← Quay lại trang sách

Chương 3 Cố nhân từ gò Bạch Lộc đến

Hôm đó Huyền Trang đang chuẩn bị rời chùa đi hóa duyên, đột nhiên lại nghe thấy có tiếng kèn lệnh từ cổng thành phía đông vọng tới. Huyền Trang từ trên cao nhìn xuống, thấy trên đường bên trong cổng đông có một đội ngũ thanh thế to lớn đang đi vào trong thành. Đi đầu là mười sáu con voi lớn, trên lưng mỗi con voi lớn đều có hai thiếu nữ ngồi, mỗi người mang một lẵng hoa, rải hoa tươi dọc theo phố. Theo sau đó là một con voi trắng, trên lưng voi trắng có một chiếc bành lớn khảm vàng ngọc minh Châu, bên trên có một lão tăng ngồi khoanh chân. Sau lưng lão tăng là mười sáu con tuấn mã, kỵ sĩ trên lưng ngựa đều ăn mặc kiểu tịnh nhân. Mặc dù là tịnh nhân nhưng người nào cũng mặc quần áo sang trọng, hiển nhiên gia thế không tầm thường.

Cả đội ngũ đi trên phố dài, giống như những vì sao ôm lấy mặt trăng, bảo vệ xung quanh lão tăng trên con voi trắng.

Tất cả mọi người trên phố đều bị kinh động bu tới quan sát, không ai biết lai lịch của đám người này.

Trong đám đông có rất nhiều thương nhân, những thương nhân này đều trợn mắt nhìn kinh ngạc không thôi.

“Ngươi xem những chiếc vòng trên ngà voi đó kìa, đều làm bằng vàng đấy! Ngay cả cánh tay và cổ chân những thiếu nữ đó cũng đều đeo đai vàng và ngọc quý!”.

“Cái đó đã là gì, ngươi xem tấm thảm phủ trên đầu con voi trắng kìa, đó là thảm lông cừu thượng hạng, bên trên trang trí đá mắt mèo, ngọc lục bảo… Vì sao viên minh Châu đó lại to đến thế?”.

Trong tiếng bàn tán của mọi người, đám người này không hề dừng lại, tiếp tục đi thẳng về phía tây. Mọi người đều cho rằng bọn họ phải đến vương cung yết kiến quốc vương Càn Đà La, tuy nhiên đến chùa Ca Nị sắc Ca dưới chân núi, đội ngũ bỗng dừng lại. Từ trên lưng voi, mười sáu thiếu nữ đi xuống, từ trên lưng ngựa cũng có mười sáu tịnh nhân nhảy xuống, lần lượt cúi người khom lưng, những người cuối cùng thì quỳ rạp xuống đất tạo thành một cây cầu người. Lão tăng đi chân trần giẫm trên cầu người ung dung đi xuống, từng bước một đi đến trước chùa Ca Nị sắc Ca.

Huyền Trang cầm bình bát đứng trước cửa chùa hoang phế, lão tăng đó nhàn nhã đi tới, bước lên bậc thang. Hai người nhìn nhau, chậm rãi tới gần. Lão tăng đi tới gần Huyền Trang, chắp tay thi lễ: “Ra mắt Đại Thừa Thiên!”.

Huyền Trang đáp lễ, lại không nói gì.

Lão tăng cũng không nói gì nữa, chậm rãi đi lại giữa những tòa tháp hoang tàn, vẻ mặt cảm khái. Đến trước hai bức tượng Quan Âm, ông ta dừng chân, lẩm bẩm nói: “Quan Âm nhập thổ, Phật mạch đứt đoạn sao? Giờ đây đất bụi đã chôn đến ngang hông, Đại Thừa Thiên, ngài cho rằng khi nào tượng Quan Âm sẽ hoàn toàn nhập thổ?”.

“Nếu ngài và bần tăng mở rộng bồ đề, có thể đến kiếp sau” Huyền Trang nói: “Nếu cố chấp theo mạt pháp, sợ rằng ngày mai đã có thể nhập thổ”.

Lão tăng đó cười lớn, quay người lại: “Đại Thừa Thiên, ngài biết ta là ai không?”.

“Có từng nghe nói!”, Huyền Trang đáp.

“Nói thử xem”, lão tăng ngồi xuống trên tảng đá đối diện với ngài.

“Bần tăng nghe nói trên núi Đại Tuyết có một vương quốc tên là Bà La Già. Ở đó có một ngôi chùa vô danh. Trong chùa có một vị tăng nhân, tên là Sa Bà Mị. Sa Bà Mị này tự xưng mình đã hai trăm tuổi, sinh vào thời đại Cưu Ma La Cấp Đa đệ nhất[70] (Kumara Gupta I) hai trăm năm trước. Ông ta nhiều năm sống trong núi, hàng chục năm không xuất thế, một khi xuất thế luôn lấy voi trắng làm thú cưỡi, đi trước có thiếu nữ thanh xuân, đi sau có tịnh nhân Bà La Môn.”

“Còn gì nữa?”, lão tăng mỉm cười.

Huyền Trang nghiêm túc đáp: “Ông ta am hiểu chú thuật Đà La Ni, tinh tượng, bói toán, phép Hộ Ma[71], pháp cúng dường Mạn Đà La, bắt ấn quyết, quán đỉnh, bùa chú, song tu. Ở giữa tăng và tục, người ngoài coi là tiên nhân”.

“Nói không sai. Ta chính là Sa Bà Mị!”, Sa Bà Mị cảm khái: “Trên thực tế, ta xuất thân từ chùa Na Lan Đà. Lúc một trăm tuổi, bởi vì không hợp với quan niệm Bồ Tát hộ pháp của đại sư Giới Hiền nên rời khỏi Na Lan Đà. Nhưng đến nay tăng khế vẫn còn, hằng năm phụng dưỡng đều cung phụng đầy đủ”.

Huyền Trang yên lặng, chuyện này ngài thật sự không biết. Chùa Na Lan Đà vẫn cấm kị nhắc tới người này.

“Nhìn thấy ta, vì sao Đại Thừa Thiên lại có ý đề phòng?”, Sa Bà Mị hỏi.

Huyền Trang nói lạnh nhạt: “Đạo bất đồng, đường bất đồng. Bần tăng tu là chánh pháp, còn ngài tu là mạt pháp”.

Sa Bà Mị cười to: “Giống như cách nói của đám người Giới Hiền, ta đã nghe nhiều rồi. Nhưng mà Đại Thừa Thiên, chánh hay mạt là chuyện phân tranh nội bộ của Phật gia ta, suy cho cùng thì vẫn là Phật pháp”.

Huyền Trang hơi ngỡ ngàng, một hồi lâu mới chậm rãi gật đầu, lại thở dài xa xăm.

“Tốt rồi!”, Sa Bà Mị vỗ tay: “Vậy thì lão hòa thượng đi chuyến này cũng không uổng công vô ích”.

Huyền Trang trầm ngâm: “Là ai mời ngài đến? Chùa Na Lan Đà hay là Giới Nhật Vương?”.

