Chương 4 Ác mộng thành Trường An
Một hôm, tại thành Trường An, sắc trời ảm đạm âm u, mây đen vần vũ, cả hoàng thành dường như biến thành chốn u minh quỷ vực. Lý Thế Dân du thuyền yến ẩm trên hồ Nam Hải, đàn ca sáo nhị, đã có chút chếnh choáng. Tuy nhiên đúng lúc này một ngôi sao băng đột nhiên xẹt qua bầu trời âm u, mây tản sương tan, sao Thái Bạch xuất hiện phía chân trời cực kỳ chói mắt.
Lý Thế Dân sửng sốt: “Hôm nay là ngày bao nhiêu?”.
“Mùng bốn tháng sáu, thưa bệ hạ!”, Dương phi bên cạnh đáp.
“Mùng bốn tháng sáu!” Lý Thế Dân kinh hãi, nhìn sang hai bên, đột nhiên cảm thấy các hoạn quan và hậu phi bên cạnh ăn mặc có phần quái dị. Ông ta lên ngôi mười lăm năm nay, phục sức của Đại Đường dần trở nên hoa lệ, nhưng phục sức của những người này lại vẫn thô sơ đơn giản, dường như là phục trang của Đại Đường thuở khai quốc?
Đúng lúc này, đột nhiên từ Huyền Vũ Môn vọng đến tiếng hô giết. Tiếng đao thương va chạm, tiếng vó ngựa dồn dập, tiếng chiến mã hí lên và tiếng người bị thương kêu thảm thiết như ở bên tai. Lý Thế Dân lập tức đúng dậy nhìn về phía Huyền Vũ Môn, một bóng người mặc phục sức hoàng tử từ điện Lâm Hồ lảo đảo chạy tới, trên lưng còn cắm một mũi tên!
“Phụ hoàng, cứu nhi thần…”, hoàng tử đó kêu lên thê lương.
Đột nhiên từ trong rừng cây ngoài điện Lâm Hồ có một người đuổi theo. Người này toàn thân mặc giáp, tay trái xách một cái đầu người, tay phải cầm trường cung. Thấy hoàng tử sắp chạy tới bên bờ hồ Nam Hải, tướng quân đó há mồm cắn búi tóc trên đầu lâu, giương cung bắn tên. Hoàng tử đó đang chạy thì bị một mũi tên bắn xuyên qua yết hầu. Vị tướng quân kia chậm rãi đi tới, nắm chặt búi tóc của hoàng tử kéo lên, rồi cười lạnh như băng, một đao chém lìa đầu hoàng tử.
“Là ai làm loạn? Ngươi là ai?”, Lý Thế Dân cực kỳ kinh hãi.
Tướng quân đó đi tới bên bờ hồ, quỳ xuống rồi giơ hai cái đầu người lên cao: “Bệ hạ, hai nhi tử của người tạo phản, điện hạ nhà thần dẫn quân đến dẹp loạn. Điện hạ nhân hiếu, sợ bệ hạ bị kinh động, vì vậy lệnh thần đến đây hộ giá!”.
“Hai nhi tử của ta?” Không hiểu cảnh tượng gì đang xảy ra trước mắt, Lý Thế Dân như kẻ đang ngắm trăng nơi đáy nước, sóng gợn lăn tăn, gương mặt của ai cũng nhạt nhòa không rõ: “Đây là hai nhi tử nào của trẫm? Điện hạ của ngươi là nhi tử nào của trẫm?”.
“Ngoài cửa tam vương tranh đoạt, nhà Đường nay gặp luân hồi!” Tướng quân đó cười lạnh, ném hai cái đầu người lên trên thuyền: “Bệ hạ muốn biết, thần sẽ để người nhìn cho rõ!”.
Lý Thế Dân hoảng sợ hét lên, ngồi bật dậy, cảm thấy mồ hôi lạnh chảy ròng ròng khắp đầu khắp người. Ngoài cửa sổ trăng khuyết cong như lưỡi liềm chiếu vào, hóa ra đó chỉ là một cơn ác mộng.
“Bệ hạ làm sao vậy?”, một đôi tay trắng nõn nà từ bên cạnh vòng tới. Dương phi đang thị tẩm cũng kinh hãi ngồi dậy ôm lấy ông ta.
“Hôm nay là ngày nào?”, Lý Thế Dân run rẩy.
Dương phi nhìn bóng đêm ngoài cửa sổ: “Đã qua giờ Tí, sang ngày mùng bốn tháng sáu rồi”.
“Mùng bốn tháng sáu!”, Lý Thế Dân nhắm hai mắt lại. Mười lăm năm trước, ngày mùng bốn tháng sáu, cảnh tượng đẫm máu trước Huyền Vũ Môn hiện lên rõ mồn một. Lên ngôi được mười lăm năm, hằng năm Lý Thế Dân đều muốn quên đi cái ngày kinh hoàng ấy, nhưng cứ đến ngày này mọi thứ lại ùa về quấn chặt lấy ông ta, ăn vào hồn phách, đi sâu vào giấc mơ, đục xuyên xương tủy, xé rách gan phổi.
Lúc này ông ta mới hiểu, mình vừa trải qua nỗi sợ hãi của phụ hoàng Lý Uyên năm xưa. Mùng bốn tháng sáu mười lăm năm trước, trong lúc Lý Uyên đang du thuyền trên hồ Nam Hải, Lý Thế Dân phát động binh biến Huyền Vũ Môn, tự tay bắn chết Kiến Thành, Uất Trì Kính Đức đuổi giết Nguyên Cát, bắn chết Nguyên Cát ngoài điện Vũ Đức, sau đó chém đầu đưa cho Lý Uyên. Có lẽ nỗi sợ hãi của phụ thân năm đó cũng như của mình hôm nay? Ba nhi tử tàn sát lẫn nhau ngoài Huyền Vũ Môn, một vị tướng quân khuôn mặt dữ tợn mang hai cái thủ cấp đưa đến trước mặt mình.
“Tuyên trưởng sử hữu vệ suất phủ Vương Huyền Sách đến điện Cam Lộ yết kiến”, Lý Thế Dân lệnh cho thái giám ngoài cửa một tiếng, sau đó đứng dậy.
“Bệ hạ, bây giờ mới là canh ba!”, Dương phi cũng vội vàng dậy theo, lấy khăn lau mồ hôi trên người hoàng đế, rồi hầu hạ ông mặc quần áo.
Lý Thế Dân không nói gì, sau khi thay quần áo liền đứng dậy, được thái giám dìu đi tới điện Cam Lộ. Nơi này là tẩm cung của hoàng đế, cũng là nơi ông thường tiếp kiến các triều thần thân cận.
Vương Huyền Sách trên danh nghĩa là trưởng sử hữu vệ suất phủ, thực chất lại là tặc soái của “Người Bất Lương”, tổ chức bí mật của hoàng đế Đại Đường. Tổ chức có tên gọi “Người Bất Lương” này được thành lập từ thời Vũ Đức. Khi đó nội bộ và biên giới tranh đấu liên miên, thái thượng hoàng Lý Uyên thành lập “Người Bất Lương”, chiêu mộ những người từng làm việc ác khắp Đại Đường trở thành tai mắt, khi cần thiết còn làm một số việc truy lùng bắt bớ. Không chỉ có người Hán mà còn chiêu mộ không ít người Đột Quyết, người Thổ Phồn, người Túc Đặc, người Thổ Dục Hồn[75], người Khương[76] và người Hồ các tộc Tây Vực.
