Chương 2 Tây du rồi lại Tây du
Lúc này Huyền Trang thực sự chết lặng người. Đời này ngài đã trải qua biết bao nhiêu chuyện hung hiếm li kì, lại trải qua đường Tây du vạn dặm, cửu tử nhất sinh, tâm ngài sớm đã như đá tảng, giếng cạn, sóng gió không lay động được. Nhưng hôm nay Huyền Trang lại bị làm cho khiếp sợ. Giới Nhật Vương mời một tăng nhân giúp mình thu phục một quốc gia?
“Là thế này…”, Giới Nhật Vương cũng biết việc này khiến người ta khó lòng tưởng tượng nổi, vội vàng giải thích: “Đại sư từ Tây Vực đến, có từng đi qua Càn Đà La?”.
Huyền Trang gật đầu: “Năm đó bần tăng chính là từ Càn Đà La vượt qua sông Ấn tiến vào Thiên Trúc. Từng lưu lại trong đô thành Phú Lâu Sa[51] (Purusa) chừng vài ngày, bấy giờ thành thị hoang vu, cư dân thưa thớt, trong thành phần lớn là thương nhân. Người Ba Tư, người Đột Quyết, người Túc Đặc, người Thiên Trúc, thậm chí người Bái Chiêm Đình[52] (Byzantine) phương Tây, dân nhập cư hỗn tạp, trong thành vô cùng hỗn loạn, giết người cướp của, không từ bất cứ việc xấu nào”.
Đại sư Giới Hiền lộ vẻ hoài niệm: “Ôi, không ngờ Càn Đà La lại hỗn loạn đến vậy sao? Thắng cảnh Phật gia năm xưa, e rằng không ai có thể nhận ra được nữa”.
“Đúng vậy!”, Huyền Trang nói: “Tại Càn Đà La có hơn một ngàn ngôi chùa, nhưng tất cả đều hoang phế tiêu điều, ít có người ở. Tháp Phật đều đã đổ nát hoang tàn”.
Càn Đà La có ý nghĩa vô cùng đặc biệt đối với Phật giáo, đây chính là điểm trung chuyển trên con đường truyền bá Phật pháp vươn xa ra thế giới. Lúc đầu Phật giáo không cho phép tạc tượng, tượng Phật chỉ có thể được thay thế bằng các vật phẩm như chân Phật, răng Phật, dấu chân Phật. Sau khi truyền tới Càn Đà La, bởi vì nơi này là nơi giao thoa giữa các nền văn hóa, Phật giáo tiếp thu nghệ thuật điêu khắc của Hi Lạp cổ đại, hình thành phong cách điêu khắc tượng Phật giáo to lớn mỹ lệ đặc trưng, sau đó mới từ đây xuôi về phương bắc, tiến vào Tây Vực, vươn đến Trung Quốc, phát triển thịnh hành tại phương Đông.
Giới Nhật Vương nói: “Một ngàn năm trước, Càn Đà La vẫn là lãnh thổ của Thiên Trúc ta, nó là cánh cửa trấn giữ vùng phía tây của đất Ngũ Hà, muốn tiến vào Thiên Trúc nhất định phải đi qua Càn Đà La. Một ngàn năm trước, đại đế Á Lịch San Đại[53] (Alexsandros đại đế) của Mã Kỳ Đốn đông chinh đánh chiếm Càn Đà La, đánh tới bờ sông Ấn. Sau đó mặc dù đại đế Á Lịch San Đại lui binh, nhưng Càn Đà La khi ấy đã không còn là đất của Thiên Trúc ta nữa. Người Hi Lạp, người Ba Tư lần lượt thống trị, sau đó lại rơi vào tay đế quốc Quý Sương. Hai trăm năm trước, sau khi người Áp Đạt tiêu diệt đế quốc Quý Sương, chiếm Càn Đà La liền phá chùa diệt Phật, tàn sát tăng lữ, Phật giáo khi ấy đã ở bên bờ tận diệt. Tám mươi năm trước, người Đột Quyết tiêu diệt Áp Đạt, thống trị Càn Đà La tới tân ngày nay. Đại sư, chính vì cánh của phía tây Càn Đà La này vẫn nằm trong tay ngoại tộc, Thiên Trúc mới nhiều lần bị kẻ thù bên ngoài xâm lấn. Giờ đây, sau khi Tát San Ba Tư sụp đổ, Y Tự Hầu đệ tam lại dẫn tàn quân kéo đến Càn Đà La, một khi không khổng chế được cục diện, sợ rằng Thiên Trúc sẽ lại bị ngoại tộc xâm lăng”.
Giới Nhật Vương giảng giải cặn kẽ xong bèn đứng dậy chắp tay thành khẩn vái lạy Huyền Trang: “Đại sư, quốc gia mà ta muốn nhờ ngài ra tay thu phục chính là Càn Đà La!”.
Huyền Trang vội vàng đỡ Giới Nhật Vương đứng lên. Ngài sớm đã đoán được dự định của Giới Nhật Vương, nhưng vẫn còn chút thắc mắc: “Bệ hạ, ngài muốn thu phục Càn Đà La, vì sao không trực tiếp đưa quân qua đó?”.
“Đại sư, ngài có lẽ không biết”, Giới Nhật Vương cười khổ: “Nếu có thể trực tiếp tiến đánh thì mùa đông năm ngoái khi ta thân chinh bình định Bàng Già Phổ đã đưa quân vượt sông dẹp tan đám người Ba Tư đó đi rồi. Nhưng không làm vậy được! Bây giờ Càn Đà La lệ thuộc vào Tây Đột Quyết, quốc vương Thô Hỏa La phái tổng đốc cai quản, chỉ cần ta qua sông, Đột Quyết tất sẽ cho quân đánh xuống phía nam. Cho dù ta không sợ người Đột Quyết, nhưng đừng quên sự tồn tại của Y Tự Hầu đệ tam, hắn nhất định sẽ trợ giúp người Đột Quyết triệt phá quân đội của ta, sau đó thừa thắng vượt qua đất Ngũ Hà. Phiền phức hơn là, cho dù ta có được chư Phật phù hộ, dẹp tan được đám loạn binh Đột Quyết và Y Tự Hầu đệ tam, nhưng sau lưng Y Tự Hầu đệ tam còn có đám người Đại Thực đang rình rập như hổ đói. Cho nên ta không thể nào động binh khai chiến được”.
Huyền Trang nghe vậy mới hiểu được quan hệ chính trị rắc rối phức tạp trong đó, thì ra Càn Đà La bây giờ giống như một miếng mồi béo bở, ai cũng muốn ăn nhưng chưa có ai dám cắn. Nỗi lo của Giới Nhật Vương đương nhiên không cần phải bàn thêm nữa. Người Đại Thực muốn xâu xé, chắc chắn sẽ bị người Đột Quyết với người Thiên Trúc một bắc một đông tập kích theo thế gọng kìm. Thậm chí chủ nhân hiện tại của Càn Đà La là người Đột Quyết cũng không dám mó tay vào, vì chỉ cần Đột Quyết dám cho quân đánh xuống phía nam, phía đông ắt phải đối phó với phòng tuyến của Giới Nhật Vương, khó chịu hơn nữa là đám người Đại Thực ở phía tây cũng sẽ nhân cơ hội đánh úp từ phía sau, chia cắt đại quân Đột Quyết với đại bản doanh của chúng.
Thoải mái nhất chính là Y Tự Hầu đệ tam. Ông ta mang một đám tàn quân tiến vào Càn Đà La, ba cường quốc dè chừng lẫn nhau, ông ta lại như vào chỗ không người. Nhưng e rằng Y Tự Hầu đệ tam cũng là người phải lo lắng nhất, cục diện này tất nhiên không thể duy trì quá lâu, một khi thê cân bằng bị phá vỡ, bất kể bên nào động thủ trước, ông ta cũng sẽ trở thành đối tượng đầu tiên bị tiêu diệt.
“Vậy… bần tăng phải làm thế nào để giúp ngài thu phục Càn Đà La?” vấn đề khiến Huyền Trang thấy khó hiểu nhất chính là đây. Ngài chỉ là một tăng nhân, làm sao có thể thu phục một quốc gia?
Giới Nhật Vương và đại sư Giới Hiền nhìn nhau, rồi cùng cười lớn.