Sa Bà Mị cười lớn, nói: “Đại Thừa Thiên này, ngài tuệ nhãn thông thiên, nhìn thấu vạn vật như vậy, ngay cả ta cũng kinh hãi, sao lại bị đám ngoại đạo kia ép uổng được? Thực không giấu ngài, là Giới Nhật Vương đích thân đến núi Đại Tuyết mời ta tới giúp ngài một tay. Bởi vì Giới Nhật Vương biết rất rõ, ngài tu chánh pháp Như Lai, có thế làm cho người đời thấu tỉnh đại ngộ, thành tựu vô thượng bồ đề, nhưng lại không thể hô phong hoán vũ, triệu thần khu quỷ, hiệu lệnh vạn vật sinh linh, làm cho chúng sinh kính sợ, khuất phục, quỳ lạy. Đây chính là sự khác nhau giữa pháp và thuật. Thứ mà lão hòa thượng ta am hiểu lại chính là loại pháp này. Để kìm hãm thành Càn Đà La hỗn loạn bạo ngược này phải cần đến loại pháp của ta”.

Huyền Trang khẽ thở dài: “Ngài biết nguyên nhân vì sao bần tăng đi tới vương thành mấy ngày nay, mặc dù đi một bước cũng gian nan nhưng lại không tìm gặp quốc vương Càn Đà La không?”.

Sa Bà Mị lắc đầu: “Lão hòa thượng đã ở ngoài thành quan sát ngài mấy ngày, nói thật là ta không hiểu. Với tài ăn nói của đại sư, hơn nữa tổ tiên của quốc vương Càn Đà La cũng là Phật tử tín ngưỡng Phật giáo, e rằng chỉ ba ngày hai đêm đã có thể thuyết phục ông ta quy y. Vì sao ngài lại tình nguyện để đám ngu dân đó lăng nhục mà không chịu độ hóa quốc vương Càn Đà La trước?”.

Huyền Trang nhìn tượng Quan Âm nhập thổ, thản nhiên nói: “Đế vương hộ pháp, Phật pháp ta hưng thịnh. Đế vương diệt pháp, Phật pháp ta suy vi. Ngàn năm qua Phật pháp ta vẫn không tránh được luân hồi này, đó là vì sao? Bởi vì từ đầu đến giờ, Phật pháp truyền bá đều dựa vào cường quyền của đế vương, thịnh suy tùy theo tâm tình của đế vương, nếu Phật tính được trồng vào trong lòng chúng sinh, bám rễ trong linh hồn, cho dù vương quyền đè ép thế nào cũng không thế bị phai mờ. Cho nên bần tăng muốn trồng mầm Phật pháp này vào trong lòng dân Càn Đà La”.

Sa Bà Mị không khỏi bội phục, lại cười cười lắc đầu không nói gì.

“Nếu ngài dùng phép thuật làm kinh sợ, cứ cho là thành công nhất thời, vậy khi dân chúng nhìn thấy thần tích kinh người hơn, họ hẳn sẽ lại đi theo người khác. Phật Đà có pháp lực vô thượng, ngài đã thấy Phật Đà thi triển pháp lực được mấy lần? Chính là vì lí lẽ này!” Huyền Trang nói: “Ngày hôm trước trên ngã tư đường, lão giả đó dùng quỷ thuật cứu nữ nhân sắp chết kia khiến Huyền Trang rất cảm khái, cũng vì vậy mà càng thêm tin tưởng lí lẽ đó”.

Sa Bà Mị cười nói: “Đại Thừa Thiên, nói đến chuyện đó, hôm ấy ta ở ngoài thành, cũng rất chú ý đến việc này. Triệu chứng của nữ nhân đó, ngài cho rằng hình thành thế nào?”.

“Bụng căng tròn là vì người đó ăn đồ gây đầy hơi, tích tụ lại trong bụng”, Huyền Trang nói.

“Không sai!” Sa Bà Mị trầm ngâm: “Làm cho bụng căng lên, ta có mười sáu phương pháp, chín phương pháp trong đó là dùng một số dị trùng, không hề hiếm thấy”.

“Còn thân thể vặn vẹo lại càng đơn giản, người đó trúng độc Đế Dã Già, Đế Dã Già còn gọi là anh túc, nhựa của nó có thể làm thành dạng cao, có thế trị bách bệnh, cũng có thể làm người ta bị nghiện. Một khi không được dùng nữa, cơn nghiện sẽ phát tác, thân thể vặn vẹo thành hình thù kì quái”, Huyền Trang giải thích: “Thứ thuốc cao màu đen mà lão giả đó cho người kia ăn chính là cao Đế Dã Già”.

Sa Bà Mị gật đầu: “Khi đó ta nghe đám tịnh nhân kể lại đại khái cũng phán đoán như thế. Vậy còn toàn thân lở loét? Lão hòa thượng không có mặt tại đó, không thế tận mắt nhìn thấy”.

“Việc này thì khá hiếm thấy, là chứng đồng vàng. Đồng vàng tính lành, nhưng có một số người thể chất đặc thù, sau khi tiếp xúc với đồng vàng, trên da sẽ nổi các nốt ban, vài ngày sau là khỏi. Nhưng nếu cứ tiếp tục tiếp xúc, không đến nửa ngày nốt ban sẽ lở loét, sau đó khó thở, ngạt thở mà chết. Bần tăng đã từng nhìn thấy.

Sa Bà Mị trở nên nghiêm túc: “Chứng bệnh này lão hòa thượng đã nghe nói nhưng lại chưa từng thấy. Một trăm năm trước, lão hòa thượng phái người đi tìm khắp nơi, nhưng người có thể chất đặc thù này, trong mười vạn người chưa chắc đã có một nên vẫn chưa thể tìm ra. Đại Thừa Thiên, ngài đã nhìn thấu thủ đoạn của lão giả đó, vì sao lại không phá phép thuật của hắn mà vẫn chịu đựng nhục nhã?”.

“Bởi vì…”, Huyền Trang dừng lại một lát: “Môi của người đó bị dập nát. Để đối phó bần tăng, chẳng những bọn chúng đã buộc người này tiếp xúc với đồng vàng, ăn đồ gây đầy hơi chướng bụng, làm cho người đó nghiện độc Đế Dã Già, còn đập nát môi người đó. Nếu bần tăng vạch trần thủ đoạn của lão giả kia, chỉ sợ nàng ta sẽ phải chịu hành hạ thê thảm hơn”.

“Ngươi…”, Sa Bà Mị tức giận: “Bảo thủ!”.

Huyền Trang lại rất bình tĩnh: “Mọi người đều nhìn ra điểm này, quả thực là như vậy. Nhưng đây lại chính là Phật trong lòng bần tăng”.