Sau khi giữ chức bí thư giám, tham dự triều chính, Ngụy Trưng cho rằng tổ chức này là một điểm dị biệt, đi ngược lại nền chính trị trong sạch, bèn yêu cầu Lý Thế Dân đặt tổ chức này dưới quyền quản hạt của ông ta.
Năm Trinh Quán thứ ba, Đại Đường khởi xướng cuộc chiến diệt quốc đối với Đông Đột Quyết. Để tăng cường thăm dò tình báo đối ngoại, Ngụy Trưng nhìn trúng huyện lệnh huyện Hoàng Thủy thuộc Dung Châu là Vương Huyền Sách. Người này sinh ở Lạc Dương, khi còn nhỏ sống lân với người Hồ, có thể nói các loại Hồ ngữ, nhiều mưu mô, giỏi phán đoán, đặc biệt là am hiểu quyền mưu.
Ngụy Trưng liền điều Vương Huyền Sách vào Trường An, đảm nhiệm chức vụ tặc soái “Người Bất Lương”.
Nhưng gã Vương Huyền Sách này năng lực siêu quần, năm Trinh Quán thứ ba, để phục vụ Đại Đường tiêu diệt Đông Đột Quyết, hắn lẳng lặng theo chân Huyền Trang xuất quan, đi sứ Tây Đột Quyết, cố gắng thuyết phục Khả hãn Thống Diệp Hộ không được tham chiến. Kết quả hắn lại một tay dựng lên nội loạn tại đó, khiến cho Khả hãn Thống Diệp Hộ bị giết, hai bộ tộc lớn của Tây Đột Quyết phân tách. Cho tới nay Tây Đột Quyết vẫn còn hãm sâu trong cuộc chiến tranh báo thù giữa hai bộ tộc lớn, từ một cường quốc đã sớm sụp đổ, chia rẽ thành năm bè bảy đảng. (Xem “81 án Tây du: Tây Vực liệt vương ký”)
Vương Huyền Sách hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, nhưng vì vậy lại khiến Ngụy Trưng kiêng dè, hạ lệnh tước quyền lực bắt bớ của “Người Bất Lương”, chỉ giữ lại chức năng lùng bắt và thám thính, đồng thời quy định rõ ràng, phẩm bậc của tặc soái “Người Bất Lương” không thể vượt quá hàng ngũ phẩm, dùng đủ phương thức đế đưa tổ chức bí mật này vào tầm quản hạt của hệ thống triều đình.
Vương Huyền Sách xuất thân Nho gia, biết rõ sự cảnh giác của Nho gia đối với những tổ chức dị biệt như thế này. Hắn cũng không quan tâm, ngoan ngoãn làm ở vị trí trưởng sử hữu vệ suất phủ, cấp tòng ngũ phẩm[77] một mạch mười hai năm. Đại Đường giờ đây quốc lực hùng mạnh, uy chấn thiên hạ, ngoại trừ việc biên giới Tây Vực đôi lúc có xung đột, bình thường cũng không có vấn đề gì lớn. Tổ chức “Người Bất Lương” của Vương Huyền Sách cơ bản nằm ở trạng thái an nhàn, chỉ thu gom một chút tình báo, giúp nha môn huyện Trường An và huyện Vạn Niên bắt trộm cắp lặt vặt, phá một vài vụ án nhỏ. Nhưng canh ba hôm nay đột nhiên được hoàng đế triệu kiến, Vương Huyền Sách vô cùng phấn khởi, lập tức trở mình ngồi dậy, đi tới điện Cam Lộ.
Nha môn của “Người Bất Lương” cũng rất bí mật, nằm trong Tương Tác Giám ở góc tây bắc hoàng thành, cách hoàng cung không xa, đi chưa đến nửa canh giờ đã tới điện Cam Lộ. Vương Huyền Sách tính tình ngả ngớn khoáng đạt, nhưng hoàng đế triệu kiến vào thời điểm này khiến hắn cảm thấy thấp thỏm không yên mà thu lại vẻ bất cần đời, trở nên khúm na khúm núm.
“Vừa rồi trẫm gặp một cơn ác mộng.” Lý Thế Dân kể lại một lượt ác mộng vừa trải qua. Vương Huyền Sách nghe mà đổ mồ hôi lạnh khắp người. Ở Đại Đường ai cũng biết binh biến Huyền Vũ Môn là vết thương không thể chạm vào của Lý Thế Dân, hoàng đế đột nhiên chính miệng kể ra, phúc họa khó lường.
“Ý của bệ hạ là…”, Vương Huyền Sách không dám tự tiện suy đoán.
“Trẫm muốn biết ba nhi tử đó rốt cuộc là ai?” Lý Thế Dân có chút tiều tụy: “Có phải người nào đó muốn bắt chước trẫm, phát động một trận binh biến Huyền Vũ Môn nữa hay không?”.
“Bệ hạ!” Vương Huyền Sách đổ mồ hôi đầm đìa, sợ hãi nói: “Thần không dám theo dõi hoàng tử”.
Lý Thế Dân lạnh lùng nhìn hắn: “Đừng tưởng rằng trẫm không biết chuyện ngươi làm! Đâu chỉ là hoàng tử, toàn bộ văn võ đại thần trong triều, còn ai mà ngươi chưa phái người theo dõi chứ? Theo trẫm nghĩ, trừ Ngụy Trưng là ngươi không dám, còn các triều thần khác thì bữa sáng ăn mấy bát cháo ngươi đều biết rất rõ, đúng không?”.
Vương Huyền Sách hết sức lúng túng, lại không dám trả lời.
“Thái tử và Ngụy vương hiện nay có gây ra rắc rối gì không?” Lý Thế Dân cũng không để ý đến dáng vẻ của hắn, hỏi thẳng.
Vương Huyền Sách do dự một hồi lâu không dám trả lời, nguyên nhân rất đơn giản, mấy năm nay cuộc chiến đoạt vị giữa thái tử Lý Thừa Càn và Ngụy vương Lý Thái vẫn luôn là đề tài chính trị trọng đại nhất của triều đình Đại Đường.
Lý Thừa Càn là con trưởng của Lý Thế Dân và Trưởng Tôn hoàng hậu, sinh năm Vũ Đức thứ hai, được Lý Uyên đặt tên là Thừa Càn. Cái tên này rất có thâm ý, dường như biểu thị một sự tán thưởng[78] nào đó của Lý Uyên đối với Lý Thế Dân. Lý Thế Dân cũng vô cùng hưng phấn, cực kỳ sủng ái Lý Thừa Càn, năm Trinh Quán nguyên niên vừa lên ngôi liền sắc lập Thừa Càn làm thái tử.