“Đề Bà Nô[54]!”, đại sư Giới Hiền nói: “Đây cũng chính là nguyên nhân ta tới thành Khúc Nữ tìm con. Càn Đà La từng là thánh địa của Phật giáo ta, dân chúng bản địa đa số tin Phật, mặc dù Phật mạch bị cắt đứt hơn hai trăm năm, các loại ngoại đạo hỗn tạp, nhưng trong xác thân của dân chúng bản địa vẫn giữ được Phật tính”.
“Sư phụ, vì sao người lại kết luận như vậy?”, bản thân Huyền Trang không thấy lạc quan khi nghĩ về chuyện này, ngài đã tận mắt chứng kiến sự hỗn loạn ở Càn Đà La.
“Bởi vì người Càn Đà La giỏi điêu khắc, cho đến ngày nay, mặc dù trong vương quốc gần như không có người tin Phật, nhưng bất kể tín ngưỡng của họ là gì, thì nguồn thu nhập quan trọng nhất của bá tánh bình dân nơi ấy vân là buôn bán tượng Phật.” Đại sư Giới Hiền nói: “Lão hòa thượng ta đã sống hơn một trăm tuổi, nhìn thấu nhân tâm thế thái, tuyệt đối không tin có người sống nhờ việc buôn bán tượng Phật mà trong lòng lại không kính sợ Phật. Chỉ có điều chưa có người đến điểm hóa cho họ mà thôi”.
Trong đôi mắt của đại sư Giới Hiền ánh lên hào quang thông tuệ, dường như nhìn thấu vạn vật trên thế gian: “Vì vậy, ý của bệ hạ là muốn ủy thác cho con tới Càn Dà La, hoàng dương Phật pháp, đánh thức Phật tính trong lòng họ, khiến quốc gia này một lần nữa thuận ý quy y, khiến Quốc vương Càn Đà La nguyện ý quy y, để con đường truyền bá Phật giáo về phương Bắc lại được khai thông thêm một lần nữa”.
Giới Nhật Vương nói: “Chỉ cần người Càn Đà La lại tôn thờ Phật giáo, như vậy cũng đồng nghĩa với việc thuận lòng kết minh với Thiên Trúc ta, khi ấy ta sẽ cùng quốc vương Càn Đà La bí mật thỏa hiệp, lập tức phái quân vượt sông, tiến vào Càn Đà La. Như thế, ta sẽ chiếm được thế thượng phong trong thế trận phân tranh của ba cường quốc, biến Càn Đà La thành một pháo đài kiên cố không thể công phá, phong tỏa hoàn toàn cửa ngõ phía tây Thiên Trúc”.
Huyền Trang mặt không biến sắc, bình tĩnh phân tích khả năng này. Dựa vào một tăng nhân thuyết phục một quốc gia tin thờ Phật giáo, nếu ở Trung Nguyên thì đây gần như là chuyện không thể xảy ra, nhưng ở Tây Vực, Trung Á và Thiên Trúc nơi các tiểu quốc san sát, việc hàng trăm tín ngưỡng, tôn giao tranh đua lấy tiếng này lại thường xuyên xảy ra. Thỉnh thoảng lại có cao tăng Phật giáo đến đàm đạo với quốc vương của một quốc gia, sau đó thuận thế khiến quốc vương vui vẻ thay đổi tín ngưỡng. Thậm chí khi Huyền Trang luận kinh tại các phiên quốc thuộc Thiên Trúc cũng đã từng đánh cược với một số giáo dân ngoại đạo, ai thua sẽ phải cải đổi tín ngưỡng, thuận theo đối phương. Đương nhiên Huyền Trang là người thắng.
Huyền Trang suy nghĩ khá lâu, Giới Nhật Vương tỏ ra lo lắng, nhìn sang đại sư Giới Hiền.
Đại sư Giới Hiền nói: “Đề Bà Nô, con thấy thế nào?”.
Huyền Trang lặng lẽ gật đầu: “Đệ tử có thể thử một lần”.
Giới Nhật Vương vô cùng mừng rỡ. Đại sư Giới Hiền lại nói: “Không phải là thử một lần, mà là nếu đã đi thì nhất định phải thành công”.
“Đệ tử…”, Huyền Trang do dự một lát: “..chắc chắn không phụ sứ mệnh”.
Giới Nhật Vương dường như không thể chờ thêm được nữa: “Đại sư, đợi ngài thành công trở về, khi ấy ngài chính là quốc sư của đế quốc Giới Nhật, ta sẽ mời ngài làm lễ quán đỉnh[55] cho ta”.
Lần này đến phiên đại sư Giới Hiền tỏ ra mừng rỡ, bởi vì điều này có nghĩa là Giới Nhật Vương sẽ cải đạo từ Bà La Môn sang tôn thờ Phật giáo. Còn nếu trở thành người làm lễ quán đỉnh cho Giới Nhật Vương đồng nghĩa với việc sau này Huyền Trang sẽ kế thừa y bát của ngài, trở thành lãnh tụ của Phật giáo Đại thừa Thiên Trúc. Ngày trước, Bát Nhã Cúc Đa - người bị Huyền Trang chặn cứng họng khi tranh cãi giáo lý - cũng nhờ vào việc làm lễ quán đỉnh cho ba đời đế vương mới trở thành người thống lĩnh Phật giáo Tiểu thừa.
“Đại sư, ngài đến Càn Đà La cần mang theo bao nhiêu nhân mã?”, Giới Nhật Vương hỏi: “Ta phải dùng lễ đối đãi quốc sư để hộ tống ngài đi”.
“Một mình bần tăng là đủ rồi”, Huyền Trang nói.
°°°
Ba ngày sau khi pháp hội kết thúc, nửa đêm, Huyền Trang dắt một con ngựa trắng rời khỏi thành Khúc Nữ, một mình đi về hướng tây, thẳng hướng về Càn Đà La. Lộ trình từ thành Khúc Nữ đến Càn Đà La dài gần hai ngàn dặm, Huyền Trang cưỡi ngựa đi một tháng thì đến khu vực Bàng Già Phổ ở biên cương phía tây của đế quốc Giới Nhật, chính là đất Ngũ Hà mà người Thiên Trúc thường nhắc tới.
Lúc vượt qua sông Ấn, Huyền Trang cẩn trọng quan sát, lúc này ngài mới hiểu được hệ sông này rốt cuộc có ý nghĩa chiến lược như thế nào đối với người Thiên Trúc. Bờ trái của sông Ấn Độ phân làm tám nhánh, phía bờ bên phải phân làm sáu nhánh, tạo thành một hệ sông khổng lồ, phức tạp. Sở dĩ cái tên đất Ngũ Hà đã ám chỉ bốn nhánh sông trên đồng bằng Bàng Già Phổ cộng thêm nhánh sông cái Ấn Độ, cũng chính là khu vực được bao phủ bởi hệ sông này. Vùng này sông ngòi chằng chịt, cây cối rậm rạp, đất đai màu mỡ, người Thiên Trúc chiếm được nơi này, ngoại tộc muốn xâm lấn đều phải vượt từng con sông, mỗi một con sông đều là một con lạch hiểm hóc do thiên nhiên tôn tạo nên. Càn Đà La lại nằm sát bờ tây của nhánh sông lớn nhất là sông cái Ấn Độ, để mất Càn Đà La, người Thiên Trúc xem như đã đánh mất con lạch tự nhiên lớn nhất, xét về chiến lược xem như đã rơi vào thế bị động. Một khi ngoại tộc vượt qua được đất Ngũ Hà sẽ có thể tiến quân thần tốc, sẽ không còn có nơi hiểm yếu nào giúp quân Thiên Trúc cản phá được nữa.
Huyền Trang vượt qua đất Ngũ Hà tới Càn Đà La. Mười năm trước Huyền Trang từng đi qua nơi đây, vốn đã quen đường tỏ lối, tuy nhiên sau khi qua sông cái Ấn Độ ngài mới phát hiện ra, Càn Đà La nay đã khác xưa hoàn toàn. Những thôn xóm, thành thị ngày xưa, lúc này đã có rất nhiều người Ba Tư tụ tập. Sáu trăm ngàn người Ba Tư phân tán khắp Càn Đà La, phần lớn họ đều mang theo vợ con, cả tộc di cư, tự mình xây dụng thôn xóm ở ngoài các thôn trang, thành trấn của Càn Đà La, cũng bởi vì tranh nước tranh đất mà hai bên thường xuyên xảy ra xô xát với nhau.