Sa Bà Mị nhìn ngài, lắc đầu không thôi: “Đại Thừa Thiên, lão hòa thượng không cần biết ngài làm thế nào, hôm nay đã đến đây, ngài và ta sẽ phải làm cho toàn bộ vương quốc Càn Đà La này quy y. Từ thế tục mà nói, để Giới Nhật Vương giành được bờ tây sông, từ giáo ta mà nói, để mở ra lối đi lên bắc cho Phật pháp. Hơn nữa phải hoàn thành nhanh nhất có thể. Vì vậy trước khi tới gặp ngài, lão hòa thượng đã phái hai tịnh nhân đi gặp quốc vương Càn Đà La, để ông ta triệu tập đám ngoại đạo trong vương quốc tới quyết đấu ba trận với ngài và ta. Nếu thua, hai người chúng ta sẽ chém đầu tạ lỗi, nếu thắng, ngoại đạo hoặc là quy y Phật pháp ta, hoặc là rời khỏi Càn Đà La”.

“Quyết đấu ba trận?”. Huyền Trang ngẩn ra: “Quyết đấu gì?”.

Sa Bà Mị cười nhạt: “Tùy bọn chúng đưa ra. Chẳng phải ngài nói ta là mạt pháp sao? Vậy ngài và ta một chính một mạt, một nội một ngoại, một pháp một thuật, xem thế gian này người nào có thể phá được?”.

Huyền Trang suy nghĩ một lát: “Vì sao quốc vương Càn Đà La phải nghe lời ngài dựng lên chuyện phiền toái này?”.

“Bởi vì…”, Sa Bà Mị nói: “Trong số tịnh nhân đi theo ta, có hai người từng là quốc vương”.

Huyền Trang thật sự không đối phó lại lão hòa thượng này, lẩm bẩm nói: “Ngài đề xuất quyết đấu, thua thì bần tăng và ngài rơi đầu…”.

°°°

Lúc này quốc vương Càn Đà La cũng đang phiền muộn hệt như Huyền Trang. Hai người từng là quốc vương tới thăm, nói ra yêu cầu của Sa Bà Mị. Quốc vương Càn Đà La vô cùng đau đầu, nhưng Càn Đà La và hai quốc gia này đều có bang giao, cũng không tiện từ chối, thế nên ông ta đành triệu tập đám dị giáo ngoại đạo trong vương thành đến thương nghị.

Quốc vương Càn Đà La nói với mọi người, có quyết đấu hay không, quyền lựa chọn giao cho bọn chúng. Đám ngoại đạo này nghe vậy lập tức ồn ào thề quyết đấu một trận với các hòa thượng này. Thực ra bọn chúng cũng không thể không ra mặt thách đấu, việc quyết đấu giữa các giáo phái căn bản không thể từ chối, đối phương đưa ra khiêu chiến mà mình lại không dám nhận thì sẽ mất tín đồ ngay. Mà những người này bây giờ cũng đã nghe nói đến danh tiếng Đại Thừa Thiên của Huyền Trang, nếu có thể chém đầu Đại Thừa Thiên, tầm ảnh hưởng sau này nhất định sẽ lan xa tới các quốc gia khác. Quốc vương Càn Đà La cũng chẳng muốn can ngăn, bèn quyết định ngày mai sẽ lập đàn quyết đấu trước cửa vương cung.

Mọi người không nói một lời, vội vã ra về làm công tác chuẩn bị.

Chỉ sau thời gian ngắn, chuyện quyết đấu đã chấn động toàn thành. Tất cả mọi người đều phấn khích, đồng thời có một số thớt ngựa chạy ra khỏi vương thành tới các nơi truyền tin. Một trong số đó chạy đến một tòa thành ở phía nam Càn Đà La, cách vương thành trăm dặm.

Tòa thành này xây dựa vào núi, dễ thủ khó công, lại đã bị vứt bỏ cả trăm năm. Tuy nhiên từ mùa thu năm ngoái, vô số người Ba Tư trèo đèo lội suối mà tới, sửa chữa lại tòa thành này, một lần nữa xây dựng nên cứ điểm thành đồng vách sắt. Trên núi xung quanh lại dựng thêm các thiết bị mang tính phòng ngự như tháp tên, vọng canh, xe bắn đá, cần đập. Xung quanh tòa thành lại xây dựng quân doanh, từng đội quân Ba Tư vào trú trong quân doanh, bảo vệ xung quanh tòa thành này. Quân đội lên tới mấy vạn người, còn nhiều gấp mấy lần so với quân đội của Càn Đà La. Trên đường xung quanh xe cộ cung ứng nhu yếu phẩm hằng ngày cho đại quân qua lại không ngớt.

Bởi vì Y Tự Hầu đệ tam ở bên trong tòa thành này, cả cung đình Tát San Ba Tư lưu vong cũng đều ở chỗ này.

Kỵ sĩ chạy đến cổng thành, cầu treo trên thành hạ xuống, kỵ sĩ thúc ngựa đi vào. Trong tòa thành không mấy rộng lớn này tụ tập rất nhiều hoàng tộc, thầy tế, quý tộc và thần dân Ba Tư lưu vong, vô cùng chật chội.

Kỵ sĩ khai báo tên, lập tức có người dẫn hắn đi tới hành cung, đó là tòa cung điện ở chỗ cao nhất trong tòa thành.

Y Tự Hầu đệ tam đang cùng đại ma cát, tướng quân Phi Lỗ Tán và con nuôi là A La Hám nghị sự. Y Tự Hầu đệ tam hai mươi mốt tuổi lên ngôi, năm nay mới ba mươi mốt tuổi, dung mạo tuấn tú, phong thái sang trọng, nhưng từ sau khi đế quốc sụp đổ, cả người tiều tụy, việc liên tục chạy trốn vạn dặm khiến ông ta chưa già đã yếu, mái tóc nâu đã có nhiều sợi bạc, thân thể gầy yếu, vẻ mặt mệt mỏi.

“Bệ hạ cứ yên tâm, lòng người Hồ La San hướng tới đế quốc, tuyệt đối không có khả năng dễ dàng bị người Đại Thực chinh phục.” Tướng quân Phi Lỗ Tán đang báo cáo: “Trong vòng hai năm, người Đại Thực khó mà khống chế toàn bộ Hồ La San, sẽ không tấn công Càn Đà La quy mô lớn. Vì vậy chúng ta còn có thời gian, có thể hoạch định tỉ mỉ kế hoạch tấn công đất Ngũ Hà”.

“Không, ta phải tiến vào đất Ngũ Hà nhanh nhất có thể!” Y Tự Hầu đệ tam trở nên kích động: “Đối với người Đại Thực, vĩnh viễn không được dùng tư duy của các khanh để phán xét chúng. Bởi vì trong mấy năm chạy trốn, các đại thần chưa một lần đoán đúng. Ta có dự cảm người Đại Thực sắp đến rồi, ta cần gấp rút qua sông, nhất định phải cướp lấy Bàng Già Phổ, cho người Ba Tư một vùng đất để sinh sôi”.

“Bệ hạ, giờ đây cục diện Càn Đà La quá phức tạp, chúng ta nhất định không thể đi đầu, phá vỡ sự cân bằng này?”, đại ma cát cũng khuyên nhủ.