Thừa Càn năm đó tám tuổi, rất được lòng Lý Thế Dân, “thông minh sắc sảo, minh mẫn, nhanh nhạy”, “phong thái nghiêm nghị, nhân hiếu song toàn”. Lý Thế Dân muốn bồi dưỡng hắn trở thành một vị minh quân hoàn mỹ không tì vết, liên cắt cử các bậc đại Nho như Lục Đức Minh, Khổng Dĩnh Đạt dạy bảo hắn Nho học, lại bổ nhiệm danh thần Lý Cương từng dạy bảo thái tử Tiền Tùy là Dương Dũng và thái tử Kiến Thành làm thái sư dạy dỗ thái tử.
Lúc Thừa Càn mười hai tuổi, Lý Thế Dân đã để hắn xử án, phán xử chuyện kiện tụng. Thừa Càn sức khỏe không tốt, một lần bị ốm, Lý Thế Dân chẳng những mời đạo sĩ đến cầu phúc mà sau khi hắn khỏi bệnh còn độ cho ba ngàn người xuất gia, xây dựng hai ngôi chùa cầu phúc cho nhi tử. Bắt đầu từ khi Thừa Càn mười sáu tuổi, mỗi khi Lý Thế Dân rời kinh ra ngoài, thái tử đều sẽ thay mặt giám quốc, việc quân việc nước đều để hắn quyết định.
Có thể nói, để bồi dưỡng vị trưởng tử hoàn mỹ này, Lý Thế Dân gần như phải dốc hết tình cảm và thủ đoạn. Ba năm trước, Lý Thế Dân lại dựng Sùng Văn Quán tại đông cung của thái tử, kinh thư sách vở, tấu chương tiến cử, tất cả đều đưa đến đấy. Nhưng điểm trào phúng là không biết có phải do thái sư Lý Cương từng làm thầy của hai đời thái tử bị phế truất, hay do số trời định sẵn mà đến năm Trinh Quán thứ mười ba, thái tử mắc tật ở chân, sau khi chữa khỏi thì bước đi cà nhắc. Với một triều đình chú trọng nghi biểu tư thái đến mức cực đoan như thế này, thì đây quả thực là một cú đả kích rất lớn đối với thái tử.
Tệ hơn nữa là tư tưởng người thừa kế hoàn mỹ của Lý Thế Dân lại được thực hiện hoàn mỹ hơn trên người một nhi tử khác của ông ta. Đó chính là Ngụy vương Lý Thái.
Ngụy vương Lý Thái là thứ tử của Lý Thế Dân và Trưởng Tôn hoàng hậu, mới sinh ra đã được chia sẻ vinh quang làm con dòng đích[79] với Thừa Càn. Thêm vào đó, Lý Thái còn được lòng Lý Uyên hơn nhiều, khi chưa tròn một tuổi liền được phong làm Vệ vương chính nhất phẩm, cho hắn kế thừa tước vị của Vệ vương Lý Huyền Bá khi ấy đã chết. Một nhà hai vương, đây cũng coi như là một niềm tự hào lớn đối với Lý Thế Dân.
Sau khi Lý Thế Dân lên làm hoàng đế thì càng thêm ân sủng Lý Thái. Khi Lý Thái chín tuổi, Lý Thế Dân liền phong hắn làm đại đô đốc Dương Châu và đại đô đốc Việt Châu, nắm quyền cai quản quân sự mười sáu Châu, đất phong lên tới hai mươi hai Châu. Một hoàng tử khác được thụ phong cùng lúc là Lý Khác, nhưng đất phong chỉ có tám Châu. Năm lên mười bốn tuổi, Lý Thái được phong chức Ưng Châu Mục, trở thành trưởng quan cao nhất ở kinh kỳ Trường An.
Sau khi các hoàng tử trưởng thành, theo lệ thường phải chuyển đến sống ở đất phong của mình, nhưng Lý Thế Dân không nỡ xa Lý Thái, vì vậy chẳng những giữ lại ở Trường An mà còn cho hắn chuyển vào điện Vũ Đức. Điện Vũ Đức ở trong hoàng cung, chỉ cách đông cung của thái tử một bức tường. Ý nghĩa tượng trưng quá rõ ràng, Ngụy Trưng không thể chịu nổi, hết sức khuyên can, mãi mới ngăn cản được.
Nếu nói Lý Thế Dân tuần du để cho thái tử giám quốc là ân sủng, vậy mỗi lần tuần du ông ta đều đưa Lý Thái theo cùng là ý gì? Chính Lý Thừa Càn cũng nói hắn không hiểu nổi, trong lòng luôn có cảm giác phụ vương dẫn hoàng đệ đi du tuần, còn mình là đích tử lại bị người bỏ rơi ở nhà.
Điều khiến Thừa Càn khó chịu nhất chính là, Lý Thái không hề thua kém hắn, “thông minh vô cùng, thích văn chương, giỏi viết lách, thơ văn vạn quyển”, có hai mươi quyến văn tập, có danh vọng cực lớn trong và ngoài triều.
Lý Thế Dân sủng ái Lý Thái quá mức, một ngày không gặp liền thấy ngứa ngáy trong lòng. Ông còn nuôi một con chim ưng trắng, chỉ cần không nhìn thấy Lý Thái liền sai chim ưng trắng đi đưa thư cho hắn, trong vòng một ngày chim ưng phải qua lại mấy lần. Còn có một lần, Lý Thế Dân đến Diên Khang Phường thăm thứ tử, trong lòng vui vẻ, đặc xá tù nhân dưới tội chết ở kinh kỳ và Trường An, còn miễn thuế cả một năm cho Diên Khang Phường. Một lần khác có người dâng sớ lên cho Lý Thế Dân, nói mấy người Ngụy Trưng, Phòng Huyền Linh không tôn trọng Lý Thái, không ngờ Lý Thế Dân nổi cơn lôi đình, triệu đám Ngụy Trưng, Phòng Huyền Linh vào cung nghiêm khắc vặn hỏi. Phòng Huyền Linh và những người còn lại sợ hãi không dám nói lời nào, Ngụy Trưng không phục liền tranh luận với hoàng đế. Từ trước đến nay Lý Thế Dân chưa bao giờ chiếm được thế thượng phong trước Ngụy Trưng, đành phải thừa nhận sai lầm. Khi đó trong triều đình còn có người suy đoán, hay là hoàng đế có lòng cải lập thái tử?
Trước khi bị tật ở chân, Thừa Càn còn miễn cưỡng duy trì tâm lí bình ổn đối với Lý Thái, nhưng đến nay, hắn thực sự không kìm nén được sự ghen tị và bất an trong lòng nữa.
Thanh niên hai mươi tuổi này muốn phát tiết nỗi căm phẫn tích tụ trong lòng, dự định dựng thêm một căn nhà, Vu Chí Ninh liền dâng sớ cho hoàng đế, phê bình hắn xa xỉ phung phí. Thừa Càn buồn bực trong lòng, cùng thái giám uống rượu, Vu Chí Ninh lại đem tố giác, nói hắn học theo Tần Nhị Thế[80]. Khổng Dĩnh Đạt và thiếu chiêm sự Trương Huyền Tố lúc nào cũng nhìn hắn chằm chằm không chớp mắt, chỉ cần lộ ra điểm nào không đúng, nếu không bị chỉ trích mạnh mẽ thẳng mặt thì cũng bị tâu lên hoàng đế, yêu cầu hoàng đế cảnh cáo nghiêm khắc.