Mà mấy trăm ngàn người đột nhiên tràn vào khu vực này, ắt sẽ là nguồn lợi thu hút đám thương nhân từ các vùng lân cận. Rất nhiều thương nhân đổ về Càn Đà La để buôn bán với người Ba Tư, cung cấp nhu yếu phẩm hằng ngày cho họ. Bởi vì tất cả mọi người đều biết, Ba Tư là đế quốc giàu có nhất trên đại lục này, người Ba Tư rất giàu có, mặc dù phải sống lưu vong nơi xứ người nhưng họ vẫn mang theo rất nhiều của cải, nên giờ phải tranh thủ kiếm chác nhân lúc bọn họ còn chưa bị dồn đến bước đường cùng. Có thương nhân buôn bán ắt nảy sinh vấn nạn cướp bóc, trộm cắp, cũng vì thế mà Càn Đà La trở nên hỗn loạn. Quốc vương Càn Đà La cũng mắt nhắm mắt mở cho qua khi đối diện với cảnh tượng hỗn loạn này, phần vì ông ta có thế kiếm được tiền thuế từ các thương nhân, phần vì lượng dân binh của cả Càn Đà La cũng không đông bằng số người Ba Tư lưu vong, dẫu ông ta có muốn khống chế bọn họ cũng không đủ khả năng.
Huyền Trang đi qua một thị trấn, bên đường bày vô số tượng Phật, tượng Bồ Tát, có tượng chỉ nhỏ bằng nắm đấm, lại có tượng to đến hơn mười trượng, còn có cả một đỉnh núi được chạm khắc thành tượng Phật cao chạm màn mây. Ven đường thỉnh thoảng còn thấy người đánh xe chở các tảng đá từ trong núi sâu tới xưởng điêu khắc, các thợ thủ công cầm đục chạm trổ luôn tay. Thương nhân đến từ các nơi đang tranh nhau ngã giá, vận chuyển những bức tượng này đi các nơi khác.
Huyền Trang thấy vậy thì có chút đau lòng, nhưng cũng xem như được an ủi phần nào. Nhìn cảnh bán tượng Phật đổi tiền tài này, ngài thật sự hoang mang.
Huyền Trang đi tới một xưởng làm đá, chắp tay với chủ xưởng: “Xin hỏi…”.
“Có phải ngài muốn xin bố thí không?”, chủ xưởng hỏi.
“Không!”, Huyền Trang nói: “Bần tăng muốn thỉnh một số tượng Phật”.
Chủ xưởng chần chừ: “Thỉnh? Là loại không cần trả tiền sao?”
Huyền Trang nói: “Loại có trả tiền”.
Chủ xưởng cười to: “Hòa thượng cứ việc mang đi”.
Huyền Trang nói: “Bần tăng cần mua khá nhiều, mang đi không nổi”.
Chủ xưởng rất thoải mái: “Mang đi không nổi, vậy ngài dùng xe chở đi cũng được”.
“Cũng tốt!” Huyền Trang gật đầu, chỉ khắp xung quanh: “Bần tăng cần toàn bộ chỗ này”.
Chủ xưởng ngẩn ra: “Ngài… ngài muốn mua cả xưởng của ta sao?”.
“Không phải!” Huyền Trang nói: “Bần tăng nói là, tượng Phật trong xưởng của ngài, của toàn bộ sáu xưởng xung quanh đây, bất kể lớn hay nhỏ, bần tăng đều mua hết”.
Chủ xưởng ngơ ngác nhìn Huyền Trang, còn tưởng hòa thượng này bị điên. Huyền Trang xách một chiếc túi từ trên lưng ngựa xuống, đi đến trước mặt chủ xưởng đổ ra, ba trăm đồng bạc ào ào rơi xuống đất. Đây là số tiền mà Giới Nhật Vương đã ban tặng cho ngài sau đại hội luận kinh. Khi đó Giới Nhật Vương ban tặng ngài một vạn đồng vàng, ba vạn đồng bạc, một trăm bộ tăng y, nhưng Huyền Trang từ chối. Có điều trước khi đi, Giới Nhật Vương lại sai người chất ba trăm đồng bạc lên lưng ngựa cho ngài làm lộ phí.
Đây là lần đầu tiên Huyền Trang sử dụng khoản tiền này, lúc nhìn thấy những đồng bạc này, ngài có chút sửng sốt. Hóa ra số tiền này là đồng bạc của Tát San Ba Tư chứ không phải tiền do đế quốc Giới Nhật tự đúc. Trong các loại tiền tệ thông dụng nhất trên thương lộ Trung Á, tiền vàng là do Bái Chiêm Đình đúc, tiền bạc do Tát San Ba Tư đúc, còn các loại tiền lẻ như xu đồng thì quốc gia nào cũng có. Mà bất kể là tiền vàng Bái Chiêm Đình hay là tiền bạc Ba Tư, thời gian đúc khác nhau, trọng lượng tiền cũng khác nhau rất nhiều, bởi vì cứ mỗi khi một đời quốc vương mới lên ngôi đều sẽ cho đúc ra một loại tiền vàng tiền bạc của riêng mình, nên việc quy đổi khá phiền phức, số bạc này là tiền Khố Tư Lỗ đệ nhị[56] (Khosrow II), nặng đúng bằng Khai Nguyên thông bảo[57]. Mặt trước chạm hình Khố Tư Lỗ đệ nhị nhìn ngang, mặt sau chạm hình tế đàn Bái Hỏa giáo. Khố Tư Lỗ đệ nhị tại vị ba mươi tám năm, quốc lực hùng mạnh, kinh tế phồn vinh, thương mại phát triến, có đến một trăm hai mươi điểm đúc tiền, cho nên loại tiền này được lưu truyền rộng nhất, nhiều nhất.
Qua chuyện Giới Nhật Vương đưa cho ngài tiền Ba Tư, Huyền Trang đã lập tức hiểu ra, nếu đại sự thất bại, Giới Nhật Vương chắc chắn sẽ phủ nhận việc ngài chịu sự ủy thác của Thiên Trúc mà hành sự để tránh làm mất lòng các đại đế quốc. Trong lòng Huyền Trang có chút đắng chát.
“Lão bản, không biết số bạc này có đủ mua tượng Phật của sáu xưởng hay không?”, Huyền Trang hỏi.
“Chắc chắn là không đủ!” Chủ xưởng mất một lúc lâu mới bình tĩnh lại: “Đại sư, ngài mua những tượng Phật này là muốn vận chuyển đến nơi nào? Tượng Phật rất nặng, khoan bàn về giá cả, việc vận chuyển chúng cũng đủ rắc rối rồi”.
“Không xa!”, Huyền Trang chỉ về phía tây: “Bần tăng cần vận chuyển tượng Phật đến vương thành!”.
°°°
Phú Lâu Sa là thương trấn quan trọng, nằm trên trục đường thông thương giữa đế quốc Ba Tư, Thiên Trúc và các quốc gia Trung Á, cũng là một cứ điểm quân sự chính yếu, phía nam thành là vùng cao nguyên, phía tây thành trấn giữ cửa núi Khai Bá Nhĩ[58] (Khyber Pass). Muốn đi từ đế quốc Ba Tư đến Càn Đà La buộc phải vượt qua chỗ này, cả khe núi dài sáu mươi dặm, hai bên là núi cao sừng sững, quanh co uốn lượn, chỗ hẹp nhất chỉ rộng năm mươi thước. Nơi này được xem như sân giao tranh quân sự của quân binh, địa hình dễ thủ khó công. Còn mặt bắc có sông Khách Bố Nhĩ[59] (Kabul) chảy qua, sau khi nhập vào sông Ấn liền chảy về nam, bao quanh hai mặt thành Phú Lâu Sa, trở thành một lạch sông tự nhiên bảo vệ thành trì.
Đang là hoàng hôn, mặt trời lặn xuống sau cao nguyên phía tây thành. Phía đông thành, các khách buôn vội vàng chạy tới xếp hàng ngoài cổng, chờ được vào thành. Đúng lúc này đột nhiên phía đông có bụi cuốn lên mù trời, lính canh cổng kinh ngạc, còn tưởng có quân đội tấn công, bèn vội chạy lên lầu thành thổi kèn lệnh.
