Chương 5 Quyết đấu tại Càn Đà La
Càn Đà La, thành Phú Lâu Sa.
Trước sự chứng kiến của hàng vạn người, trận quyết đấu thứ hai bắt đầu. Huyền Trang dẫn Na Thuận bước lên trên đài cao, vẫn ngồi trên chiếc ghế đó, Na Thuận đứng hầu sau lưng ngài.
Trên đài cao dựng lên một dàn thiêu lớn, lửa cháy hừng hực. Thứ dùng để đốt là than đá, lửa cháy rất mạnh, nhiệt độ cực cao, trên đài cao tỏa ra sức nóng kinh người. Những người đứng xem bên dưới đều có chút thắc mắc, đây rốt cuộc là muốn làm gì?
Lúc này, một nam nhân mặc trường bào chân đất đi ra: “Tại hạ tên gọi Tô Hãn Đát. Trận quyết đấu này cực kỳ đơn giản. Là đại sư Huyền Trang hay đại sư Sa Bà Mị đều được, chi cần có thể theo ta đi một vòng trên hỏa đàn này là được”.
Lời vừa nói ra, đám người xôn xao. Lửa cháy bừng bừng, chỉ e ném nguyên một con bò vào thì nó cũng nhanh chóng bị nướng chín, huống hồ là người, đây rõ ràng là đòi mạng người ta còn gì. Tô Hãn Đát lại cười: “Ta đã mời được thần lửa bảo hộ, dẫu có nhảy vào biến lửa cũng không hề hấn gì”.
Tô Hãn Đát cứ thế đi chân đất chậm rãi bước lên dàn thiêu, ngọn lửa rừng rực lập tức nuốt chửng cả người hắn. Nhưng điều khiến người ta kinh sợ là sức lửa cháy lớn như vậy mà ngay đến y bào của hắn cũng còn nguyên vẹn, không hề bị đốt cháy, chỉ có bàn chân trần đang giẫm lên than đá cháy rực kia là phát ra tiếng xèo xèo. Đám đông bên dưới đều im phăng phắc, một số tín đồ quỳ lạy, thấp giọng cầu nguyện.
Tô Hãn Đát đang ở trong ngọn lửa nên không thể mở miệng nói chuyện, ngọn lửa và khí than khiến hai mắt hắn đỏ ửng, tưởng như sắp khóc. Hắn vẫy vẫy tay với Huyền Trang và Sa Bà Mị. Huyền Trang nhíu chặt lông mày: “Người này quả không tầm thường, ngài có ứng phó được không?”.
Sa Bà Mị thở dài: “Chỉ tiếc là bộ quần áo này của lão hòa thượng không giữ được nữa rồi”.
Ông ta cười ha hả, rời ghế đi đến chỗ ngọn lửa, chân trần bước lên dàn thiêu. Lúc này tất cả mọi người đều nín thở quan sát thật kĩ. Chỉ thấy sau khi Sa Bà Mị bước lên dàn thiêu, bộ tăng y của ông ta lập tức bốc cháy, hóa thành những cánh bướm bằng lửa bay lượn khắp nơi. Tín đồ của Tô Hãn Đát lập tức hoan hô, còn tịnh nhân và thị nữ đi theo Sa Bà Mị thì sợ hãi la hét thảm thiết. Trên mặt Tô Hãn Đát lộ ra nụ cười, nhưng lại chết sững người ngay sau đó. Mặc dù quần áo của Sa Bà Mị đã cháy hết, nhưng toàn thân vẫn chẳng hề hấn gì, nhàn nhã bước trên dàn thiêu, đi thẳng tới trước mặt Tô Hãn Đát, cúi người chắp tay hành lễ với hắn. Hai người đứng đối diện nhau, toàn thân được bao bọc trong ngọn lửa.
“Đáng tiếc, lửa này còn chưa đủ mạnh. Không bằng mời ngươi trải nghiệm thử nghiệp hỏa vô danh của lão hòa thượng xem.” Sa Bà Mị phất tay một cái, ngọn lửa đột nhiên chuyển sắc, từ đỏ đậm biến thành màu trắng, nhiệt độ dường như cao hơn, Huyền Trang đứng cách dàn thiêu khá xa mà cũng cảm thấy lông mày, da mặt nóng rát cả lên.