Bởi vì hoàng đế từng nói, phải bồi dưỡng thái tử thành một đời minh quân. Thế là đám Khổng Dĩnh Đạt liền định ra tiêu chuẩn cho Thừa Càn là: Thánh nhân.
Đến mức mà cả nhũ mẫu của thái tử cũng không nỡ nhìn cảnh giáo dục quá nghiêm khắc này, liền nói với Khổng Dĩnh Đạt: “Thái tử lớn rồi, sao lại nhiều lần trách mắng?”. Khổng Dĩnh Đạt chỉ đáp: “Báo đáp quốc ân, dù chết không hận”.
Cuối cùng, kết quả là “can gián quá mức”.
Lúc đầu Thừa Càn chơi trò hai mặt, lên triều nói chuyện, câu nào cũng không rời đạo trung hiếu. Sau khi bãi triều liền chơi đùa hoang đường. Đám Khổng Dĩnh Đạt còn chưa mở miệng can gián, hắn đã ngồi thẳng lên, nghiêm mặt tự nhận lỗi, tự trách mình. Khiến cho mẩy người thầy dạy dỗ bao gồm Khổng Dĩnh Đạt hết sức vui mừng, cho rằng nhờ có sự quở trách và khuyên can của mình, cuối cùng thái tử cũng hiểu chuyện.
Nhưng năm nay xảy ra một việc khiến Thừa Càn hoàn toàn tuyệt vọng.
Hai năm trước, Lý Thái bắt đầu triệu tập văn thần biên soạn một bộ thư tịch địa lí quy mô lớn gọi là “Quát địa chí”, năm nay vừa làm xong bản thảo liền dâng tặng hoàng đế. Tác phẩm khổng lồ mở ra thời đại mới này tổng cộng có năm trăm năm mươi quyển, ghi lại quá trình phát triển, tên gọi, địa hình, núi sông, thành trì, cổ tích, thần thoại, truyền thuyết và sự kiện trọng đại của các Châu, các huyện trong toàn quốc, sưu tầm kinh truyện, dẫn chứng cực rộng.
Lý Thế Dân như giành được vật chí bảo, coi là thịnh điển văn hóa thời Trinh Quán, hào phóng ban tặng cho Lý Thái, liên tiếp nửa năm, mỗi tháng đều được ban tặng một lượng lớn tiền của, xét về số lượng và quy cách đều vượt xa thái tử. Cuối cùng ngay cả triều thần cũng không nhìn được nữa, việc này thật sự đã vượt quá lễ chế triều đình. Chử Toại Lương dâng sớ khuyên can, cho rằng quy cách ban ân sủng cho Ngụy vương không nên vượt qua thái tử. Lý Thế Dân tiếp nhận ý kiến, tỏ ý sẽ sửa, nhưng lại không cắt giảm phần của Lý Thái mà cho tăng phần của thái tử lên.
Thừa Càn bị đả kích, thậm chí còn không buồn làm bộ làm tịch nữa. Hắn nghe nói thịt trâu là phạm pháp, cố ý bắc vạc trong cung, lén bắt trộm trâu cày về giết thịt. Lại bắt hàng trăm nô tì chải đầu, đeo trang sức người Hồ, cắt lụa màu làm quần áo, khua chiêng gõ trống chơi đùa ngày đêm không ngừng. Còn dựng lều của người Đột Quyết trong cung, chia ra thành các bộ lạc nhỏ, cùng Hán vương Lý Nguyên Xương điều khiến hai bộ lạc khai chiến với nhau.
Lý Thế Dân không thể hiểu được vì sao trưởng tử của mình lại biến chất như thế. Ông ta cho rằng là do các lão sư dạy dỗ không nghiêm, bèn phái hơn mười vị lão thần đến đông cung dạy bảo thái tử. Những người này hầu như đều là các trọng thần thời Trinh Quán, như Đỗ Chính Luân, Phòng Huyền Linh, Ngụy Trưng, Mã Chu. Nhưng đúng lúc này Lý Thế Dân như nhận thêm một gậy giáng vào đầu, “Người Bất Lương” mật báo, nói thái tử lén nuôi một thiếu niên là nhạc công ở Thái Thường Tự[81], ngày đêm bên nhau, còn ban danh cho thiếu niên này là Xứng Tâm.
Lý Thế Dân giận tím mặt, hạ lệnh giết chết Xứng Tâm. Thừa Càn rất đau lòng, lập bài vị cho nam sủng trong cung, ngày đêm tế bái, hơn nữa còn dựng mộ lập bia, truy tặng chức quan. Lý Thế Dân tức giận đến phát điên, chỉ thiếu nước phế bỏ ngôi vị thái tử của hắn.
Thừa Càn cho là Lý Thái mật báo, phái người ám sát Lý Thái, may mà không thành công. Lý Thế Dân hạ lệnh truy bắt, hung thủ lại trốn thoát. Mặc dù không có bằng chứng, nhưng các triều thần đều biết đây là chuyện do Thừa Càn làm.
Còn Ngụy vương Lý Thái cũng dần dần sinh lòng đoạt vị. Hai bên đều kết bè kết cánh, công kích lẫn nhau, làm cho người người trong triều đình cảm thấy bất an. Một dòng xoáy đục ngầu như vậy, Vương Huyền Sách đâu dám dễ dàng nhảy xuống?
“Được rồi được rồi!”, Lý Thế Dân thiếu kiên nhẫn: “Không phải học Phòng Huyền Linh nữa, trẫm vừa nói nặng lời đã nơm nớp lo sợ rồi. Vương Huyền Sách ngươi gan to hơn trời, có ai không biết? Năm Trinh Quán thứ ba, ngươi mang theo hơn một trăm người mà dám gây ra nội loạn ở vương đình Tây Đột Quyết, ngay cả Thống Diệp Hộ cũng chết oan uổng. Trẫm sai ngươi bảo vệ đại sư Huyền Trang, ngươi lại suýt hại đại sư mất mạng! Có việc nào không phải ngươi tự ý?”.
“Chuyện này… Thái tử và Ngụy vương bên này tạm thời cũng không có việc gì xảy ra.” Vương Huyền Sách cẩn thận dùng từ: “Chỉ có thái tử dạo này thường xuyên xung đột với chiêm sự Vu Chí Ninh. Mấy ngày trước thái tử lại tự ý chiêu mộ mấy người Đột Quyết vào đông cung nô đùa, bị chiêm sự biết được, dâng sớ trách cứ. Thái tử rất oán hận, quát mắng Vu Chí Ninh”.
“Nghịch tử!” Lý Thế Dân giận tím mặt: “Vu Chí Ninh là lão sư dạy dỗ hắn, nhục mạ lão sư quả thực là… quả thực là…” Lý Thế Dân nghĩ một hồi lâu, cuối cùng nhịn không nói ra những lời thô tục: “Ngươi trông chừng thái tử cho trẫm! Hễ có chuyện gì khác thường đều phải báo lại!”.
Vương Huyền Sách lĩnh chỉ.
Lý Thế Dân lại dặn dò: “Nếu tra được chuyện gì không tốt đẹp, không cần thông qua bí thư giám, trẫm không muốn bị mất mặt!”.