Tiếng kèn u u vang vọng toàn thành, quân đội canh giữ vương thành lập tức bị kinh động, tới tấp chạy tới cổng thành phía đông, đến quốc vương Càn Đà La cũng vội vã leo lên thành lầu. Trong thành đại loạn, còn các thương nhân ở ngoài thành thì chen lấn xô đẩy, cố lách được vào trong thành tránh họa.
Khói bụi càng ngày càng gần, quốc vương Càn Đà La chăm chú nhìn ra xa, lập tức kinh ngạc. Phía trên đám bụi đó lại có nhiều đầu Phật to lớn. Bụi bay mù mịt, đầu Phật thoắt ẩn thoắt hiện, cách mặt đất hơn mười trượng, rất nhiều đầu Phật, cứ như chư Phật trên trời đang ung dung đạp bụi mà đến.
Nhìn thấy cảnh tượng lạ thường này, tất cả mọi người đều sững sờ, ngây ra như phỗng, thậm chí các thương nhân đang chen lấn ngoài cổng thành cũng ngẩn ra, quay lại nhìn cảnh này.
Đám bụi càng ngày càng gần, càng ngày càng rõ ràng, lúc này mọi người mới thấy rõ, không ngờ lại là mấy trăm chiếc xe bò chở theo vô số tượng Phật, ngoài ra còn có mấy trăm người vừa đẩy vừa kéo. Tượng Phật đủ kích cỡ, tượng nhỏ chất đầy một xe, tượng lớn thì dựng trên xe bò được chế tạo đặc biệt, do năm sáu con bò kéo đi, tượng Phật được buộc chặt vào xe, cao đến hơn mười trượng.
Còn đi phía trước đội xe lại là một vị tăng nhân dắt ngựa trắng. Tăng y ngũ sắc, ánh mắt bình thản, dẫn theo đội xe đi thẳng đến cổng thành.
Tăng y dắt ngựa trắng, đoàn người và tượng ồ ạt chực đổ vào vương thành.
Quốc vương Càn Đà La nhìn trân trối. Ông ta là người bản địa. Sau khi Tây Đột Quyết tiêu diệt đế quốc Áp Đạt, chiếm lĩnh các vùng Thô Hỏa La, Càn Đà La, ngoài tòa thành lớn Thổ Hỏa La quan trọng nhất được Khả hãn Thống Diệp Hộ[60] phái con trưởng của mình là Đát Độ Thiết cai quản, các tiểu quốc khác nếu quốc vương không có con nối dõi sẽ bổ nhiệm dân bản xứ làm tổng đốc. Quốc vương Càn Đà La kì thực chính là tổng đốc do Tây Đột Quyết cất nhắc lên.
Quốc vương Càn Đà La cau mày: “Đi hỏi xem rốt cuộc là chuyện gì?”.
Lập tức có tướng thủ thành chạy xuống tường thành, ra ngoài cổng thành chặn Huyền Trang và đoàn người lại xét hỏi.
Huyền Trang nói: “Bần tăng là Huyền Trang, tăng nhân Đại Đường, có việc đi qua Càn Đà La, muôn vào thành cư trú mấy ngày”.
“Vậy ngươi mang theo những tượng Phật này làm gì?”, tướng quân đó hỏi.
Huyền Trang hỏi lại: “Vương thành có quy định tăng nhân không được mang theo tượng Phật vào thành không?”.
“Cái này…”, tướng quân cứng họng: “Nhưng… ngươi mang nhiều tượng Phật như thế…”.
Huyền Trang cười: “Đã cho phép mang theo tượng Phật vào thành, lại không hề quy định nhiều hay ít, vậy xem ra bần tăng không hề mạo phạm vương pháp”.
Tướng quân hơi bối rối nhìn về phía quốc vương Càn Đà La đang đứng trên thành. Quốc vương Càn Đà La cũng hiếu được, suy nghĩ một lát liền phất tay, mặt không chút biểu cảm đi xuống dưới thành. Tướng quân thấy vậy mới gật đầu: “Có thể vào thành, có điêu vào thành cần phải nộp thuế”.
“Bần tăng hành tẩu qua nhiều quốc gia, tăng lữ chưa bao giờ cần nộp thuế vào thành”, Huyền Trang nói.
Tướng quân tức giận: “Nhưng ngươi mang theo nhiều tượng Phật như thế…”.
“Xin hỏi tướng quân, Càn Đà La có quy định tăng nhân mang theo nhiều tượng Phật vào thành sẽ phải nộp thuế không?”, Huyền Trang hỏi.
“Cái này…” Tướng quân hoàn toàn bó tay, hắn biết mình cãi lí không lại được vị hòa thượng này, đành chán nản phất tay không để ý đến ngài nữa.
Huyền Trang dắt ngựa trắng đi đầu, đội xe phía sau ầm ầm đi theo. Các thương nhân xung quanh vội vàng tránh ra, chừa ra một lối đi rộng rãi. Đến cổng thành, đám thợ thủ công của xưởng đá chậm rãi ngả tượng Phật nằm xuống mới có thể đi qua cổng thành.
Thành Phú Lâu Sa tây cao đông thấp, hai bên cao, ở giữa thấp, tạo thành một thung lũng bằng phẳng. Vương cung nằm ở triền dốc phía tây bắc, xung quanh là nhà cửa của người dân bản địa, xây dựng như vảy cá trước vương cung. Còn thương nhân từ bên ngoài đến thì phần lớn đều tụ tập ở mạn đông thành, cửa hàng, kỹ viện, phường khu, nhà ở, miếu thần, chùa chiền, nhà trọ, quán rượu, có đủ mọi thứ, phồn hoa mà hỗn loạn.
Còn mạn nam thành lại rất hoang vu. Thời Phật giáo thịnh trị, phía nam thành xây dụng rất nhiều chùa chiền, từng tòa tháp Phật tinh xảo đứng sừng sững trên sườn núi phía nam nhìn xuống toàn thành. Nhưng bây giờ chùa chiền hiu quạnh, tháp Phật đổ sập, chi còn lại từng đống đổ nát tan hoang nằm dưới ánh tịch dương. Quạ đen, cáo, thỏ thoắt ẩn thoắt hiện, cỏ dại dây leo mọc lan tứ phía, ngày xưa huy hoàng thế nào, bây giờ cũng thê lương thế ấy.
Huyền Trang dẫn theo đội xe chở tượng Phật đi thẳng tới vùng đổ nát này. Trên núi này có một ngôi chùa tên là chùa Ca Nị sắc Ca, do quốc vương Ca Nị sắc Ca[61] (Kanishka) của đế quốc Quý Sương xây dựng trong thời kì hưng thịnh nhất của Phật giáo. Trong đó có một tòa tháp Phật cao bốn trăm thước, nền tháp rộng đến một dặm rưỡi, xung quanh có mấy trăm tòa tháp Phật lớn nhỏ. Nhưng lúc này tháp lớn đã đổ, tháp nhỏ đã sụp. Cách tòa tháp khổng lồ không xa còn có hai bức tượng Quan Âm, một đông một tây. Khi đó từng có lời tiên đoán: Quan Âm nhập thổ, Phật mạch đứt đoạn.
Mà lúc này bức tượng Quan Âm ở phía đông đã bị đất bụi chôn lấp đến ngực.
Lời tiên đoán này, điềm báo này khiến Huyền Trang cảm thấy đau lòng. Ngài lặng lẽ đi tới trước tượng Quan Âm, ngỡ ngàng nhìn cảnh tượng hoang tàn đổ nát xung quanh, không cầm được nước mắt quỳ xuống đất khóc: “Ngày Đức Phật thành đạo, ta rốt cuộc lưu lạc ở nơi nào? Vì sao tới giờ mới đến đây!”.
Đám thợ thủ công xung quanh im lặng nhìn, Huyền Trang đứng dậy dặn dò: “Xin dỡ tượng Phật xuống, bài trí xung quanh. Giúp bần tăng quét dọn một gian thạch thất, sau đó các vị có thể ra về ”.