Y Tự Hầu đệ tam cười thê lương: “Đại ma cát, lúc đầu ta còn ấu trĩ, người Đại Thực phái sứ giả đến gặp, yêu cầu ta ban cho bọn chúng một mảnh đất. Ta đùa cợt bọn chúng, sai người cho bọn chúng một túi đất to. Bây giờ nghĩ lại, chẳng lẽ đây không phải sự trừng phạt của thần Mã Tư Đạt đối với ta hay sao? Là ta đã tự tay dâng đất đai quê hương cho người khác, phá hoại quốc vận của Ba Tư nên mới rơi vào hoàn cảnh này. Cho nên ta thề đời này nhất định phải đánh qua sông Ấn, cho người Ba Tư một mảnh đất!”.

Trong cung điện nhất thời yên lặng, đúng lúc này kỵ sĩ đi vào, báo cáo Y Tự Hầu đệ tam về vụ quyết đấu ở vương thành. Mọi người đều ngây người.

Y Tự Hầu đệ tam không tin tưởng lắm: “Đại ma cát, chuyện quyết đấu này có thể giữ lời không?”.

Đại ma cát gật đầu: “Nếu là ở Ba Tư chúng ta, đương nhiên sẽ không vì một cuộc quyết đấu tầm thường mà cả vương quốc nguyện ý thay đổi tín ngưỡng, nhưng ở phương Đông nơi các tiểu quốc mọc san sát này quả thật có chuyện như thế”.

Y Tự Hầu đệ tam sáng mắt lên: “Nếu là như vậy, sau khi chúng ta thắng chẳng phải có thể thống nhất Càn Đà La hay sao? Đại ma cát, mau đáp ứng bọn chúng, nhất định phải thắng bọn chúng!”.

Đại ma cát cau mày, hỏi kỵ sĩ về tình hình của Huyền Trang và Sa Bà Mị. Kỵ sĩ chỉ biết Huyền Trang khẩu chiến ba trăm ngoại đạo không hề thua trận, lại không biết gì về Sa Bà Mị.

Y Tự Hầu đệ tam nghe vậy hít sâu một hơi: “Gã Huyền Trang này giỏi như vậy, Càn Đà La có người nào là đối thủ của hắn?”.

Đại ma cát cười nói: “Bệ hạ cứ yên tâm, mấy ngày trước thần đã nhận được tin tức liên quan tới Huyền Trang. Người này quả thực lợi hại, có điều chắc hẳn là loại người tinh thông Phật pháp, học vấn uyên bác, như là một nhà thông thái mà đế quốc Ba Tư chúng ta thường gọi mà thôi. Còn một số thuật pháp tà đạo hắn lại không am hiểu, nếu không đã không thất bại thảm hại ở giữa ngã tư đường. Ngày mai thần sẽ đích thân chạy tới vương thành, nhất định đánh cho hòa thượng này nhận thua, giành lấy thắng lợi”.

Y Tự Hầu đệ tam mùng rõ: “Làm phiền đại ma cát rồi, ta chờ tin thắng lợi của khanh!”.

Đại ma cát cũng cần đi chuẩn bị liền xin phép cáo lui. Y Tự Hầu đệ tam đột nhiên nhớ tới một việc, vội vàng gọi ông ta lại: “Đại ma cát, gã Huyền Trang này là tăng nhân đế quốc Đại Đường, lại có mối giao hảo với hoàng đế Đại Đường, nhất định phải giữ lại tính mạng cho hắn”.

Đại ma cát ngẩn ra: “Người thua phải chết, đây là điều kiện quyết đấu. Quyết đấu với Huyền Trang không phải là một mình thần, làm sao có thể để lại đường sống?”.

Y Tự Hầu đệ tam khẩn cầu: “Đại ma cát, nếu không thể tiến vào Thiên Trúc, người Ba Tư chúng ta sẽ chỉ còn lại một hi vọng cuối cùng là đế quốc Đại Đường’”.

Đại ma cát khó xử suy nghĩ một hồi lâu, cuối cùng lặng lẽ gật đầu.

°°°

Vương thành Càn Đà La, quảng trường trước vương cung.

Trên quảng trường đã dựng một đài cao, ở giữa là vương tọa, quốc vương Càn Đà La ngồi ngay ngắn trên đó. Bên trái có hai chiếc ghế là chỗ ngồi của Huyền Trang và Sa Bà Mị. Bên phải có sáu chiếc ghế, là chỗ ngồi của sáu lãnh tụ các giáo phái ngoại đạo, trong đó có đại ma cát. Dưới đài cao đã có cả biển người, gần như tất cả mọi người trong vương thành đều chạy tới xem, thậm chí trong vòng trăm dặm xung quanh cũng có vô số người tìm đến vương thành đế chứng kiến cuộc quyết đấu hiếm thấy giữa các giáo phái này.

Quốc vương Càn Đà La đích thân chủ trì đại cuộc: “Mấy ngày trước, đại sư Huyền Trang đến vương thành, muốn nối lại Phật mạch, lại bị người khác phản đối. Tín ngưỡng dân gian bản vương không can thiệp, nhưng việc này đã gây nên sóng gió rất lớn, bản vương không thể không đứng ra điều giải. Hôm qua đại sư Huyền Trang và đại sư Sa Bà Mị đề xuất với bản vương, muốn dùng phương thức quyết đấu để khiêu chiến các giáo phái ngoại đạo, nếu thua chịu chém đầu tạ lỗi, nếu thắng, các ngoại đạo rút ra khỏi Càn Đà La. Bản vương đích thân triệu tập thống lãnh đại đức của các đạo giáo đến thương nghị, tất cả đều đồng ý quyết đấu. Quy tắc quyết đấu là hai bên biểu diễn thần tích hoặc giáo luận của mình ba lần để đối phương phá giải, bên phá giải nhiều nhất sẽ chiến thắng”.

Bởi vì ngoại đạo là bên bị khiêu chiến, quốc vương Càn Đà La lệnh bọn chúng xuất chiêu trước, hỏi muốn trình bày luận đề hay là biểu diễn thần tích. Sáu người đều sợ Huyền Trang, đều không biết Sa Bà Mị, nên nhao nhao biểu thị muốn biểu diễn thần tích. Quốc vương Càn Đà La biết rõ về Sa Bà Mị, đành phải cười gượng, không can thiệp nữa.

Một lão giả người Tây Đột Quyết đi ra trước tiên. Người này vóc dáng vạm vỡ, trong tay cầm một cành phướn, ngạo mạn đứng chính giữa đài cao.

“Lão phu Ma Ha Mạt! Nói cho hai vị biết, đấu phép với lão phu là phải sẵn sàng mất mạng”, Ma Ha Mạt nói. Bách tính bên dưới hô to tên ông ta, vô cùng cuồng nhiệt.

Sa Bà Mị cười nói: “Không sao, đằng nào nếu thua ta cũng phải chém đầu đưa cho ngươi”.