Ngay cả anh minh thần võ như Lý Thế Dân, nghĩ tới đám nhi tử thân sinh của mình cũng không khỏi cảm thấy mệt mỏi: “Ngoài cửa tam vương tranh đoạt, cửa này nhất định là Huyền Vũ Môn rồi, còn có một vương nữa rốt cuộc là ai, tra rõ cho trẫm!”.
“Tuân lệnh!” Vương Huyền Sách không dám nói thừa một chữ, đứng dậy nhận lệnh.
Vương Huyền Sách trở lại nha môn, không dám thờ ơ, ngay lập tức triệu tập “Người Bất Lương” và lính tuần tra ban đêm, đích thân dẫn đội, lần lượt giao nhiệm vụ cho từng người. Đêm đó Vương Huyền Sách bôn ba khắp phố lớn ngõ nhỏ trong thành Trường An, sai người nhằm vào phủ trạch đám thủ hạ tâm phúc của thái tử và Ngụy vương, mua chuộc nô bộc của bọn họ, từ đó dò hỏi tin tức. May mà hắn có thân phận đặc thù, không cần tuân thủ giới nghiêm.
Tuy nhiên lúc đi qua Thân Nhân Phường, Vương Huyền Sách đột nhiên lại phát hiện hai bóng người vừa nhảy qua tường vào trong phường. “Người Bất Lương” và lính tuần tra bên cạnh kinh ngạc, đang định hô lên thì lại bị Vương Huyền Sách ngăn lại. Hắn từng trải sóng gió, óc phán đoán cũng cực kỳ tốt. Thân Nhân Phường này ở mặt đông phố lớn Chu Tước, rất gần hoàng thành, xưa nay đều là nơi ở của quan lớn quý tộc. Tường phường cao một trượng, hai tên thích khách này có thể dễ dàng nhảy qua, tuyệt đối không phải dạng trộm cắp bình thường, mưu đồ nhất định không nhỏ.
Vương Huyền Sách lệnh cho các lính tuần tra dựng thang người, theo vào Thân Nhân Phường. Mọi người bí mật theo dõi, lại thấy hai người áo đen này vòng vèo một hồi, cuối cùng đến bên ngoài trạch viện của Vu Chí Ninh, rồi loáng cái đã nhảy qua tường cao.
Vương Huyền Sách thực sự bất ngờ, có người định hành thích Vu Chí Ninh! Ngoài kiêm nhiệm chức thái tử chiêm sự, chức quan của Vu Chí Ninh là trung thư thị lang, quan lớn của Trung Thư tỉnh, ngạch chính tam phẩm. Một người như vậy bị ám sát chính là chuyện lớn!
“Mau!” Vương Huyền Sách vội vàng phân phó: “Leo tường vào, báo vệ Vu trung thư!”.
Đám “Người Bất Lương” vội vàng dựng thang người trèo lên đầu tường, thấy hai tên thích khách bí mật lẩn tới phòng ngủ của Vu Chí Ninh. Dưới ánh trăng, hai người này bịt mặt bằng khăn đen, trường kiếm cầm trong tay lấp lánh ánh sáng trong đêm.
Một tên thích khách lấy trường kiếm cạy then cửa định mở cửa đi vào. Vương Huyền Sách cuống lên, đang định hô to, thì đột nhiên từ trên nóc nhà có một bóng người nhảy xuống, một cước đạp tên thích khách đó bay vào trong phòng, cửa phòng ầm một tiếng vỡ tung, tên thích khách ngã nhào xuống đất. Tên thích khách còn lại vô cùng kinh hãi.
Bóng người nọ giơ hai tay lên, không ngờ trong tay lại cầm một thanh mạch đao dài đến bảy thước, nặng hơn mười cân. Loại mạch đao này chính là vũ khí của trọng bộ binh trong quân đội Đại Đường, chủ yếu là để chém kỵ binh. Tất cả những người sử dụng mạch đao đều là lực sĩ, đao quá nặng, phải dùng lực xoay của hông để chém, người nào ngăn cản đều bị chém thành hai nửa, không ngờ hôm nay lại thấy thứ vũ khí này xuất hiện ở đây!
Vương Huyền Sách biết trong chuyện này còn nhiều ẩn tình, bèn nằm rạp xuống trên tường không hề cử động. Lúc này hai tên thích khách và người cầm mạch đao đang giao chiến với nhau. Hai tên thích khách cũng là cao thủ, nhưng uy lực vũ khí của đối phương thật sự quá lớn, chỉ có thể liên tục né tránh. Mạch đao chém đến đâu, bất kể cột nhà hay là gạch đá đều phải vỡ vụn, tiếng động như tiếng sấm rền. Thỉnh thoảng đao kiếm gặp nhau, leng keng chát chúa.
Lúc này Vu Chí Ninh cũng giật mình tỉnh giấc, vội vã chạy ra, đứng giữa cửa ngơ ngác nhìn. Ba người đánh nhau cực kỳ quyết liệt, từ phòng ngủ ra đến ngoài sân. Trong lúc giao chiến, trường kiếm của một tên thích khách bị mạch đao chặt đứt. Trong lúc thích khách này hồn phi phách tán, người cầm mạch đao lại giật khăn che mặt của hắn xuống, rồi cười lạnh, đá hắn văng ra xa. Thích khách bị đá bay, đập thẳng vào cổng, cánh cổng dày một tấc bị đụng vỡ, thích khách miệng phun máu tươi, ngã gục xuống đường không đứng dậy nổi.
“Mau giết ta đi!”, thích khách hô to với đồng bọn.
Tên thích khách còn lại hét lớn một tiếng, ném trường kiếm ra. Người cầm mạch đao dễ dàng vung đao cản, trường kiếm rơi xuống đất. Tên thích khách đó lại đã chạy ra cửa, dìu đồng bọn lên chạy trốn. Người cầm mạch đao đuổi theo vài bước, lại rẽ sang một hướng khác, chỉ một thoáng liền biến mất tăm.
Lúc này có một lính tuần tra hỏi: “Tặc soái, có cần đuổi theo không?”.
Vương Huyền Sách thở ra một hơi thật dài, lúc thích khách đó bị lột khăn che mặt hắn có nhận ra, đó là đồng liêu của mình, vũ kỵ úy ở tả vệ suất phủ của thái tử, vệ sĩ tâm phúc của thái tử, Hột Can Thừa Cơ.
Vương Huyền Sách lắc đầu: “Bão táp sắp nổi lên rồi. Sai người tăng cường nhân thủ, giám sát chặt chẽ đông cung của thái tử!”.
°°°
Vụ ám sát này quả nhiên gây nên bão táp. Đầu tiên là triều đình chấn động, không ngờ lại có người dám ám sát quan lớn của triều đình ngay trong thành Trường An, quả thực là coi thường tôn nghiêm triều đình. Lý Thế Dân vô cùng giận dữ, hạ lệnh điều tra. Nhưng kỳ lạ là chuyện điều tra còn chưa có kết quả, chân tướng đã lan truyền rộng rãi trong dân chúng, hung phạm đứng sau chính là thái tử, thích khách chính là Hột Can Thừa Cơ, tâm phúc của thái tử, sớm đã chạy trốn khỏi Trường An.