Khi ngọn lửa vừa biến thành màu trắng, Tô Hãn Đát chợt ngẩn ra, rồi đột nhiên kêu gào thám thiết như bị xé rách tim gan, liều mạng vùng chạy ra ngoài nhưng lại vấp ngã, lăn lộn trong ngọn lửa. Cùng với tiếng kêu gào thảm thiết, hắn nhanh chóng bị đốt cháy thành than. Sa Bà Mị chắp tay, cúi người trước thi thể hắn, thầm niệm thần chú, sau đó ung dung đi ra.
Lúc này toàn thân ông ta gần như trần trụi. Quần áo trên người đều hóa thành tro, có gió thổi đến, tro bay tựa như cánh bướm. Đám đông như chết lặng, tất cả mọi người đều bị thủ đoạn như thần như quỷ này làm cho kinh sợ.
Đại ma cát thở dài một tiếng, đứng dậy khỏi ghế đi tới bên cạnh hai người: “Việc quyết đấu hôm nay dùng ở đây, giờ Ngọ ngày mai lão phu sẽ ra tay, mong đại sư Sa Bà Mị vui lòng chỉ giáo”.
Sa Bà Mị đang được thị nữ hầu hạ thay tăng y, bèn quay sang nhìn đại ma cát chằm chằm: “Đợi ngươi rất lâu rồi”.
Đại ma cát hơi khom người hành lễ với Huyền Trang, rồi xoay người bước đi.
Quốc vương Càn Đà La tuyên bố trận thứ hai, Huyền Trang và Sa Bà Mị chiến thắng, sau đó sai người dỡ bỏ giàn lửa.
Tín đồ của Tô Hãn Đát đang xúc than đá ở dàn thiêu đi, trong đó có lẫn tro cốt của Tô Hãn Đát.
Huyền Trang không cùng Sa Bà Mị trở lại chùa, ngài rời khỏi đài cao, yên lặng đi trong đám đông. Na Thuận đi theo bên cạnh. Na Thuận mặc dù làm người hai kiếp nhưng xét cho cùng kiếp này hắn vẫn là một thiếu niên, lòng vẫn tràn ngập sự hiếu kỳ đối với vạn sự vạn vật: “Sư huynh, chuyện này rốt cuộc là thế nào? Chẳng lẽ thần của Tô Hãn Đát thật sự không bằng Phật của Sa Bà Mị sao?”.
“Không liên quan gì đến thần Phật”, Huyền Trang nói.
Na Thuận kinh ngạc nói: “Nhưng rõ ràng Sa Bà Mị đi vào lửa vẫn không sao, còn Tô Hãn Đát lại không chịu được nghiệp hỏa của ông ấy”.
Huyền Trang vốn định giải thích, suy nghĩ một lát lại xoa đầu Na Thuận, thở dài nói: “Na Thuận, kiếp này ngươi đã làm người bình thường, cứ sống hết cuộc đời này trong trạng thái vô lo vô nghĩ như vậy đi. Trận đấu phép này kì thực cũng là một dạng chiến tranh, mà đã là chiến tranh, bất kể là loại nào, ẩn tình trong đó đều rất bẩn thỉu, dơ dáy, ngươi không cần tìm hiểu làm gì”.
“Nhưng ta thật sự rất muốn biết”, Na Thuận nói.
“Na Thuận, kiếp trước ngươi có thể tính được luân hồi, tránh né được ba năm, có thể coi là người đã tu được đại thần thông”, Huyền Trang nói: “Nhưng nay đã trở về phàm tục, việc này ngươi không cần nghĩ nữa, bây giờ chúng ta đi tìm Liên Hoa Dạ thôi!”.
Vừa nhắc tới Liên Hoa Dạ, hai mắt Na Thuận lập tức sáng lên, liên tục gật đầu. Hắn đến quầy hàng của người Túc Đặc lấy túi vàng vác theo sau lưng, dẫn Huyền Trang đi đến kỹ viện của Liên Hoa Dạ.