“Rất tốt. Dùng đầu của Đại Thừa Thiên chế thành đồ uống rượu, chắc hẳn rượu ngon càng thêm say lòng người.”

Ma Ha Mạt cười ha ha, đột nhiên vung cành phướn giữa trời quang nắng gắt, miệng lẩm bẩm đọc, người xoay tròn trên đài cao. Trong lúc ông ta xoay tròn, bên trên đài cao không ngờ lại từ từ ngưng tụ thành từng dam khói. Khói càng ngày càng đậm đặc, cuối cùng biến thành một đám mây đen như mực bao trùm cả đài cao. Mọi người ở trên đài cao đều biến sắc mặt, cảm thấy nhiệt độ đột nhiên hạ thấp, xung quanh mây khói bao phủ, cách rất gần mà không nhìn thấy bóng người. Xung quanh người dường như có gió lốc, trong gió có hồn ma bay lượn, phát ra tiếng kêu thảm thiết thê lương vọng thẳng vào màng nhĩ.

Còn mọi người ở bên ngoài nhìn vào, tình hình lại càng kinh người. Bên trong mây đen tối tăm, bên ngoài lại là trời quang nắng gắt. Đám mây đen đó như là một núi bông màu đen bao phủ đài cao, trong mây đen thỉnh thoảng còn có bóng người bóng quỷ quay cuồng, phát ra tiếng cười âm trầm và tiếng khóc thê lương, sắc mặt tất cả mọi người đều trắng bệch, hai chân run rẩy, một số người nhát gan lập tức quỳ xuống, khấu đầu cầu khấn.

Trong mây đen, Ma Ha Mạt cười ha hả, vẫy cành phướn hô to: “U hồn ác quỷ, nghe ta hiệu lệnh! Câu hồn Huyền Trang và Sa Bà Mị xuống địa ngục, vĩnh viễn không siêu sinh!”.

Lúc này người xem có thể nhìn thấy bằng mắt thường, trong mây đen dường như có vô số hồn ma lao về phía Huyền Trang và Sa Bà Mị đối diện. Huyền Trang bình tĩnh nhìn, vẻ mặt ung dung. Sa Bà Mị mỉm cười nhìn ngài một cái: “Đại Thừa Thiên, ngài không cảm thấy sợ hãi sao?”.

“Kinh Kim Cang có nói, nếu Bồ Tát còn có một trong bốn tướng: ngã, nhân, chúng sanh, thọ giả thì đó không phải Bồ Tát”, Huyền Trang bình thản nói: “Bần tăng không phải Bồ Tát, chuyện quỷ mị này cũng không nằm trong bốn tướng, có gì phải sợ hãi. Từ hư không mà đến, lại quay về hư không, tất cả tướng đều là hư ảo”.

Sa Bà Mị cười to, hoàn toàn không để ý tới hồn ma sắp lao tới người mình, chỉ mải trao đổi với Huyền Trang: “Lão hòa thượng nhìn người hai trăm năm, chưa từng thấy người nào có thiền tâm vững vàng như Đại Thừa Thiên. Đã không dọa được ngài, vậy thì thứ huyễn thuật tầm thường này… Tan đi!”.

Cùng với lời cuối cùng của Sa Bà Mị, trong mây đen dường như vang lên một tiếng sét đinh tai nhức óc, đám hồn ma cả kinh tứ tán, ngay cả mây đen cũng bắt đầu tiêu tan. Trên mặt Sa Bà Mị hiện ra nụ cười tàn nhẫn: “Cứ thế mà biến mất sao? Đi…”.

Sa Bà Mị búng ngón tay, đám ma quỷ đó đột nhiên lao về phía Ma Ha Mạt, sau đó biến mất hết trên người ông ta. Thân thể Ma Ha Mạt bất động. Ông ta bó cành phướn xuống, hai tay bóp chặt cổ họng mình, dường như muốn kêu lên nhưng lại không kêu ra tiếng. Thân hình cao lớn ngã xuống đất không ngừng quay cuồng, bóp chặt cổ họng mình, không ngờ lại tự bóp nát cổ họng. Ngay sau đó trong cơ thể ông ta vang lên tiếng sàn sạt, một lát sau da thịt trên người nhanh chóng tiêu biến, dường như bị thứ gì đó ăn mất, chỉ còn lại xương trắng và nội tạng đầm đìa máu tươi!

Lúc này mây đen đã biến mất gần hết, trời đất trở lại bình thường. Thi thể của Ma Ha Mạt ngã xuống rìa đài cao, cả quảng trường chìm vào yên tĩnh. Trong tĩnh lặng, thi thể đó khẽ động một chút, mọi người hét lên kinh hãi, thi thể rơi xuống khỏi đài cao, rơi xuống quảng trường.

Ngày đầu tiên đấu phép mang đến chấn động cực lớn cho mọi người, ai cũng không còn lòng dạ nào tiếp tục thi đấu. Quốc vương Càn Đà La tuyên bố hôm sau sẽ tiếp tục tổ chức. Sau khi thu lại thi thể Ma Ha Mạt, đám người tản đi.

°°°

Huyền Trang trở lại chùa Ca Nị Sắc Ca, Sa Bà Mị cũng đi theo.

Huyền Trang không hề nể mặt: “Ngài hằng ngày ăn ở xa hoa, vì sao không đến vương cung ở mà lại đến đây?”.

“Hòa thượng đương nhiên phải ở chùa”, Sa Bà Mị cười nói: “Chùa dù đổ nát, lão hòa thượng cũng có thể làm cho nó rực rỡ trở lại”.

Nói rồi sai các thiếu nữ quét dọn một gian thạch thất.

Việc quét dọn của Sa Bà MỊ không phải là quét dọn đơn giản, đám thiếu nữ xinh đẹp kia trước hết dùng nước rửa sạch một gian thạch thất, sau đó dùng phân bò trát một lượt, dưới đất trải thảm lông cừu dày, bốn vách tường phủ thảm treo tường sang trọng, trên thảm treo tường có rất nhiều minh Châu mĩ ngọc, sau đó lại trải thảm lông cừu bên ngoài phòng, mang đồ ăn thức uống lên.

Sa Bà Mị mời Huyền Trang dùng cơm, Huyền Trang cũng không từ chối, ngồi một bên im lặng ăn các loại mĩ thực không gọi được tên, uống nước mía.

“Đại Thừa Thiên, ngài đang trách ta sao?”, Sa Bà Mị hỏi.

Huyền Trang thở dài nói: “Đã có thể phá phép thuật của hắn, cần gì phải lấy tính mạng hắn”.

Sa Bà Mị trầm ngâm một lát: “Đại Thừa Thiên, ngài có biết vì sao Phật pháp lại suy yếu không? Tạm không nói Càn Đà La này, đó là bởi vì quốc vương diệt Phật. Nhưng cho dù ở Thiên Trúc, Phật giáo cũng đã từ từ suy yếu. Một số vương quốc, Phật giáo và ngoại đạo cùng tồn tại, một số vương quốc, Phật giáo đã suy tàn rồi biến mất. Đó là vì sao?”.