Lý Thế Dân vốn không tin, nhưng sai người đến tả vệ suất phủ điều tra, quả nhiên sau đêm đó Hột Can Thừa Cơ biến mất dạng. Lý Thế Dân giận tím mặt, triệu thái tử tới chất vấn, thái tử lại khóc lóc không chịu thừa nhận. Ông ta không có bằng chứng rõ ràng, cũng không muốn bức bách thái tử quá mức, chỉ phạt hắn cấm túc đông cung.
Trong lòng Lý Thế Dân còn nhiều điều nghi vấn, bèn triệu Vương Huyền Sách đến hỏi. Mấy ngày nay Vương Huyền Sách đã luyện tập nhiều lần, lập tức bẩm báo: “Thưa bệ hạ, thần tận mắt nhìn thấy, thích khách đích thực là Hột Can Thừa Cơ”.
“Trẫm biết thích khách là hắn!” Lý Thế Dân bực mình: “Nhưng trẫm muốn biết, kẻ sai khiến phía sau có phải thái tử không?”.
Vương Huyền Sách hít sâu một hơi: “Quả thực là thái tử”.
Lý Thế Dân nhìn hắn, nghiến răng hỏi: “Ngươi dám khẳng định?”.
“Thần khẳng định!” Vương Huyền Sách nói: “Đêm đó sau khi thần tận mắt nhìn thấy liền triển khai điều tra. Mấy tháng qua Vu chiêm sự thấy thái tử ham chơi vô độ, quản thúc thái tử rất nghiêm, ngoài dâng sớ trách cứ còn phạt nặng mấy người Đột Quyết được thái tử chiêu mộ ba mươi roi, đuổi khỏi đông cung. Thái tử rất tức giận, vì vậy mới lệnh cho Hột Can Thừa Cơ và Trương Sư Chính đi ám sát Vu chiêm sự. Bệ hạ có thể điều tra, sau khi xảy ra chuyện này, Trương Sư Chính cũng bị thái tử điều phái rời khỏi kinh thành”.
“Nghịch tử!” Lý Thế Dân tức giận chửi bới ầm ĩ: “Ngươi còn tra được gì nữa? Nói đi, trẫm không ngại việc xấu trong nhà”.
“Còn có…” Vương Huyền Sách lần này thật sự do dự, một hồi lâu mới nói nhỏ: “Ngụy vương cũng có liên can”.
Lý Thế Dân ngẩn ra: “Thái nhỉ? Chuyện này liên quan gì đến Thái nhi?”.
“Ba ngày trước có một thuật sĩ gọi là Vi Linh Phù đến nương nhờ thái tử. Người này từng được Ngụy vương chiêu mộ, ở trong phủ Ngụy vương ba tháng, nhưng không được coi trọng, bèn chuyển đến làm môn hạ phục vụ thái tử”, Vương Huyền Sách nói.
“Thái nhi làm rất tốt”, Lý Thế Dân rất vui mừng: “Đám thuật sĩ này nên bị đuổi ra khỏi cung từ sớm”.
Vương Huyền Sách cười khổ, nói: “Sau khi nương nhờ thái tử, Vi Linh Phù mới tiết lộ một bí mật, thì ra ba vị chiêm sự Vu Chí Ninh, Trương Huyền Tố, Khổng Dĩnh Đạt có yêu cầu cao đối với thái tử như vậy chính là vì có Ngụy vương đứng phía sau giật dây”.
“Nói bậy!” Lý Thế Dân nổi giận: “Ba vị chiêm sự chính là bậc thầy Nho học cốt cách rắn rỏi, trẫm còn không sai khiến được họ, sao có thể bị Thái nhi giật dây?”.
“Bẩm bệ hạ, thủ đoạn của Ngụy vương không hề tầm thường. Ngụy vương có giao hảo với các văn nhân thi sĩ, sau mỗi một lần ba vị chiêm sự chỉ trích thái tử, Ngụy Vương luôn bảo những văn nhân thi sĩ này khen ngợi họ kiên cường bất khuất, là gương sáng cho mọi người. Kết quả là ba vị chiêm sự này nhìn thấy thơ từ văn chương khen ngợi mình, rất thỏa mãn, liền quản thúc thái tử nghiêm khắc hơn, khiến thái tử bất mãn với họ hơn. Mâu thuẫn giữa hai bên càng ngày càng nghiêm trọng, cuối cùng dẫn tới việc thái tử phái thích khách ám sát lão sư”.
Lý Thế Dân nghe xong mà trợn mắt há mồm, trong mắt ông, Ngụy vương Lý Thái trung hậu thành khẩn, tài hoa hơn người, không hề thích quyền thế, ngày ngày say mê văn thơ. Tại sao cuối cùng lại thành ra thế này?
“Thưa bệ hạ, sau khi Vi Linh Phù nói ra điều này, thái tử biết việc mình bị Ngụy vương gài bẫy nên vô cùng giận dữ”, Vương Huyền Sách nói nhỏ: “Lần này thích khách đi giết Vu chiêm sự, người cầm mạch đao kia dường như đã biết trước, chờ sẵn ở đó để cứu người. Mặc dù thần chưa thể tra ra người cầm mạch đao đó là ai, nhưng có thể đoán được phần nào là do Ngụy vương phái đến”.
Lý Thế Dân ngẩn người ra, đột nhiên nhớ tới câu chữ trong con ác mộng hôm đó: Ngoài cửa tam vương tranh đoạt, nhà Đường nay gặp luân hồi. Ông ta cười thê lương: “Chẳng lẽ nhi tử của trẫm thật sự phải lặp lại con đường đó sao? Trong biến Huyền Vũ Môn, thực sự phải đưa hai thủ cấp đến trước mặt trẫm? Chẳng lẽ lỗi lầm mà trẫm phạm phải vĩnh viễn không thể xóa bỏ đi được? Đây chẳng lẽ là báo ứng và luân hồi mà Phật gia nói hay sao?”.
Câu này Vương Huyền Sách không dám trả lời, chỉ cúi đầu không nói.
“Ngươi cũng quen biết đại sư Huyền Trang”, Lý Thế Dân nói: “Nếu đại sư Huyền Trang còn ở đây, liệu ngài ấy có thể trả lời câu hỏi của trẫm không?”.
Vương Huyền Sách nói nhỏ: “Thần không biết!”.
Lý Thế Dân không nói thêm gì nữa, lặng lẽ đứng lên đi về phía tẩm cung. Bây giờ ông ta mới bốn mươi ba tuổi, nhưng bóng dáng lại có vẻ già nua tiều tụy, thậm chí tóc bạc cũng điểm thêm vài sợi. Vương Huyền Sách khom người đưa tiễn, đến tận lúc hoàng đế biến mất sau màn mới đứng dậy lùi ra ngoài.
Hôm sau Lý Thế Dân lấy tinh thần dậy sớm, có thái giám hầu hạ ông mặc triều phục.
Bởi vì hôm nay là ngày đại hỉ, Hầu Quân Tập dâng tù binh tại điện Quan Đức. Năm ngoái, thượng thư bộ Lại Hầu Quân Tập dẫn đại quân bình diệt Cao Xương[82], cầm tù quốc vương Cao Xương là Khúc Trí Thịnh. Đây là vương quốc Tây Vực đầu tiên mà Đại Đường tiêu diệt.
