bị tấn công bất ngờ nhưng chỉ sau chốc lát ngắn ngủi đã phản ứng lại, tới tấp tản ra sau đó rút đao cầm cung bắt đầu phản kích. Ngư Tảo di chuyển cực nhanh giữa nhũng thiết bị thiên tượng cao lớn, kéo giãn khoảng cách với họ. Mười ngón tay nàng không ngừng múa lên như đang chơi đàn tỳ bà, từng mũi tên bắn nhanh ra ngoài, trong nháy mắt lại bắn ngã hai người. Lý Thiền thì bị hai tên kỵ sĩ áo bào đen vây công, hoành đao của hai bên va chạm, tia lửa bắn ra bốn phía. Lý Thiền chỉ nỗ lực cầm cự, nhất thời không giải quyết được.

Hai tên kỵ sĩ áo bào đen còn lại liền truy đuổi theo Ngư Tảo, đấu cung tên với nàng giữa các thiết bị thiên tượng. Hai bên đều có qua có lại, mũi tên bắn vào thiên tượng nghi đúc bằng đồng vàng phát ra tiếng leng keng chát chúa, tia lửa bắn ra không ngừng; một số mùi tên còn bắn gãy các kết cấu tinh vi trên thiết bị khiến thiên cầu nghiêng lệch, kịch liệt quay tròn.

Ngư Tảo đột nhiên bắn một mũi tên vào xích pha lê dưới chân một người. Ầm một tiếng, xích pha lê vỡ tan, ngọn lửa đèn mỡ cá voi đang cháy bên dưới đột nhiên cao lên tới ba thước; ánh lửa sáng bừng trước mặt người đó, khiến tầm nhìn của hắn lập tức trở nên lẫn lộn. Ngư Tảo nắm lấy cơ hội, lại bắn tới một mũi tên, lần này xuyên thẳng qua yết hầu người đó.

Một người khác đột nhiên kinh hãi, vội vàng tránh xích pha lê dưới đất. Thừa dịp hắn đang bận né tránh, Ngư Tảo lại bắn ra một mũi tên, bắn trúng sau lưng người đối chiến với Lý Thiền, người đó lập tức xoay người ngã xuống.

Áp lực của Lý Thiền giảm mạnh.

Người cầm cung nọ trốn ở phía sau thiên tượng nghi, dùng cung tên ngắm chuẩn xích pha lê gần Ngư Tảo, không ngừng bắn tới. Ngư Tảo vội vàng né tránh. “Ầm ầm ầm,” ngọn lửa không ngừng bùng lên sau lưng nàng, cuối cùng giữa hai người tất cả đều là ngọn lửa cao ba thước, không nhìn rõ bóng người.

Đột nhiên vang lên một tiếng kêu thảm, Lý Thiền chém một đao vào cổ đối thủ, người đó rũ người ngã xuống đất. Lý Thiền xách đao, cùng với Ngư Tảo trái phải giáp công người cầm cung kia.

“Rốt cuộc các ngươi là ai?” Người cầm cung hạ thấp giọng nói, giận dữ dò hỏi.

Lúc này Ngư Tảo và Lý Thiền mới phát hiện, từ lúc giao đấu đến giờ, không ngờ đối phương vẫn yên lặng không hề lên tiếng.

Cho dù là kêu thảm khi sắp chết cũng nặng nề kìm nén, dường như là tử sĩ.

“Các ngươi là ai? Vì sao lại lén lén lút lút đến đây?” Ngu Tảo cũng nói nhỏ.

“Xem ra các ngươi cũng không muốn kinh động người phía dưới,” Người cầm cung trầm ngâm nói. “Như vậy chúng ta không phải kẻ thù.”

Lý Thiền lạnh lùng nói, “Nói ra thân phận của ngươi, sau đó luận địch ta sau.”

Người cầm cung chần chừ một hồi lâu, sau đó mới hạ thấp giọng. “Tại hạ là cháu của gia chủ Lý thị Đôn Hoàng, Lý Liệt!”