“Bần tăng vẫn luôn suy nghĩ vấn đề này, còn chưa có đáp án”, Huyền Trang đáp.

“Là bởi vì Phật pháp ta theo đuổi vô thượng bồ đề, minh tâm kiến tính, thành tựu niết bàn. Như Đại Thừa Thiên ngài, Phật pháp cao thâm, chính biến tri, chính biến giác, chứng ngộ được trí tuệ, chân chính mà lại viên mãn, tất cả pháp không gì không biết, không gì không hiểu”, Sa Bà Mị nói: “Đại Thừa Thiên, ngài có thế độ người thành Phật, có thể giải được ách nạn không? Đối với bách tính bình thường mà nói, thành Phật thành đạo, chứng được bồ đề quá mức xa xôi, ngược lại, bọn họ sẽ gặp phải đủ loại ách nạn gian truân trong thế tục, sinh lão bệnh tử, bát khổ lục dục. Bọn họ ốm đau, muốn cầu xin ngài, ngài có thể giải quyết không? Bọn họ tưởng nhớ người thân đã chết, đến cầu xin ngài, ngài có thế giải quyết không? Bọn họ bị ác quỳ nhập vào, tới cầu xin ngài, ngài có thể giải quyết không? Bọn họ trên đầu có vết thương, lòng bàn chân ngứa ngáy, méo mồm lác mắt, cả người tanh hôi, ngài có thể giải quyết không? Không thể! Ngài không thể, nhưng những ngoại đạo khác lại có thể! Đại Thừa Thiên, ngài nói xem dân chúng sẽ lựa chọn ai?”.

“Nói như ngài là tà kiến”, Huyền Trang lạnh lùng nói: “Bốn chân lý của Đức Phật (Tứ diệu đế), khổ, tập, diệt, đạo[72], chính là nói với chúng sinh pháp môn vĩnh hằng làm thế nào thoát khỏi bát khổ[73]. Loại pháp thuật giải trừ ách nạn nhất thời này chính là mạt pháp”.

“Giới Hiền hộ pháp Bồ Tát cũng giống như quan điểm của ngài!” Sa Bà Mị không hề phật lòng: “Nhưng hòa thượng ta có thể giải quyết ách nạn trước mắt của chúng sinh, làm cho bọn họ tin Phật, có thể làm cho bọn họ sợ hãi trong lòng, quỳ lạy Phật. Hòa thượng ta có thể làm cho dân chúng Ngũ Thiên Trúc thấy vô số thần tích, cuồng nhiệt đi theo Phật. Khi các ngoại đạo khác dùng phương thức này thu hút chúng sinh, ngài còn máy móc bám lấy chân kinh không chịu buông ra, cuối cùng chỉ có thể luân lạc đến…”.

Ông ta chỉ chỉ bức tượng Quan Âm: “Cảnh tượng thê lương Quan Âm nhập thổ”.

Huyền Trang lắc đầu, nói: “Tứ diệu đế của Đức Phật, mười hai nhân duyên, thế gian chánh pháp, không gì phá nổi. Nhưng loại tiểu thuật này của ngài, một khi bị người tinh mắt nhìn thấu thì sẽ sụp đổ hoàn toàn”.

“Tiểu thuật?” Sa Bà Mị tức giận: “Phép của lão hòa thượng sao lại là tiểu thuật? Ngài hãy nói xem!”.

“Chẳng qua chỉ là thuật che mắt mà thôi” Huyền Trang nói: “Hồn ma trong mây đen của Ma Ha Mạt đó chỉ là một đám phi trùng nhỏ, chúng vỗ cánh nghe như tiếng của hồn ma. Hắn phun ra đám mây đen đó chẳng qua chỉ là để che giấu đàn phi trùng này. Hắn muốn dùng phi trùng giết ngài…”.

“Giết cả ngài và ta!”, lão hòa thượng nhắc nhở.

“Đúng…” Huyền Trang nói: “Giết ngài và ta. Kết quả là ngài phóng ra một loại thuốc, thứ này ngài đã nghiên cứu nhiều năm, bần tăng cũng không rõ, ngài bắn lên trên người hắn làm cho phi trùng cắn trả, chui vào trong cơ thể hắn, gặm nhấm thịt hắn. Bần tăng không tinh thông việc nuôi dưỡng trùng cổ, nhưng cũng có thế đoán ra được, sau khi phi trùng ăn hết máu thịt sẽ chui vào trong nội tạng đẻ trứng, cho nên sau đó ngài mới nói với quốc vương Càn Đà La phải thiêu hủy xác chết đó. Còn nữa, tiếng sấm sét vang lên khi ngài vừa nói dứt lời, bần tăng có cần giải thích cho ngài nghe không?”.

“Không cần!”, Sa Bà Mị tức tối. Ông ta không đổi sắc mặt, thực ra lại nghe mà lạnh toát cả người. Ánh mắt hòa thượng này quá mức sắc bén, tri thức quá mức uyên bác, vạn sự vạn vật trên thế gian không hề có gì qua được mắt người này. Mặc dù người này trói gà không chặt, lại khiến Sa Bà Mị có cảm giác như không gì có thể lay động được hắn.

Hai người đang tranh cãi, đột nhiên có một tịnh nhân đi tới: “Bái kiến hai vị đại sư, dưới chân núi có một người cầu kiến Đại Thừa Thiên”.

Huyền Trang dặn tịnh nhân dẫn người đó tới, không ngờ lại là một lão giả xa lạ. Lão giả này hiển nhiên cũng được chứng kiến chuyện ban ngày, rất kính sợ Sa Bà Mị, căn bản không dám nhìn ông ta, chỉ cúi chào trước mặt Huyền Trang.

“Đại sư, tôi đến đưa tin giùm người khác. Có một vị cố nhân mời ngài đến bờ sông cách cổng đông thành mười dặm gặp mặt.”

“Cố nhân của bần tăng?”, Huyền’Tràng kinh ngạc: “Người đó có nói tên không?”.

“Không nói”, lão giả đáp.

Huyền Trang trầm ngâm một lát: “Được, bần tăng sẽ đi gặp người đó”.

Nói xong lập tức đứng dậy, đi ra ngoài thành.

°°°

Cách thành mười dặm có một đường cái rộng rãi, thương nhân qua lại tấp nập. Bên cạnh là một con sông nhỏ, bên bờ sông có một cánh rừng hồ dương rậm rạp. Huyền Trang đứng chờ dưới gốc một cây hồ dương. Lúc này đã gần hoàng hôn, người đi đường đều vội vàng, có người chăn nuôi xua đàn gia súc trở về, ngâm nga một bài ca dao cổ. Ánh nắng chiều rực rỡ chiếu sáng rực bầu trời bên trên thành Càn Đà La.