Thì ra sau khi xảy ra nội loạn, tiên vương của Cao Xương là Khúc Văn Thái yên ổn được hơn mười năm rồi lại chứng nào tật nấy, chính sách bắt đầu ngả nghiêng. Ông ta ngầm cấu kết với Tây Đột Quyết, đầu tiên là tấn công quận Y Ngô của Đại Đường, sau đó lại xâm chiếm ba thành trì của Yên Kỳ[83]. Quốc vương Yên Kỳ xin Đại Đường cứu viện, Lý Thế Dân hạ chiếu trách cứ, Khúc Văn Thái lại trả lời: Chim ưng bay trên trời, chim trĩ chui trong bụi, mèo đi lại ngoài đường, chuột chui lủi trong hang, mỗi người có một chốn, sao không thể tự quyết?”.
Khi đó các quốc gia Tây Vực triều cống Đại Đường đều phải đi qua Cao Xương, không ngờ Khúc Văn Thái lại giam giữ sứ giả các vương quốc không cho triều cống, cuối cùng chọc Lý Thế Dân tức giận, lệnh Hầu Quân Tập dẫn quân tấn công Cao Xương.
Khúc Văn Thái lúc này mới biết sợ, ngày đêm lo lắng, khi quân Đại Đường đến dưới thành liền sợ quá sinh bệnh mà chết. Trước lúc ông ta chết, Khúc Trí Thịnh đã trở lại Cao Xương, sau khi kế thừa vương vị liền ra thành đầu hàng. Lý Thế Dân mừng rỡ, hạ lệnh lập An Tây đô hộ phủ ở thành Giao Hà, đến tận năm nay Hầu Quân Tập mới áp giải Khúc Trí Thịnh và vương tộc Cao Xương trở lại Trường An dâng tù binh.
Đây là công diệt quốc, sau khi dâng tù binh, Lý Thế Dân mở tiệc ở điện Thái Cực, Vương Huyền Sách cũng được mời đến dự, vua tôi Đại Đường uống thoải mái trong tiệc rượu, mặt mày rạng rỡ. Nhưng trong góc lại có một người cầm chén rượu, vẻ mặt thương cảm, chính là quốc vương đương nhiệm của Cao Xương, hôm nay vừa được phong làm tả vũ vệ tướng quân, Kim Thành quận công Khúc Trí Thịnh.
Vương Huyền Sách cầm chén rượu đi tới, Khúc Trí Thịnh ngước mắt nhìn hắn, trên mặt chậm rãi lộ ra nụ cười.
“Vương trưởng sử, ngài cũng già đi rồi!”, Khúc Trí Thịnh than thở.
“Đúng vậy! Thoáng cái, ta và ngươi đã mười hai năm không gặp rồi”, Vương Huyền Sách cũng hết sức cảm khái.
Năm Trinh Quán thứ ba, Khúc Trí Thịnh trước mặt hắn còn là một vương tử trẻ tuổi tuấn tú, bây giờ đã cán mốc trung niên, khuôn mặt già nua, vẻ mặt hốc hác, ngay cả tóc mai cũng trắng một mảng.
“Sư phụ ta, đại sư Huyền Trang Tây du về chưa?”, Khúc Trí Thịnh hỏi.
Vương Huyền Sách lắc đầu: “Từ sau khi ngài ấy xuất quan, mười mấy năm nay, không hề có tin tức của đại sư”.
Ánh mắt Khúc Trí Thịnh lộ vẻ bi thương. Năm đó ở vương thành Cao Xương, hắn và Long Sương Nguyệt Chi yêu thương sống chết, nếu không phải nhờ Huyền Trang phá giải từng nước cờ toan tính, chỉ sợ Cao Xương sớm đã diệt vong từ mười mấy năm trước rồi, Khúc Trí Thịnh hắn từ một gốc cây non nay cũng trở thành đại thụ chọc trời. (Xem “81 án Tây du: Tây Vực liệt vương ký”)
“Nếu trưởng sử có gặp sư phụ ta, xin nói với ngài, Trí Thịnh đã làm rất tốt, bảo vệ được con dân Cao Xương, không để bọn họ trải qua loạn lạc chiến tranh”, Khúc Trí Thịnh khóc thất thanh.
Vương Huyền Sách không khỏi bi ai, hai người rơi lệ đối ẩm, uống đến say mèm. Vương Huyền Sách say rượu bắt đầu nhảy múa, may mà lúc này mọi người trong điện đều uống nhiều rồi, không ít người còn nhảy múa kiểu người Hồ, cũng không có ngự sử nào vạch tội hắn có cử chỉ bất nhã.
Chính Lý Thế Dân còn có phần phóng túng, ông ta hứng lên sai thái giám mang tới sáu chiếc chén lưu li do Ba Tư tiến cống, rót rượu nho ban cho sáu người, trong đó có Triệu Quốc Công Trưởng Tôn Vô Kị, Lương Quốc Công Phòng Huyền Linh, Trịnh Quốc Công Ngụy Trưng. Thái giám dùng khay vàng bưng chén lưu li, sáu vị quốc công được sủng mà sợ, đồng loạt khom người tạ ơn, chờ được uống rượu. Không ngờ đúng lúc này Vương Huyền Sách cầm chén rượu đi qua va vào người thái giám. Rầm một tiếng, khay vàng rơi xuống đất, sáu chiếc chén lưu li đều vỡ tan.
Sáu vị quốc công sợ ngây người. Những người này đều biết đây là sáu chiếc chén lưu li được hoàng đế thích nhất, bình thường chính hoàng đế còn không nỡ dùng, bây giờ thì tốt rồi, ai cũng không được dùng nữa.
“Lớn mật!” Lý Thế Dân cực kỳ xót của, quát to một tiếng, đập tan chén rượu trong tay: “Vương Huyền Sách, ngươi có biết tội!”.
Vương Huyền Sách sợ đến ngây người, rùng mình một cái, rượu ngon uống vào bụng thoáng chốc đều hóa thành mồ hôi lạnh tuôn ra như suối, lập tức tỉnh táo lại. Hắn quỳ rạp xuống đất, liên tục dập đầu.
“Người đâu, lôi ra ngoài cho trẫm…”
Lý Thế Dân còn chưa nói xong, Ngụy Trưng liền vội vàng quỳ xuống: “Bệ hạ! Xin chớ vì vật mà trách phạt đại thần!”.
Lý Thế Dân vẫn còn chưa tỉnh hẳn, nhìn những mảnh chén lưu li trên mặt đất, vô cùng xót ruột: “Đây chính là… trẫm…”.
Trưởng Tôn Vô Kị cũng phản ứng lại, hoàng đế lúc này đã uống nhiêu, chén lưu li có quý giá đến mấy cũng chỉ là chén rượu, nếu thật sự trách phạt đại thần vì làm vỡ mấy cái chén, nhất định không thế tránh được việc bị các sử gia đời sau chế giễu. Ông ta vội vàng quỳ rạp xuống đất, nói: “Bệ hạ, xưa có Yên Chiêu Vương ngàn vàng mua xương ngựa[84], mục đích không phải vì ngựa mà vì người tài! Bây giờ nếu bệ hạ vì mấy chén rượu mà xử phạt đại thần, đời sau sẽ đánh giá thế nào?”.