°°°
Kỹ viện ở phía bắc mạn đông thành, là một tòa viện rất lớn, tầng tầng lớp lớp xây dựa vào núi. Lại đào kênh dẫn nước từ sông Khách Bố Nhĩ ở mặt bắc tới chảy quanh các ngôi nhà, hai bên bờ kênh trồng đầy các loại hoa cỏ, vô cùng tao nhã. Đây là lần đầu tiên Huyền Trang đến kỹ viện. Ngài ngẩng đầu quan sát, thấy trên cửa có biển đá viết “Hương Biến Quốc” bằng bốn loại văn tự là chữ Đột Quyết, chữ Ba Tư, chữ Phạn, chữ Túc Đặc. Huyền Trang nhìn thấy thế mới hiểu, bởi vì tên vương quốc là Càn Đà La dịch nghĩa ra chính là “Hương Biến Quốc”, ý là hoa thơm khắp nơi, thơm khắp vương quốc. Không ngờ họ lại dùng tên của vương quốc đểđặt cho kỹ viện.
Na Thuận dẫn Huyền Trang vào cửa, tìm một quản sự nói với hắn: “Xin chuyến lời tới tiểu thư Liên Hoa Dạ, nói là Na Thuận đến rồi”.
Quản sự đó quan sát hắn một lát: “Ngươi chẳng phải chính là người Túc Đặc vẫn rình mò Liên Hoa Dạ hay sao? Đã gom đủ năm trăm vàng chưa?”.
“Gom đủ rồi”, Na Thuận bỏ túi vàng xuống.
Quản sự đó mừng rỡ, nhưng khi mới nhìn thấy Huyền Trang lại tức giận: “Tại sao còn dẫn theo một tăng nhân? Không được, phải thêm năm trăm vàng nữa!”.
Lúc sau hắn mới thấy rõ tướng mạo của Huyền Trang, tức thì trợn mắt há mồm, vội vàng quỳ rạp xuống đất: “Thì ra là Đại Thừa Thiên! Xin thứ tội, xin thứ tội! Đại Thừa Thiên muốn qua đêm ở đây? Tiểu nhân sẽ đi mời Liên Hoa Dạ tới hầu hạ ngài!”.
Huyền Trang nghe vậy đỏ bừng mặt, vội vàng tỏ thái độ: “Bần tăng lục căn đã đứt, không phải là đến để…”.
Suy nghĩ một hồi vẫn không tìm được từ thích hợp: “Quản sự, ngươi vào mời Liên Hoa Dạ ra. Bần tăng có một số việc muốn nói chuyện với Liên Hoa Dạ. Đúng rồi, bần tăng sẽ ở tiền viện, không vào hậu viện”.
“Vâng, vâng, xin tuân lệnh Đại Thừa Thiên”, quản sự từ từ bò dậy rồi chạy như bay vào hậu viện.
Huyền Trang thầm thở dài, mấy ngày nay đấu phép, xem ra đúng thực như Sa Bà Mị nói, dân chúng đã sợ ông ta đến mức thành kính. So với cảnh tượng Huyền Trang tự mình cầm bát hóa duyên mấy ngày trước quả thực khác nhau một trời một vực.
Không lâu sau cả kỹ viện đều biết Huyền Trang đến, tất cả mọi người đều chấn động, bất kể là kỹ nữ, quản sự, đầy tớ, bảo tiêu hay là khách dạo kỹ viện đều lũ lượt kéo tới chào hỏi.
Có một số người thậm chí còn hôn chân Huyền Trang theo nghi lễ của địa phương mình, Huyền Trang lần lượt chúc phúc, sau đó bảo họ rời đi.
Lúc này quản sự đã về, cung kính mời hai người đến ngồi trong một tòa tháp mái vòm tao nhã, tĩnh mịch ở bên bờ sông, dâng trái cây và nước nho lên. Na Thuận cực kỳ sốt ruột, vò đầu bứt tai. Huyền Trang bình tĩnh uống nước nho. Một lát sau giữa vườn hoa vang lên tiếng vàng ngọc va chạm leng keng, một nữ tử dáng người uyển chuyển thướt tha đi tới. Không ngờ nàng ta lại có màu da và màu mắt của người Trung Nguyên, làn da trắng như sữa, mịn màng như lụa. Mái tóc dài màu đen, đôi mắt đen láy, ánh mắt như sóng chuyển, mái tóc bay bay, thoạt trông điềm đạm, đáng yêu, giống như đêm dài vô tận, giống như dòng sông luân hồi, hút linh hồn và tính mạng người khác vào trong đó, không thể nào tự giải thoát được.