Lúc này bỗng có tiếng lục lạc vang lên, từ bờ bên kia sông nhỏ, một thiếu niên mười sáu mười bảy tuổi cưỡi một con lạc đà lội sông đi sang. Thiếu niên đó dường như là thương nhân người Túc Đặc, mặc trường bào tơ tằm, đeo dây lưng, chân đi ủng, cưỡi trên lung lạc đà thổi sáo.

Huyền Trang thoáng nhìn rồi không để ý nữa. Thiếu niên đó cưỡi lạc đà đi qua bên cạnh ngài, đột nhiên thở dài một tiếng, nói: “Tam sinh thạch thượng cựu tinh hồn. Thưởng nguyệt, ngâm phong mạc yếu luận. Tàm quý tình nhân viễn tương phỏng. Thử thân tuy dị, tánh trường tồn”. (Tạm dịch nghĩa: Hồn xưa gửi lại nơi đá Tam sinh ấy. Xin đừng bàn chuyện ngắm trăng, thơ phú, luận đàm làm chi. Lòng ta lấy làm hổ thẹn khi để bạn tốt phải lặn lội từ xa tới thăm. Thân xác ta có đổi nhưng bản tánh Phật nơi ta thì còn mãi.)

Không ngờ lại là một bài thơ thất ngôn, thơ Hán!

Huyền Trang đột nhiên kinh hãi, ánh mắt lấp lánh nhìn thiếu niên: “Thí chủ… Ý trong bài thơ này, thí chủ và ta lại là người quen biết cũ?”.

Thiếu niên đó lấy một ít trái cây từ trên lưng lạc đà xuống, cầm trong tay đi tới chỗ Huyền Trang, mắt dường như ngấn lệ, lại cười: “Thân tiền thân hậu sự mang mang. Dục thoại nhân duyên khủng đoạn trường. Hà lạc sơn xuyên du dĩ biến. Khước hồi yên trạo bá nguyên thượng”. (Tạm dịch nghĩa: Chuyện kiếp trước kiếp sau nói nghe sao mà mê mang, mù mịt. Muốn nói hết chuyện nhân duyên nhưng e bạn lại thấy đau buồn. Thử đi tìm khắp chốn, qua núi này sông nọ. Cuối cùng lại khua mái chèo quay về chốn cũ tìm Phật tánh.)

Thiếu niên đó nhìn Huyền Trang, nói nhỏ: “Sư huynh, nhiều năm không gặp”.

Thiền tâm vững như bàn thạch của Huyền Trang bỗng chốc vỡ tan thành từng mảnh, toàn thân ngài run rẩy, nhìn thiếu niên đó chằm chằm, cố gắng tìm lại hình dáng khi xưa. Ngài lảo đảo đi tới, muốn đưa tay sờ khuôn mặt thiếu niên đó, có điều còn chưa chạm đến đã không cầm được nước mắt.

“Viên Quán!” Huyền Trang lẩm bẩm nói: “Là ngươi sao?”.

“Sư huynh, ta đã nói, chỉ cần đời này ta còn có thể nhớ được tình hữu nghị giữa ta và sư huynh, mười sáu năm sau, chúng ta sẽ gặp lại trong loạn thế mạt pháp.” Thiếu niên đó ôm Huyền Trang, vừa khóc vừa cười: “Không ngờ vận mệnh lại động lòng người như thế!”.

Huyền Trang vuốt khuôn mặt hắn, nước mắt chảy trên mặt, cười: “Viên Quán, năm nay ngươi mười sáu tuổi rồi sao?”.

“Theo cách tính tuổi của người Túc Đặc thì đã mười bảy tuổi rồi!” Thiếu niên đó khóc: “Sư huynh, đời này ta đã không còn tên là Viên Quán, tên ta là A La Na Thuận. Sư huynh cứ gọi ta là Na Thuận là được”.

“Năm Trinh Quán thứ ba, trước khi bần tăng rời khỏi Đại Đường lên đường Tây du từng đến Sùng Hiền phường tìm ngươi, nhưng nhà ngươi đã chuyến đi mất rồi”, Huyền Trang lau nước mắt trên mặt hắn: “Mấy năm nay sống vẫn ổn chứ?”.

Na Thuận nói: “Từ năm Trinh Quán nguyên niên nhà ta đã chuyển đi rồi. Người Túc Đặc di chuyển trên Con đường Tơ lụa, không có chỗ định cư. Tất cả trẻ con Túc Đặc, từ sáu tuổi đã phải đi cùng với đội buôn. Mười năm nay ta lặn lội khắp nơi, kiếm tiền mưu sinh, chuyện kiếp trước phần lớn đã lãng quên, chỉ nhớ rõ lời hứa hẹn với sư huynh năm đó. Giờ đây sư huynh vang danh Ngũ Thiên Trúc, tôn hiệu Đại Thừa Thiên. Ta nghe thấy, cũng vui vẻ thay sư huynh”.

Hai người ngồi xuống dưới gốc hồ dương bên bờ sông, Na Thuận trải thảm ra, bày trái cây, hai người ngồi đối diện nhau. Nói đến kiếp trước, nói đến đời này, lúc vui vẻ hưng phấn cười to, khi bi thương nhìn nhau nức nở.

Na Thuận thở dài: “Không biết trên gò Bạch Lộc, phần mộ của ta có còn không?”.

“Hẳn là vẫn còn”, Huyền Trang nói: “Ngươi đã nói, vài chục năm sau, có lẽ bần tăng cũng sẽ táng trên gò Bạch Lộc đó, ngươi còn sẽ dùng trái cây và tiếng đàn chào đón”.

“Đáng tiếc, đường của chúng ta đã bất đồng”, Na Thuận nói: “Sư huynh nhất định đời này có thể tu đến tịnh thổ Di Lặc, còn ta vẫn phải quay vòng trong luân hồi này. Sự huyền bí của luân hồi này, biết rõ hãm sâu trong đó cũng khó mà bỏ qua được! Sư huynh và ta vốn đã khác đường, vốn không nên nối lại duyên phận kiếp trước, nhưng kiếp này ta lại đụng đến một duyên pháp, dây dưa trong đó, bi thương phiền muộn, cầu xin sư huynh giúp ta!”.

Huyền Trang gật đầu: “Ngươi cứ nói xem”.

“Từ khi ta có ký ức, trí nhớ kiếp trước đã từ từ mờ nhạt, có lẽ tiếp tục như vậy sẽ triệt để phai mờ, chỉ nhớ được đời này”, Na Thuận kể: “Nhưng không biết vì sao, từ khi ta lên ba tuổi, trước mắt lại đột nhiên xuất hiện hình dáng một nữ tử. Ta không biết nàng là ai, không biết vì sao nàng lại xuất hiện trong trí nhớ của ta, trong cuộc đời này của ta. Cùng với tuổi tác tăng lên, ta càng ngày càng si mê nữ tử này, nhưng ta lại không biết nàng ở đâu. Vì vậy ta hành tẩu trên Con đường Tơ lụa, đi khắp cả trăm quốc gia, ta đi qua Đại Đường, đi qua Tây Vực, đi qua Ba Tư, đi qua Thiên Trúc, thậm chí đến tận Bái Chiêm Đình, điên cuồng tìm nàng. Đến tận mười ba năm sau, cũng chính là năm nay, cuối cùng ta mới tìm được nàng”.