Đám thợ thủ công bắt đầu bận rộn làm việc, mấy trăm người cùng bận bịu, cảnh tượng rất hùng tráng. Trên đường chính trong thành, mọi người cũng đều chú ý, tò mò vì sao tăng nhân này lại mang theo nhiều tượng Phật như thế, ngay cả quốc vương Càn Đà La cũng trèo lên lầu thành vương cung để quan sát. Vừa thấy Huyền Trang bày tượng Phật ra, quốc vương Càn Đà La lập tức biến sắc mặt: “Hòa thượng này sắp gặp phải phiền phức lớn rồi!”.
Tướng quân thủ thành thắc mắc: “Chỉ là một tăng nhân, có thể gây nên chuyện gì?”.
Quốc vương Càn Đà La lắc đầu thở dài: “Lúc này cục diện Càn Đà La ta phức tạp khôn lường, sau khi Y Tự Hầu đệ tam dẫn tàn tộc Ba Tư đến đã dẫn tới cục diện ba cường quốc đuổi hươu[62], người Đại Thực muốn thông qua Y Tự Hầu đệ tam tiến vào Thiên Trúc, Giới Nhật Vương muốn chiếm Càn Đà La ta, còn quốc vương Thổ Hỏa La cũng nhận được mệnh lệnh từ Khả hãn Bạc Bố[63] của Tây Đột Quyết, toan tính hốt gọn sáu trăm ngàn người Ba Tư này, tăng cường sức mạnh của Thổ Hỏa La. Có điều quân đội của Thổ Hỏa La giờ đều đã hành quân đến thành Toái Diệp để giải quyết việc tranh đấu nội bộ của Tây Đột Quyết nên chỉ đành lực bất tòng tâm. Trong thời điểm nhạy cảm như vậy, sự xuất hiện của tăng nhân này hẳn sẽ dẫn đến cục diện hỗn loạn”.
“Nhưng thần vẫn không rõ, một tăng nhân có thể dẫn đến cục diện hỗn loạn như thế nào?”, tướng quân thủ thành hỏi.
“Khanh xem!”, quốc vương Càn Đà La chỉ vào trong thành.
Lúc này trên đường lớn đã tụ tập hàng trăm hàng ngàn người, đang hướng về phía Huyền Trang hò hét, quát tháo. Có một số người giơ đuốc, một số người vẫy những lá phướn có hình vẽ, một số người thì giơ tượng thần. Vô số người hò hét, tụ tập về phía nam thành.
“Hê!”, quốc vương Càn Đà La cười lạnh: “Phật mạch đã sớm đứt đoạn tại Càn Đà La được hai trăm năm, nay tăng nhân này một người một ngựa mang vô số tượng Phật đổ vào thành. Nếu dân chúng không phản ứng dữ dội ta mới cảm thấy lạ. Hừ! Hắn từ phía đông đến, không cần hỏi cũng đoán được là do Giới Nhật Vương giở trò!”.
Bóng đêm bao trùm núi đồi, các thợ thủ công sớm đã ra về. Huyền Trang ngồi một mình trước tháp Phật hoang tàn, dưới chân núi đèn đuốc chập chờn, vô số bóng người giơ đuốc tràn tới, vây quanh Huyền Trang, dễ có đến hai ba ngàn người. Trong ánh đuốc, tất cả mọi người đều mang vẻ mặt dữ tợn, lòng đầy giận dữ, dùng nhiều loại ngôn ngữ lớn tiếng mắng chửi.
“Tên hòa thượng kia!” Một lão giả bước ra, chỉ vào Huyền Trang mà nói: “Phật mạch đã đứt đoạn ở Càn Đà La này được hai trăm năm. Ngươi lại tới vương thành, cố ý làm lớn chuyện như vậy rốt cuộc là có mục đích gì?”.
“Không có ý gì khác, bần tăng chỉ muốn nối lại Phật mạch mà thôi”, Huyền Trang nói.
“Nằm mơ!”, lão giả kia nhổ một bãi nước bọt.
“Có gì không thể?”, Huyền Trang ung dung ngồi ngay ngắn: “Giáo phái nào chẳng vì nghĩ cho chúng sinh, thay trời cao giáo hóa tứ phương, ban phúc lợi cho chúng sinh. Ngài có phải là ngoại lệ?”.
“Đương nhiên là không!” lão giả nói: “Phái của ta xua ma, cầu phúc, bói toán, chiêu hồn, có thể giải tất cả ưu sầu cho chúng sinh”.
“Ngài có thế giải tất cả ưu sầu của chúng sinh là bởi vì chúng sinh có ưu sầu. Vậy ngài có thể khiến chúng sinh không còn ưu sầu không?”, Huyền Trang hỏi.
Lão giả kia nhất thời trợn tròn mắt, vấn đề này không khác nào câu chuyện giữa giáo và khiên[64], dù trả lời thế nào cũng chỉ có thể tự mình nhận thua. Đám người nhất thời yên lặng, mọi người đều ý thức được, vị hòa thượng này không phải người dễ chọc.
Một người Bái Chiêm Đình đi tới: “Ai phân vùng cho mưa rơi? Ai mở đường cho sấm sét chạy? Khiến mưa rơi xuống vùng hoang dã không có người ở, khiến nơi hoang vu cỏ mọc xanh tốt? Mưa có thân sinh không? Giọt sương là ai sinh ra? Băng tuyết do ai thai nghén mà sinh ra? Tuyết trên trời là ai sinh ra?”.
Huyền Trang trầm ngâm một hồi lâu mới thở dài một tiếng: “Sự thần bí của tạo hóa, kẻ phàm tục như ta sao có thể chạm tới được?”. Ngài ngừng lại một chút: “Như lời ngài nói, tạo hóa này chính là thần của các ngài đúng không?”.
“Tất cả vinh quang thuộc về thần”, người Bái Chiêm Đình nói.
“Đã như vậy, bần tăng cũng muốn mời ngài hỏi thần giúp”, Huyền Trang hỏi: “Bần tăng là thứ gì? Bần tăng từ nơi nào đến, lại phải đi đến nơi nào?”.
Vấn đề này muốn trả lời cũng đơn giản, người Bái Chiêm Đình nói: “Ngươi vốn là kẻ phàm tục do thần tạo hóa sinh ra, đến từ vòng tay của thần, trở về vòng tay của thần”.
“Như vậy bần tăng lại muốn hỏi, đã có thể trở về vòng tay của thần, đời này bần tăng đương nhiên phải làm nhiều việc thiện, sùng kính thần linh mới có phúc duyên này đúng không?”, Huyền Trang hỏi.
“Đương nhiên là thế!”, người Bái Chiêm Đình đáp.
Huyền Trang nói: “Đã như vậy, vì sao thần lại đẩy bần tăng ra khỏi vòng tay của thần, đưa vào cõi đời vẩn đục này, chịu đau khổ vô cùng vô tận này?”.
Người Bái Chiêm Đinh cứng họng, giáo phái của hắn vốn không thiên về giải thích luân hồi, nhưng một khi đấu lí, nguồn gốc và đích đến của chúng sinh lại là đề tài nhất định phải đề cập tới. Lúc này một người Ba Tư bước ra: “Ban đầu, hai đại bản nguyên là thiện và ác cùng tồn tại, tu tưởng, ngôn luận, hành động đều phân chia thiện ác. Lúc hai bên đối mặt, tòa điện của sự sống nguy nga hùng tráng đứng ở đầu thiện, còn hang sâu của sự chết chóc âm u đứng ở đầu ác. Khi tận thế đến, người chân thành lương thiện sẽ được hưởng thụ ân điển và sự chói lọi của thần ở cõi trời, kẻ dối trá tà ác sẽ rơi xuống địa ngục tối tăm. Các vị, tăng nhân này không phân biệt rõ thiện và ác, chân thành và giả dối, khi các vị tranh luận với hắn sẽ dễ dàng bị lừa, mù quáng tin theo cái ác”.
“Hết thảy đều phân chia thiện ác? Chỉ phân chia thiện ác?”, Huyền Trang hỏi.
“Đương nhiên, đây là chỉ thị của thần”, người Ba Tư nói.
“Bần tăng học được một câu thần chú, có thể làm mặt đất nứt ra thành vực sâu. Có ngày, bần tăng đang đi trên đường, gặp một đứa trẻ đang ngồi trên lưng một con ngựa điên, nó đang lao vào một đứa trẻ khác”, Huyền Trang chậm rãi: “Thế là bần tăng bèn niệm thần chú, mặt đất nứt ra, con ngựa và đứa trẻ cưỡi trên lưng nó rơi xuống vực sâu, đứa trẻ còn lại bình yên vô sự. Bần tăng xin hỏi, cứu được một người lại giết một người, việc làm của bần tăng là thiện hay là ác?”.