Choang một tiếng, chén nước nho trong tay Na Thuận rơi xuống đất. Hắn đã đờ đẫn rồi.
Huyền Trang lẳng lặng nhìn nàng, ung dung nói: “Nữ thí chủ, đã lâu không gặp. Bần tăng còn chưa tạ ơn thí chủ đã bố thí”.
Liên Hoa Dạ lúc này hoàn toàn không còn vẻ khiêu khích như ở ngoài phố hôm đó, cúi người hành lễ: “Là Liên Hoa Dạ lỗ mãng, xin Đại Thừa Thiên thứ tội”.
“Hai người biết nhau?”, Na Thuận kinh ngạc.
Liên Hoa Dạ không để ý đến hắn mà ngồi xuống bên cạnh Huyền Trang, rót cho ngài một chén nựớc nho, hai tay giơ cao, cúi đầu nâng lên trước mặt Huyền Trang. Huyền Trang nhận lấy, lẳng lặng uống. Na Thuận không hề phật lòng vì bị Liên Hoa Dạ lạnh nhạt, mừng khấp khởi đặt túi vàng lên trên bàn đá: “Liên Hoa Dạ, nàng xem, ta đã có đủ năm trăm đồng tiền vàng”.
“Vậy là đêm nay ngươi có thể tới ngủ với kỹ nữ rồi”, Liên Hoa Dạ lạnh nhạt đáp.
Na Thuận đỏ mặt lên: “Không phải như vậy, Liên Hoa Dạ, ta yêu thương, tôn trọng nàng hệt như kính lễ với thân mẫu của ta vậy…”.
“Ngươi tích cóp năm trăm vàng là để được làm nhi tử của ta?”, Liên Hoa Dạ hỏi.
Na Thuận cứng họng, nôn nóng đến mức toàn thân run rây, rồi dứt khoát dốc ngược túi vàng lên, năm trăm đồng tiền vàng ào ào đổ xuống mặt bàn: “Liên Hoa Dạ, ta thật sự ái mộ nàng, hai tháng nay, ta đã bán đi cả đội buôn của ta, bán đi tất cả hàng hóa, thậm chí bán đi cả nhà cửa do tổ tiên để lại, vay mượn khắp bạn bè, gom góp cho đủ năm trăm đồng vàng này. Ta không có ý khinh nhờn nàng, chỉ mong có thể yên lặng ở bên nàng chốc lát. Ta muốn nói chuyện với nàng, ta muốn ngắm dung mạo của nàng, ngửi hương thơm của nàng…”.
Hắn không biết nên diễn đạt thế nào, thế là khóc thất thanh: “Liên Hoa Dạ, ta thật sự yêu nàng. Ta cũng không muốn đau khổ như thế. Nhưng vì sao từ khi ta sinh ra trên thế giới này, khắp nơi đều là bóng dáng của nàng? Từ khi lên ba tuổi, ta mở mắt ra, nhắm mắt lại đều là nàng. Ta không biết vì sao lại như vậy, có lẽ nào là duyên nợ từ kiếp trước? Nhưng ta biết, đây hẳn là số mệnh đã an bài, đời này ta sinh ra là vì nàng, có muốn tránh cũng không thoát được”.
Liên Hoa Dạ không nói gì, vẻ mặt lãnh đạm.
Huyền Trang thở dài: “Liên Hoa Dạ, thí chủ đã biết chuyện của Na Thuận chưa?”.
“Rồi, thưa đại sư!” Liên Hoa Dạ cung kính đáp: “Hai tháng trước hắn đến tìm ta, nói một số lời điên khùng. Những người thế này, những chuyện như vậy, ta thường xuyên gặp phải. Ta tiếp đãi khách làng chơi chỉ quan tâm họ có đủ năm trăm vàng hay không, ngoài ra không có lí do nào khác có thể khiến ta để ý đến bất cứ một nam nhân nào, cho dù đó có là quốc vương. Quản sự xua đuổi hắn đi, nhưng hắn vẫn ngày ngày bám lấy. Sau đó ta không còn cách nào khác, liền bảo hắn đi kiếm đủ năm trăm vàng”.
“Vì sao thí chủ phải định ra mức giá qua đêm là năm trăm vàng?”, Huyền Trang hỏi.