Lý Thế Dân cực kỳ coi trọng danh tiếng sau khi qua đời, tỉnh táo lại phần nào. Trưởng Tôn Vô Kị vội vàng đứng lên, lệnh thái giám dùng khăn nóng lau mặt cho hoàng đế. Sau một hồi, Lý Thế Dân mới nhìn nhận rõ được toàn bộ vấn đề.
Lý Thế Dân im lặng nhìn Vương Huyền Sách quỳ dưới đất, trong một giây lát, ý muốn giết người thoáng hiện lên trong đầu. Người này nắm giữ quá nhiều bí mật của hoàng gia. Nhưng ông ta cũng biết, hôm nay không phải thời cơ tốt.
Lý Thế Dân nói: “Khanh làm mất lễ nghi trên điện, dù không phải vì chén lưu li, trẫm cũng không thể không phạt khanh. Trẫm cho khanh hai lựa chọn, giờ đây Cao Xương quy thuận Đại Đường, chịu để ta quản hạt, quân binh vật tư đều phải vượt qua tám trăm dặm sa mạc Mạc Hạ Diên để vận chuyển tới đó, ngươi giờ liền xuất hành đến quận Y Ngô, trấn thủ tám trăm dặm cát lún đó!”.
Vương Huyền Sách run cầm cập, hắn biết rõ những khổ sở trên sa mạc Mạc Hạ Diên, một khi đi thì phải vứt bỏ chức vụ tặc soái của mình. Hắn suy nghĩ một lát, bạo gan nói: “Bệ hạ, xin hỏi lựa chọn thứ hai…”.
“Lựa chọn thứ hai…”, Lý Thế Dân suy nghĩ một lát: “Mấy ngày nay không biết vì sao, trẫm đột nhiên vô cùng nhớ đại sư Huyền Trang. Đại sư đến Thiên Trúc thỉnh kinh đã hơn mười năm rồi không có tin tức gì, ngay cả sống hay chết cũng không biết. Ngươi hãy đi Thiên Trúc một chuyến, tìm cho bằng được đại sư Huyền Trang, xin làm đồ đệ của ngài. Nói với đại sư rằng, trẫm rất nhớ ngài ấy!”.
Vương Huyền Sách biết dạo này mình nắm được quá nhiều điều cơ mật của hoàng thất, hoàng đế muốn đuổi mình đi xa, nhưng ít nhất đi Thiên Trúc còn có ngày trở về, bèn vội vã quỳ tâu: “Bệ hạ, thần chọn việc thứ hai!”.
Cách đó không xa, Khúc Trí Thịnh cầm chén rượu, đột nhiên khóc nức nở.
[*] [76] Người Khương là một nhóm sắc tộc tại Trung Quốc. Hiện sinh sống chủ yếu tại miền tây tỉnh Tứ Xuyên, bao gồm miền đông Châu tự trị dân tộc Tạng-Khương A Bá, địa cấp thị Miên Dương.
[*] [77] Quan chế nhà Đường tổng cộng có mười tám cấp được chia làm chín phẩm từ nhất phẩm đến cửu phẩm, mỗi phẩm lại gồm hai cấp là chính phẩm và tòng phẩm, ví dụ chính lục phẩm thăng một cấp lên tòng ngũ phẩm. (Chú thích của dịch giả)
[*] [78] Vũ Đức là niên hiệu của Lý Uyên, khi đó Lý Uyên vẫn là hoàng đế, thái tử là Lý Kiến Thành, Lý Thế Dân chỉ là con thứ. Thừa Càn có nghĩa là kế thừa mệnh trời, Lý Uyên đặt tên cho con của Lý Thế Dân như vậy là tỏ ý sẽ truyền ngôi cho Lý Thế Dân.
[*] [79] Con của chính thê gọi là đích, con của tiếu thiếp gọi là thứ. Có trường hợp nạp thiếp trước rồi mới lấy chính thê, con trai của tiểu thiếp lớn hơn nhưng vẫn là con thứ, con của chính thê mới là đích tử. (Chú thích của dịch giả)
[*] [80] Tần Nhị Thế tên hiệu là Hồ Hợi, con thứ 18 của Tần Thủy Hoàng. Tính cách ngu si, dốt nát, tham lam. Sau khi Tần Thủy Hoàng chết, Lý Tư cấu kết với Triệu Cao lập Hồ Hợi làm hoàng đế, vì một kẻ ngu ngốc thì dễ dang sai bảo. Sau khi Hồ Hợi kế vị thì thực quyền ở trong tay Triệu Cao. Khi nhà Tần lâm nguy, Hồ Hợi bị Triệu Cao sai người giết chết khi mới 24 tuổi. Nhị thế tổ là một thành ngữ phổ biến trong tiếng Quảg Đông lấy từ tích vua Tần Nhị Thế. Thành ngữ chỉ con cháu những gia đình giàu có, chỉ biết ăn chơi phung phí tiền cha mẹ mà không biết lo lắng cho sự nghiệp, như Tần Nhị Thế đã phá hủy cơ nghiệp nhà Tần chỉ sau 3 năm làm vua.
[*] [81] Thái Thường Tự là một trong sáu tự trong quan chế Lục tự. Thái Thường Tự là cơ quan phụ trách việc thi hành những thế thức lễ nghi, điều khiến ban âm nhạc, trông coi các đền chùa thờ Trời, Đất, thần bốn mùa.
[*] [82] Cao Xương cũng gọi là Qara-hoja hay Kara-Khoja, là khu vực từng tồn tại một thành phố ốc đảo được xây dựng tại rìa phía bắc của sa mạc Taklamakan tại Tân Cương, Trung Quốc. Địa điểm này cũng được biết tới với các tên gọi Chotscho, Khocho, Qocho, hay Qoco. Cao Xương từng là một trung tâm thương mại sầm uất, là một điếm dừng chân của các thương nhân trên Con đường Tơ lụa.
[*] [83] Yên Kỳ hay Karasahr (hay Karashahr, nghĩa là ‘thành phố đen’ trong tiếng Uyghur), trước đây còn gọi là A Kỳ Ni hay Ô Di, là một quốc gia cổ tiền Con đường Tơ lụa và nay là thủ phủ của huyện tự trị dân tộc Hồi, Yên Kỳ, Tân Cương tại địa khu Bayin’gholin ờ Tân Cuơng, Tây Bắc Trung Quốc.
[*] [84] Tích cổ Yên Chiêu Vương muốn chấn hưng nước Yên, diệt Tề nhưng không đủ lực. Bèn thân chinh đi thỉnh giáo Quách Ngôi, được ông kể cho tích xưa về một vị vua muốn mua ngựa quý mà không được, liền bỏ ngàn vàng mua xương ngựa quý, người đời nhìn vậy bèn đua nhau mang ngựa quý đến dâng bán. Yên Chiêu Vương học theo, trọng dụng Quách Ngôi, sau thu phục được hiền tài, không ngờ lại diệt được nước Tề.
[*] [85] Vu Điền là một vương quốc Tây Vực Phật giáo nằm trên nhánh Con đường tơ lụa chạy dọc theo rìa phía nam của sa mạc Taklamakan tại lòng chảo Tarim. Lãnh thổ của vương quốc nay thuộc Tân Cương, Trung Quốc.