Mọi người đều ngẩn ra, suy ngẫm nên trả lời thế nào.
Huyền Trang lại nói: “Nếu đứa trẻ được cứu là người thân của bần tăng, đứa trẻ rơi xuống vực sâu là người lạ, việc làm của bần tăng là thiện hay ác? Nếu như đứa trẻ rơi xuống vực sâu là người thân của bần tăng, đứa trẻ được cứu là người lạ, việc làm của bần tăng lại là thiện hay ác?”.
Lần này ngay cả người Ba Tư cũng không trả lời được. Mọi người không phục, sau một lát yên lặng lại có người thay đổi đề tài, tiếp tục bắt bẻ Huyền Trang. Đêm đó có ba trăm người, ba trăm câu hỏi, Huyền Trang ngồi ngay ngắn dưới tháp phù đồ, lần lượt bác bỏ, không ai có thể tranh cãi được lâu, thông thường chỉ chừng dăm ba câu đã bị đánh bại. Cả vương thành đều chẩn động, vô số bách tính, thương nhân chạy tới chùa Ca Nị sắc Ca để nghe Huyền Trang khẩu chiến quần đạo.
Trên thành vương cung, quốc vương Càn Đà La đã đứng mấy canh giờ. Ông ta phái tâm phúc đến, nhất nhất bẩm báo nội dung đối đáp giữa Huyền Trang và đám người ngoại đạo, tỉ mỉ đến từng chữ từng câu. Quốc vương Càn Đà La suy ngẫm cặn kẽ, không nhịn được vỗ lan can: “Tăng nhân này thật là lợi hại! Hắn rốt cuộc là người nào, có hỏi thăm được không?”.
Tâm phúc được phái đi nghe ngóng bấm báo: “Thuộc hạ đã đi hỏi thăm đám thợ thủ công chở tượng Phật, chúng nói người này tên là Huyền Trang. Không phải người Thiên Trúc mà là người Đại Đường”.
“Huyền Trang…”, quốc vương Càn Đà La trầm ngâm một lát, sắc mặt lập tức thay đổi: “Tên tiếng Phạn của hắn có phải là Ma Ha Gia Na Đề Bà Nô?”.
“Bệ hạ biết người này?”, tướng quân thủ thành hỏi.
Quốc vương Càn Đà La chậm rãi gật đầu: “Mười năm trước, hắn từng đi qua đây, thương nhân qua lại giữa Thổ Hỏa La và Tây Đột Quyết cực kì tôn sùng hắn, bản vương vốn muốn triệu kiến, nhưng hắn đã vượt sông đi về phía đông. Ba năm trước nghe nói một tăng nhân Đại Đường đã đi khắp Ngũ Thiên Trúc, đến Lang Yết La[65] (Langana) ở phía nam vương quốc ta, trên đường đã dẹp tan vô số ngoại đạo, thanh danh hiến hách, ta phái người mời nhưng lại đến chậm một bước. Mười ngày trước, gián điệp mà ta phái đến thành Khúc Nữ về bẩm báo, nói Giới Nhật Vương triệu tập đại hội luận kinh tại thành Khúc Nữ, một tăng nhân Đại Đường đưa ra lập luận, sau mười tám ngày không có ai dám khai chiến, được tặng tôn hiệu Đại Thừa Thiên, thanh danh chấn động Ngũ Thiên Trúc. Nếu bản vương không đoán sai thì đó chính là người này, Huyền Trang của Đại Đường, Ma Ha Gia Na Đề Bà Nô. Bản vương đã ngưỡng mộ hắn hơn mười năm, không ngờ hôm nay hắn lại xuất hiện trước mặt mình!”.
“Bệ hạ!” tướng quân thủ thành lo lắng: “Vị đại sư Huyền Trang này xem ra đang gặp nguy hiểm rồi!”.
“Tuyệt đối không thể để hắn gặp nguy hiểm!” Quốc vương Càn Đà La quả quyết nói: “Hòa thượng này có sức ảnh hưởng quá lớn, chưa nói Giới Nhật Vương bên kia, mà ngay cả hoàng đế bệ hạ của Đại Đường cũng có quan hệ không tầm thường với người này. Đến khả hãn của Tây Đột Quyết chúng ta bây giờ là Bạc Bố, phụ thân của Bạc Bố, khả hãn đời trước là A Sử Na Nê Thục cũng có mối tương giao rất tốt với Huyền Trang. Thậm chí ngay cả phụ vương của quốc vương Thổ Hỏa La - tiên vương Thản Độ Thiết cũng là hảo hữu chí thân của người này…”.
Đang nói, đột nhiên đám người trước chùa Ca Nị sắc Ca bắt đầu nổi bạo động, vô số người tràn về phía trước, ánh đuốc hoàn toàn nuốt chửng Huyền Trang.
Quốc vương Càn Đà La sốt ruột: “Mau, phái người đi bảo vệ đại sư… Bản vương tự mình đi!”.
°°°
Huyền Trang quả nhiên đã gặp nguy, rất nhiều người bị ngài phản bác, ép đến đuối lí, chẳng ngờ bọn họ lại kích động bách tính xung quanh nhặt đá ném về phía ngài. Vô số hòn đá ập tới, Huyền Trang vẫn ngồi yên bất động, mặc kệ đá đập vào đầu, vào người, vào mặt. Đầy mặt đầy đầu đều là máu tươi, ngài vẫn ngồi ngay ngắn dưới tháp phù đồ, thậm chí ngay cả vẻ mặt cũng không thay đổi, ung dung bình tĩnh nhìn mọi người.
Những người xung quanh giận dữ, không ngừng hét to: “Thiêu chết hắn! Thiêu chết hắn!”.
Một số người ném cây đuốc đang cầm trên tay tới, xung quanh Huyền Trang nhanh chóng bốc lên ngọn lửa hừng hực. Đúng lúc này dưới chân núi vang lên tiếng vó ngựa như sấm rền, quốc vương Càn Đà La dẫn kỵ binh xông lên dốc núi, các kỵ binh vung roi ngựa quất túi bụi xua tan đám người xung quanh, sau đó dùng trường thương gạt cây đuốc đang cháy ra.
Quốc vương Càn Đà La vội vã chạy tới gặp Huyền Trang: “Xin hỏi ngài có phải tăng nhân Đại Đường, đại sư Huyền Trang?”.
“Chính là bần tăng!” Huyền Trang cúi đầu chắp tay, máu trên mặt rơi vào lòng bàn tay.
“Quả thật là Đại Thừa Thiên! Lại phải chịu khổ sở như vậy ở chỗ của bản vương!” Quốc vương Càn Đà La đau lòng không thôi, giận dữ quát lên: “Truyền y sĩ! Truyền y sĩ!”.
Lập tức có kỵ binh chạy vội xuống dưới chân núi, đập cửa một y quán, kéo y sĩ lên lưng ngựa, chạy đến chữa thương cho Huyền Trang, vết thương rất nghiêm trọng, một số vết sâu đến tận xương. Lúc y sĩ kHầu vết thương, Huyền Trang chỉ ngồi yên không động, miệng vẫn tụng kinh, ngay cả bắp thịt cũng không hề rung động, những người xung quanh đều thán phục không thôi.
Đợi xử lí xong vết thương, quốc vương Càn Đà La mới thấp giọng hỏi: “Đại sư, bản vương nghe nói một tháng trước ngài còn luận đạo ở thành Khúc Nữ, vì sao lại đột ngột tới Càn Đà La?”.
Huyền Trang mở mắt ra, cười cười: “Bần tăng đã nói, là tới nối lại Phật mạch”.
Quốc vương Càn Đà La cười gượng: “Đại sư không cần phải vòng vo với bản vương. Hiện nay Càn Đà La nguy hiểm bủa vây tứ phía, người Ba Tư, người Đại Thực, người Đột Quyết, người Thiên Trúc, bốn thế lực lớn đấu đá, tranh giành lẫn nhau, âm mưu ám chiến tầng tầng lớp lớp, đại sư là cao tăng đại đức, cần gì phải lội vào vũng nước đục này?”.