“Nếu như chán ghét nam tử, lại không thể nào trốn tránh vận mệnh mua hương bán phấn làm trò cho người khác tiêu khiển, ngài không cảm thấy đây là cách đơn giản nhất sao?”, Liên Hoa Dạ nói.
Huyền Trang gật đầu: “Liên Hoa Dạ, bần tăng không quan tâm đến chuyện nam nữ hoan ái trên thế gian, chỉ có điều chuyện của Na Thuận và thí chủ liên quan đến kiếp trước kiếp này, sáu cõi luân hồi, hơn nữa Na Thuận chính là cố nhân của bần tăng, cho nên mới muốn đến tìm hiểu một phen”.
“Kiếp trước kiếp này có quan hệ gì với ta?” Liên Hoa Dạ cười lạnh: “Loại người này ta đã gặp nhiều rồi. Vô số người ngưỡng mộ tìm đến, lại không thể bỏ ra được năm trăm vàng, loại đó nhiều như cát sông Hằng. Bọn chúng đều nói, Liên Hoa Dạ, ta đã yêu nàng từ kiếp trước, hãy cho ta qua đêm miễn phí đi!’. Vị cố nhân này của ngài tuy còn ít tuổi nhưng thủ đoạn chơi bời, ghẹo hương lại thực bất phàm đó”.
Na Thuận muốn nói gì đó, Huyền Trang ngăn cản hắn, điềm đạm nói: “Liên Hoa Dạ, duyên trong số mệnh không phải chỉ cần một mình Na Thuận là có thể tạo khởi. Theo quan điểm của Phật gia, hết thảy chúng sinh vốn thanh tịnh, tuy nhiên một hành động mù quáng trong kiếp trước sẽ tạo thành nghiệp của kiếp này. Có tạo nghiệp ắt sẽ sinh thức niệm nhập thai, có thức niệm nhập thai mới có phôi thai kiếp này, có phôi thai sẽ có lục căn là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Sau khi xuất thai mới có thí chủ kiếp này, có hắn kiếp này. Trên thế gian này, các vị sẽ có các loại cảm nhận, có cảm nhận liền biết yêu, biết yêu sẽ sinh cố chấp, có cố chấp sẽ sinh lòng cướp đoạt, có cướp đoạt mới có dây dưa trong kiếp này. Liên Hoa Dạ, ái dục dây dưa trong kiếp này bần tăng không hiểu, không hỏi, thứ bần tăng cần nhìn là kiếp trước, kiếp này, kiếp sau của các vị trong sáu cõi luân hồi, chỉ có như vậy mới có thể làm cho hai người các vị bụi về với bụi, đất về với đất, vĩnh viễn thoát khỏi nỗi khổ trầm luân. Đây cũng chính là chuyện bần tăng đáp ứng sẽ làm cho Na Thuận”.
Liên Hoa Dạ yên lặng rất lâu, Huyền Trang lẳng lặng nhìn nàng.
“Đại Thừa Thiên, số mệnh kiếp này có phải đều đã được an bài hay không?”
Huyền Trang gật đầu: “Có lẽ là vậy”.
“Vậy ngài nhìn thấu sáu cõi luân hồi này thì có tác dụng gì? Ta chỉ cần đi theo chỉ dẫn của vận mệnh, lặng lẽ đi theo ánh sáng nơi đèn Phật chiếu rọi là được rồi”, Liên Hoa Dạ đứng lên: “Đại Thừa Thiên, tiểu nữ còn phải kiếm tiền, xin cáo lui. Na Thuận…!”.
Na Thuận vội vàng đứng lên, cười lấy lòng: “Liên Hoa Dạ…!”.
Liên Hoa Dạ nói: “Ngươi đã mang đến năm trăm vàng, vậy đêm nay ta sẽ là của ngươi, để cho ngươi được thỏa tâm nguyện. Có điều sau đêm nay, ngươi và ta chỉ là khách làng chơi cùng kỹ nữ, từ đây sẽ như đại dương và vũ trụ, như biển cả và sao trời, không còn có ngày gặp nhau. Cho dù kiếp sau cũng không được đến tìm ta nữa. Đi thôi!”.
Nàng bình tĩnh xoay người đi, Na Thuận đứng ngây ra bên cạnh, sau đó hắn ngơ ngác đuổi theo, đi được vài bước lại dừng chân, khóc thất thanh: “Liên Hoa Dạ, ta không muốn đi lướt qua đời nàng như thế, ta muốn ở bên nàng trọn đời này kiếp này!”.