“Quả thật có người đó sao?”, Huyền Trang kinh hãi.

“Đúng vậy!”, Na Thuận nói: “Giống hệt trong trí nhớ của ta”.

Lúc này màn đêm đã buông xuống, trăng chiếu trên sông Ấn. Huyền Trang từng tìm tòi nghiên cứu về cái tên “Ấn Độ”, dịch ý có nghĩa là “ánh trăng”. Ý là chúng sinh sống chết luân hồi, vĩnh viễn không ngừng, dường như đêm dài đằng đẵng vĩnh viễn không có tận cùng, vĩnh viễn không có bình minh, lúc này chỉ có Ấn Độ tựa như trăng sáng xuất hiện, soi đường chỉ lối cho chúng sinh.

Tuy nhiên trong đêm dài bên sông Ấn, dưới ánh trăng sáng, Huyền Trang lại cảm thấy ớn lạnh, trong lòng sợ hãi. Vận mệnh và luân hồi không ngờ lại kì lạ như thế!

“Mùa xuân năm nay ta đi tới vương thành Càn Đà La, tình cờ lúc đi giữa biển người mênh mông, quay đầu nhìn lại, bất giác lại trông thấy nàng. Thời khắc đó dường như nghiệp hỏa kiếp trước đã đốt sạch ta, sấm sét Phạm Thiên nổ vang trong lòng ta, chi nhìn một cái, ta đã không thể kìm lòng mà yêu người đó!” Trong mắt Na Thuận ánh lên sự dịu dàng: “Sư huynh, mười mấy năm truy tìm, nói là tìm một bóng hình nữ nhân, thực ra là ta đang tìm kiếm vận mệnh và chân tướng của chính mình. Nhưng trong nháy mắt đó, ta đã yêu nàng, cũng yêu luôn vận mệnh. Sau đó ta đi theo nàng giữa biển người, ta muốn biết nàng là ai, vì sao từ khi ta có trí nhớ, nàng đã tồn tại trong cuộc đời này của ta. Sư huynh, khi ấy ta theo đến trước một kỹ viện, nàng là một kỹ nữ”.

Huyền Trang yên lặng, không biết nên khuyên giải hắn thế nào.

“Ta hỏi thăm những người xung quanh, nhờ thế mới biết tên nàng là Liên Hoa Dạ, là kỹ nữ xinh đẹp nhất, cũng là kỹ nữ có giá cao nhất Càn Đà La, thậm chí cả Thiên Trúc và Tây Vực. Qua đêm một lần cần năm trăm đồng tiền vàng.” Na Thuận vỗ vỗ lạc đà, vẻ mặt đắng chát: “Con lạc đà này giá trị mười hai đồng tiền vàng, nàng tiếp đãi một người khách cần bốn mươi hai con lạc đà. Tiền cả đội buôn của ta cũng không đủ. Nhưng, sư huynh, ta thật sự đã yêu nàng, mỗi một lần nhìn thấy nàng, từng thớ thịt của ta, linh hồn của ta, thậm chí mỗi một sợi tóc của ta đều reo hò, đều ca ngợi, đều si mê. Ta đã thề phải có được nàng, nhưng lại không biết nên làm thế nào thế là ta bôn ba khắp nơi, dùng thời gian hai tháng bán đi tất cả hàng hóa trong đội buôn, lại đến Tát Mã Nhĩ Hãn[74] (Samarkand) tìm gia tộc mượn tiền, cuối cùng cũng gom góp đủ năm trăm đồng tiền vàng”.

Na Thuận mở chiếc túi trên lưng lạc đà cho Huyền Trang xem, bên trong ánh vàng chói mắt, tràn đầy một túi to tiền vàng Ba Tư. Na Thuận thở dài: “Ta trở lại vương thành, muốn cùng nàng qua một đêm, nhưng lại không biết nên nói gì. Đúng lúc đó ta nhìn thấy sư huynh ở vương thành. Sư huynh, xin người hãy giúp ta”.

Huyền Trang buồn bã: “Ngươi bảo bần tăng phải giúp ngươi thế nào?”.

“Ta muốn biết vì sao ta lại yêu nàng”, Na Thuận nói: “Ta muốn biết kiếp trước kiếp này của ta và nàng rốt cuộc có túc duyên gì, ta muốn biết đời này kiếp này của ta và nàng rốt cuộc cần trải qua vận mệnh như thế nào!”.

Ánh trăng chiếu xuống mặt sông, rừng hồ dương và dãy núi. Na Thuận chất một đống lửa bên cạnh, ánh lửa hắt vào gương mặt hắn. Trên gương mặt trẻ trung hiện đầy bi thương, hoang mang và lưu luyến si mê. Huyền Trang đột nhiên ngẩn người. Dưới ánh trăng, bên đống lửa, chuyện đời này và kiếp trước, Huyền Trang nhìn khuôn mặt xa lạ trước mắt, nhất thời cảm thấy chuyện này giống như một giấc mơ lớn vô biên.

“Được!”, Huyền Trang nói: “Bần tăng đồng ý giúp ngươi”.

[*] [71] Phép Hộ Ma hay Hỏa tế tự pháp (pháp cúng tếvlửa), Hỏa cúng dường pháp, Hỏa cúng, Hỏa pháp, Hỏa thực… là phép cúng dường chư tăng băng cách đem các vật cúng ném vào lò lửa.

[*] [72] Tứ diệu đế bao gồm Khổ đế (chân lí về sự khổ của con người), Tập đế (chân lí về căn nguyên sự khổ), Diệt đế (chân lí về diệt khổ) và Đạo đế (chân lí về con đường diệt khổ).

[*] [73] Nhân sinh quan Phật giáo cho rằng “đời là bể khổ”; con người ai ai cũng phái chịu bát khổ, gồm: sinh, lão, bệnh, tử, yêu mà phái chia xa, cầu mà không được, ghét mà phải ở gần, cùng năm yếu tố tạo nên con người (thân thể, cảm giác, tri giác, hành xử và ý thức).

[*] [74] Samarkand còn gọi là Tát Mã Nhĩ Hãn, trong Tùy Thư gọi là Khang Quốc. Samarkand là một trong những thành phố cổ trên thế giới, một thành phố phồn vinh trên Con đường Tơ lụa giữa Trung Quốc và Châu Âu. Có một thời, Samarkand là thành phố lớn nhất miền Trung Á. Được thành lập khoảng năm 700 TCN, nó là thủ đô của nước Túc Đặc.

[*] [75] Thổ Dục Hồn, cũng phiên thành Thổ Cốc Hồn hay Đột Dục Hồn là một vương quốc hùng mạnh được các bộ lạc du mục người Tiên Ti lập nên tại Kỳ Liên Sơn và thung lũng thượng du Hoàng Hà, tồn tại từ năm 285 đến năm 670.