Huyền Trang im lặng thở dài, quay lại nhìn tượng Quan Âm đã bị vùi một nửa dưới đất, buồn bã nói: “Chẳng lẽ bần tăng ngồi xem Quan Âm nhập thổ?”.
Quốc vương Càn Đà La thở dài: “Bản vương là người bản địa, cả đời sống ở Càn Đà La, hai trăm năm trước gia tộc cũng là Phật tử, thập phương thế giới, vạn sự vạn vật đều có hưng suy luân hồi. Ngay cả Đức Phật cũng tiên đoán sẽ có mạt pháp[66], ngài cần gì phải cố chấp?”.
Lần này Huyền Trang suy nghĩ rất lâu, sau đó mới nói: “Bệ hạ có biết, vừa rồi bần tăng ngoài việc đưa ra ba câu hỏi, ‘Bần tăng là vật gì? Bần tăng từ nơi nào đến? Lại phải đi tới nơi nào?’, kỳ thực còn có một vấn đề, đó là ‘bần tăng đi tới thế giới sa bà[67] này để làm gì?’, vấn đề này đến nay vẫn chưa hiểu được. Hôm nay đi tới vương thành này, nhìn thấy Quan Âm nhập thổ, bần tăng bỗng hận chính mình vì sao không sinh ra khi Đức Phật chưa diệt, khi đó rốt cuộc bần tăng lưu lạc nơi nào, vì sao không có phúc duyên này? Nhưng bây giờ bị đánh một trận…”, Huyền Trang chỉ bông băng quấn trắng trên đầu: “Bần tăng đột nhiên tỉnh ngộ, có lẽ bần tăng chính là phải sinh ra ở thời mạt pháp này”.
Quốc vương Càn Đà La cười gượng: “Đại sư, ngài muốn truyền bá Phật pháp, bản vương đương nhiên không có dị nghị, nhưng an nguy của ngài bản vương sợ không bảo vệ nổi! Hay là thế này, đại sư hãy tạm đến vương cung, bản vương sẽ triệu tập những ngoại đạo này tới, nghiêm khắc khuyên răn bọn họ không được làm hại đại sư, đến lúc làm xong chuyện này, đại sư mới quay lại đây?”.
“Nếu là như thế, bần tăng bị đánh trận này thành ra vô ích rồi!”, Huyền Trang cười to: “Mời bệ hạ quay về, sau này bần tăng sẽ ở chùa Ca Nị sắc Ca này, mỗi ngày ra phố cầm bát hóa duyên, nhìn vạn tướng của chúng sinh”.
Quốc vương Càn Đà La vô cùng hoảng sợ: “Như vậy không được! Đại sư, ngài làm vậy là tự tìm đường chết!”.
“Không sao!”, Huyền Trang lại rất ung dung: “Hắn đánh mặc hắn đánh, hắn mắng mặc hắn mắng, bần tăng đánh không lại hắn, lại mắng không được hắn. Đương nhiên vẫn phải mời bệ hạ cân nhắc lại pháp lệnh của Càn Đà La mới được, miệng lưỡi của bần tăng không nhanh hơn lưỡi đao, không muốn hồ đồ bị người ta đâm chết”.
Quốc vương Càn Đà La nhiều lần khuyên bảo Huyền Trang mà không được, đành phải trở lại vương cung, đêm đó liền hạ lệnh: Từ hôm nay Càn Đà La quản nghiêm pháp lệnh, làm bị thương người khác sẽ bị trừng phạt nghiêm khắc, làm chết người sẽ phải đền mạng.
Người trong vương thành đều biết, pháp lệnh này được đưa ra là nhằm giúp Huyền Trang, một số người mặc dù tức giận trong lòng nhưng cũng không muốn mạo hiểm đối phó Huyền Trang mà đắc tội với quốc vương Càn Đà La.
Đêm đó Huyền Trang im lặng ngồi dưới tháp Phật sụp đổ đến tận khi trời sáng.
Hôm sau Huyền Trang lấy bát, đi ra phố lớn của vương thành. Từ buổi trưa hôm qua đến bây giờ, ngài không uống một ngụm nước, không ăn một miếng cơm. Huyền Trang trực tiếp đi đến mạn đông thành phồn hoa nhất, lúc này toàn thành gần như không ai không biết Huyền Trang, thấy tăng nhân này cầm bát hóa duyên ai nấy đều cảm thấy rất ngạc nhiên, cũng rất bội phục sự gan dạ của hòa thượng này, nhưng lại tuyệt không có người bố thí cho ngài một ngụm nước, một hạt gạo. Có một số người nói lời ác độc, có một số người xem như không thấy, Huyền Trang cũng không giận, trên mặt mang vẻ bình thản như mây mờ gió nhẹ, lặng lẽ bước đi.
Từ sáng sớm đến hoàng hôn, không ngờ lại không có lấy một người phóng tay bố thí.
Huyền Trang bình tĩnh quay về chùa Ca Nị sắc Ca, vẫn ngồi dưới tháp Phật sụp đổ, yên lặng nhập định. Đêm đó cả vương thành bàn tán xôn xao, đều đàm luận về tăng nhân này. Huyền Trang lại không hề biết, ngài nhìn lên bầu trời sao của cổ quốc này, ngắm trăng sáng, đón gió mát trong cảnh đổ nát thê lương.
Ngày thứ hai, Huyền Trang đứng dậy, tiếp tục cầm bát hóa duyên. Ánh mắt mọi người trong vương thành nhìn Huyền Trang có phần khác thường. Một số ngoại đạo dường như cảm thấy bị sỉ nhục, triệu tập một đám người đến bao vây Huyền Trang trên phố lớn, ồn ào đòi thiêu sống ngài. Huyền Trang cũng không tranh cãi, trên mặt mang nụ cười bình thản nhìn bọn chúng: “Thí chủ, trước khi thiêu sống bần tăng có thể bố thí một bát cơm chay được không?”.
Đám ngoại đạo này cực kì giận dữ, nhìn hòa thượng này mà không biết làm thế nào cho phải.
Một nam nhân bước ra nói: “Tăng nhân này không lẽ bị đần sao?”.
“Ta cũng thấy thế!”, người khác nói: “Chắc là đêm hôm kia bị ném đá đến hoảng đầu, sinh đần độn rồi”.
“Đấy là sự trừng phạt của thần đối với hắn!”
Mọi người đều hết sức phấn khởi, cảm thấy đây là thiên uy do thần linh của mình giáng xuống. Lúc này một lão giả đẩy bọn họ ra, trầm ngâm đi tới, không ngờ ông ta lại cúi rạp người chào Huyền Trang.
Mọi người ngẩn ra: “Vì sao ngài lại cúi chào hắn?”.
Lão giả đó cười lạnh: “Một đám ngu ngốc, dựa vào các ngươi mà đòi có thể nhìn thấu đạo hạnh của hòa thượng này sao?”.
Ông ta cúi chào Huyền Trang một lần nữa: “Hòa thượng, ngài hãy đi theo ta!”.
Huyền Trang gật đầu, không hỏi gì, chỉ đi theo ông ta. Đi tới một ngã tư phồn hoa nhất, lão giả đó dừng lại, gọi một thanh niên đến dặn dò một tiếng, thanh niên đó gọi mấy người cùng đi. Một lát sau, mấy người dùng ván giường khiêng một nữ nhân đi tới, đặt nằm ở giữa ngã tư.
Người này hiển nhiên đã mắc bệnh nặng, da thịt trên người lở loét, bụng căng tròn, vành môi dập nát, lộ ra chân răng trắng ởn, chỉ còn thở thoi thóp. Người xung quanh thấy lạ lập tức vây quanh trong ngoài.
Lão giả đó nói: “Hòa thượng, Phật gia các ngài có thể giải ba tai sáu nạn, có thể tiêu tội lỗi kiếp trước kiếp này, có thể giải được tất cả phiền muộn trên nhân gian. Nữ nhân này bị ma quỷ quấn thân, bệnh đã ăn sâu vào xương tủy, cứu một mạng người còn hơn xây phù đồ bảy tầng, hòa thượng, xin ngài tận lực vận dụng khả năng của Phật gia cứu lấy người này!”.
Những người xung quanh đều phấn khích hò reo ầm ĩ.