Liên Hoa Dạ không trả lời nữa, dáng người uyến chuyển khuất dần trong hoa cỏ, trong lâu các. Na Thuận không cầm được nước mắt.
Huyền Trang đứng lên: “Na Thuận, đi thôi!”.
Huyền Trang lặng lẽ đi ra ngoài, Na Thuận vừa khóc vừa thu lại tiền vàng, đi theo sau lưng ngài.
Hai người rời khỏi Hương Biến Quốc, trở lại chùa Ca Nị Sắc Ca. Sa Bà Mị đang thiền tu trên tảng đá, thân thể ông ta vặn vẹo thành một tư thế kì lạ, lặng im không động.
“Sư huynh”, Na Thuận nói: “Ngươi có thể giúp ta không?”.
Huyền Trang trầm ngâm một hồi lâu mới nói: “Na Thuận, Liên Hoa Dạ biết còn nhiều hơn ngươi”.
“Sao?” Na Thuận ngẩn ra: “Nhiều hơn cái gì?”.
Huyền Trang nói: “Về nhân quả nhân duyên kiếp trước giữa các ngươi, Liên Hoa Dạ đã biết rõ, chỉ có điều vẫn che giấu ngươi và bần tăng”.
Na Thuận kinh ngạc: “Nàng làm sao biết được? Sư huynh, ta có thể đi hỏi thẳng nàng hay không? Ta sẽ… Ta sẽ cho nàng năm trăm đồng tiền vàng, không cần nàng phải qua đêm với ta, chỉ cần nàng nói cho ta biết nguyên nhân”.
Huyền Trang lắc đầu, nói: “Không đơn giản như vậy, ngươi cứ ở đây, bần tăng ra ngoài một lát”.
Sau khi Huyền Trang rời khỏi chùa, trọn một đêm không hề quay lại. Na Thuận dù sao cũng là một thiếu niên, lúc đầu còn chờ, sau đó thật sự không chịu được nữa, nghiêng đầu ngủ gật. Đến lúc tỉnh lại, trời đã sáng rõ, Huyền Trang xuất hiện trước mắt hắn, đưa cho hắn một túi nước: “Dậy rồi à? Nào, uống nước đi, ăn một chút, lát nữa là trận quyết đấu thứ ba bắt đầu rồi”.
“Sư huynh, đêm qua ngài đi đâu?”
Huyền Trang nói: “Đêm qua bần tăng đi rất nhiều nơi, tìm được những người liên quan đến Liên Hoa Dạ hỏi thăm kĩ càng, đã biết được lai lịch của Liên Hoa Dạ”.
Na Thuận vô cùng kinh ngạc: “Sư huynh, nàng rốt cuộc có lai lịch thế nào?”.
Vẻ mặt Huyền Trang có chút thương cảm: “Liên Hoa Dạ cũng là một người cơ khổ. Ngươi biết tiểu quốc Tô Bì không?”.
“Chẳng phải là tiểu quốc Đông Nữ trên núi Đại Tuyết đó sao?” Na Thuận nói: “Biết, nhưng ta chưa từng đến đó”.
“Liên Hoa Dạ là người của nữ quốc Tô Bì”, Huyền Trang nói.
Tiểu quốc Tô Bì này, người Thiên Trúc gọi là Tô Phạt Lạt Noa Cù Đản La, dịch nghĩa là thị tộc vàng. Nằm ở trên núi Hi Mã Lạp Nhã (Himalaya), khí hậu lạnh giá, phía đông giáp với Thổ Phồn, bắc giáp với Vu Điền[85], tây giáp Tam Ba Ha. Vương quốc này trồng trọt lúa gạo, chăn thả dê ngựa, có nhiều vàng và muối ăn. Quan trọng nhất, đây là một quốc gia theo chế độ nữ quyền, nữ nhân xưng vương, nhỏ là gia tộc, lớn là quốc sự, hết thảy đều do nữ nhân quyết định, nam giới chỉ phụ trách trồng trọt và phòng vệ chiến tranh. Ngay cả trượng phu của nữ vương cũng không thể can thiệp vào việc triều chính. Vì vậy người Hán gọi nơi ấy là vương quốc Đông Nữ. Tô Bì theo tín ngưỡng Vu giáo, tin bói toán, ngôn ngữ và phong tục tương tự Thiên Trúc, thường xuyên có qua lại thương mại với các vương quốc khắp Thiên Trúc.