“Đúng vậy! Bọn ta phải xem thủ đoạn của Phật gia! Bình thường các ngươi chỉ ba hoa chích choè, có biết bao nhiêu là thần Phật, nếu có thể cứu được nữ nhân này bọn ta mới tin!”.
“Hòa thượng, nếu ngươi có thể cứu người này, ta sẵn sàng quy y! Nếu không cứu được, ngươi hãy cút khỏi Càn Đà La!”.
Huyền Trang sửng sốt. Ngài nhìn nữ nhân đang nằm dưới đất, yên lặng rất lâu, cuối cùng lắc đầu: “Bần tăng không thể cứu được”.
“Hừ!” Lão giả đó nhổ nước bọt vào ngài, quay ra đám đông xung quanh: “Xem đi, đây chính là chân tướng của hòa thượng này! Bây giờ các ngươi tin chưa? Hắn chính là dựa vào khả năng uốn ba tấc lưỡi để lừa gạt chúng sinh, chứ không hề biết một chút thần pháp nào. Hắn chính là một kẻ lừa đảo!”.
Những người xung quanh cười ồ, lập tức có người xô đẩy Huyền Trang, trắng trợn trêu chọc.
“Hôm nay ta sẽ biểu diễn thần tích thật sự!” lão giả đó lớn tiếng tuyên bố: “Ta phải xua đuổi ma quỷ trong cơ thể người này, làm cho người này bách bệnh toàn tiêu, bình phục như thường!”.
Lão giả đó lập tức đốt một que hương, miệng lẩm bẩm, không ngừng đi quanh nữ nhân nọ, cầm que hương khua múa xung quanh người này. Sau đó lại nhét một cục thuốc cao đen sì vào miệng người đó, tiếng thần chú càng thêm dồn dập, cuối cùng chỉ người đó mà quát lớn: “Ta nhân danh thần linh, ra lệnh cho ngươi rời khỏi thân thể này trở về địa ngục!”.
Thân thể nữ nhân kia vặn vẹo thành những tư thế kỳ lạ, sau đó rít lên, tiếng hét thê lương, cuối cùng phun ra một ngụm máu đen. Ngụm máu đen này khi gặp gió liền hóa thành khói đen bay đi mất. Người này sau đó nằm vật xuống đất không hề nhúc nhích.
Mọi người nhìn mà cực kỳ kinh hãi, hết sức kính sợ. Một lát sau, những vết lở loét trên mặt nữ nhân đó bắt đầu bình phục với tốc độ mắt thường thấy được, cái bụng căng tròn cũng bắt đầu xẹp xuống. Trong tiếng thán phục của mọi người, nữ nhân đó chậm rãi mở mắt ra.
“Tại sao… ta lại ở trên phố lớn này?”, nữ nhân đó ngơ ngác nhìn xung quanh.
Mọi người lập tức vỗ tay, không ngừng hò reo.
Lão giả đó cười ha hả, nhìn Huyền Trang đầy khiêu khích: “Hòa thượng, thế nào?”.
Huyền Trang bình tĩnh chắp tay: “Thụ giáo!”.
Trong tiếng cười nhạo và chửi rủa của những người xung quanh, Huyền Trang cầm bình bát bình tĩnh rời đi. Ngài tiếp tục đi trên phố hóa duyên, nhưng sự huy hoàng khi đánh tan ba trăm ngoại đạo hai ngày trước đã hoàn toàn bị dập tắt bởi sự thất bại ngài nhận được hôm nay, người trong vương thành không còn có một chút kính sợ nào đối với ngài, càng không có người phóng tay bố thí.
Thấy trời đã tối, Huyền Trang lê thân hình uể oải trở lại chùa Ca Nị sắc Ca. Hai ngày hai đêm không ăn không uống, ngài thật sự sắp không chống đỡ được nữa, môi khô nứt, thân thể yếu ớt, trước mắt không ngừng hoa lên.
Ngài lê bước trở lại dưới tháp, ngồi bệt xuống đất, trong người không còn chút sức lực nào. Huyền Trang khoanh chân ngồi xếp bằng, nhìn khói lửa nhân gian dưới chân núi, nhìn vũ trụ trời sao trên đỉnh đầu, tiến nhập thiền định sâu lắng.
Không biết trải qua bao lâu, ngoài chùa hoang vang lên tiếng bước chân, dường như có người đi tới bên cạnh Huyền Trang. Ngài mở mắt ra liền thấy một bóng người cao lớn đứng trước mặt, hông đeo đao cong.
“Thí chủ đến giết bần tăng sao?”, Huyền Trang hỏi.
Người đó không nói, chi lấy trong bọc đeo sau lưng ra một chiếc bánh đặt trên tảng đá trước mặt, lại lấy ra một túi nước đưa cho Huyền Trang. Huyền Trang nhận lấy.
“Đại sư, ta là một tên cướp”, người kia nói: “Cướp tiền hại mạng, giết người vô số”.
Huyền Trang quan sát hắn: “Vậy vì sao thí chủ phải bố thí cho ta?”.
Tên cướp đó nói: “Trong lòng có sợ hãi, hi vọng có thể được bình tĩnh”.
Huyền Trang gật đầu: “Thí chủ biết vì sao bần tăng không nhận cơm chay bố thí của quốc vương Càn Đà La không?”.
Tên cướp đó lắc đầu.
“Dù cơm hay nước, đều đến từ chúng sinh. Có thể được bố thí, đó là Phật duyên” Huyền Trang nói: “Trong lòng thí chủ có sợ hãi, trong lòng bần tăng có từ bi. Cho nên nước và đồ ăn của thí chủ, bần tăng xin nhận”.
Huyền Trang nói xong liền cầm lấy túi nước uống một ngụm, lại cầm lấy chiếc bánh bắt đầu ăn.
Tên cướp đó nhìn ngài: “Đại sư, thường nghe người ta nói, buông dao đồ tể, lập tức thành Phật. Có phải là sự thật không?”.
“Thí chủ nghĩ sao?”, Huyền Trang hỏi lại.
“Nếu chỉ cần buông dao đồ tể, kẻ ác như ta liền có thể thành Phật, vậy người tốt tu hành cả đời vì sao lại khó mà thành Phật?”, tên cướp hỏi.
Huyền Trang cười: “Người tốt tu hành mấy đời cũng khó mà thành Phật, nhưng chúng sinh đều có Phật tính. Sau khi thí chủ buông dao đồ tể không phải sẽ thành Phật mà sẽ hình thành Phật tính trong người, sau đó có thể được an bình, tự tại”.
Tên cướp yên lặng một hồi lâu, cúi chào cảm ơn, không nói một lời liền bỏ đi mất.
Hôm sau Huyền Trang tiếp tục cầm bát hóa duyên, ngài đi trên đường với vẻ mặt bình thản, thái độ đối với những người xung quanh không ngờ vẫn không có gì khác hai ngày trước. Nhưng cả ngày vẫn không xin được một hạt cơm nào. Thấy mặt trời đã sắp lặn, Huyền Trang chuẩn bị lê bước về, đột nhiên trong đám người có một mỹ nữ đeo mạng che mặt bằng lụa mỏng tiến tới, bên cạnh còn có một tì nữ dung mạo xuất chúng đi theo.
Nữ tử đó đi tới trước mặt Huyền Trang: “Đại sư, ta có thể bố thí ngài không?”.
“Đa tạ”, Huyền Trang chắp tay.
Nữ tử đó lấy mấy trái cây từ quầy hàng xung quanh bỏ vào bình bát của ngài, lúc Huyền Trang cảm ơn, người đó cười khẽ: “Đại sư, ta vốn là một kỹ nữ”.
Huyền Trang cười nói: “Phật Đà có thế độ hóa Ma Đăng Già Nữ[68], bần tăng vì sao không thể nhận bố thí của thí chủ?”.
Kỹ nữ đó sững sờ một lát, cười nhẹ: “Đại sư, ta còn muốn bố thí một thứ, không biết đại sư có dám nhận hay không?”.
“Thứ gì?”, Huyền Trang cười.
Kỹ nữ đó uyển chuyển xoay người giở áo bào, để lộ ra thân thê mềm mại ẩn hiện dưới làn lụa mỏng: “Đó là thân thể này của ta. Nếu đại sư sẵn lòng nhận, đêm nay hãy cùng ta đến Hương Biến Quốc”.
N