Nhưng vài năm trước xảy ra một biến cố lớn. Tán phổ[86] Tùng Tán Cán Bố[87] (Songtsăn Gampo) có hùng tài đại lược nhất trong lịch sử Thổ Phồn lên ngôi khi mới chỉ mười ba tuổi. Sau khi Tùng Tán Cán Bố lên ngôi liền dời đô đến thành La Tá[88] (Lhasa), chăm lo việc nước, quét sạch nội loạn. Mấy năm sau thì dẫn quân sang phía tây, chinh phục Tượng Hùng[89], tiếp giáp Tô Bì. Hắn ta phái đại quân lên đường công phá Tô Bì, khiến Tô Bì phải chạy nạn về phía tây. Trong quá trình lưu vong này, Liên Hoa Dạ bị loạn quân bắt giữ, sau đó bị quân đội bán cho một thương nhân, theo người này đi đến Thiên Trúc.
Mới đầu Liên Hoa Dạ được thương nhân này nạp làm thiếp, nhưng nàng xinh đẹp kinh người, bị thê tử của thương nhân này ghen ghét, ngược đãi, lén giấu thương nhân bán cho một nhà buôn. Lúc dẫn nàng đi tới Thổ Hỏa La, nhà buôn này thua lỗ hết tiền, bất đắc dĩ lại phải bán nàng vào kỹ viện để đền bù thua lỗ.
Từ đó Liên Hoa Dạ phiêu bạt qua nhiều kỹ viện trong vùng Thổ Hỏa La, một năm trước thì được kỹ viện Hương Biến Quốc tại vương thành Càn Đà La mua về, sống yên ổn ở đó đến giờ.
Na Thuận nghe kế về những gì Liên Hoa Dạ đã phải trải qua, không khỏi khóc nức nở: “Sư huynh, vì sao ta không sinh ra sớm hơn mấy năm để bảo vệ nàng thật tốt? Vì sao phải bắt nàng gặp vận mệnh thê thảm như thế? Bây giờ nhớ lại việc ta trốn tránh luân hồi ba năm trong núi Hà Lạc thật sự là quá mức ngu xuẩn, nếu sớm biết chuyện hôm nay, ta đã tự tử sớm mười năm để tới kiếp này sớm hơn, đi tìm Liên Hoa Dạ, không để nàng phải trải qua vận mệnh đau khổ này!”.
Huyền Trang không biết nên an ủi hắn thế nào: “Na Thuận, có một số việc đã là vận mệnh an bài, không thể nào thay đổi, chỉ cần kiếp này ngươi có thể đối xử thật tốt với Liên Hoa Dạ, hạnh phúc viên mãn là được rồi”.
“Sư huynh, ta nhất định phải đối xử với nàng thật tốt”, Na Thuận lau khô nước mắt: “Nhưng nàng lại có ác cảm rất lớn đối với ta”.
Huyền Trang cười khổ: “Liên Hoa Dạ quá mức đề phòng người khác, chỉ có thể từ từ mà tính. Đi thôi, trận quyết đấu thứ ba sắp bắt đầu rồi”.
°°°
Đang là tháng Hai theo lịch Phạn[90], gần trưa, thời tiết nóng dần lên. Trên đài cao của vương cung, mặt trời dần đứng bóng. Huyền Trang và Sa Bà Mị ngồi trên ghế, lẳng lặng chờ đợi trận quyết đấu cuối cùng. Đối diện chỉ còn lại bốn người, hai người khác đã chết trong hai trận đấu phép trước đó. Ba người trong đó nhìn Sa Bà Mị, trên mặt lộ rõ vẻ sợ hãi, nhưng vẻ mặt đại ma cát lại rất bình thản.
Quốc vương Càn Đà La ngồi ở giữa đang định tuyên bố bắt đầu, từ cổng thành đông đột nhiên vang lên tiếng vó ngựa nện ầm ầm như sấm rền. Từ trên đài cao nhìn xuống, một đội kỵ binh ba trăm người đang ào ạt xông đến. Quân lính gác cổng không phòng bị kịp, bị toán lính này chiếm mất cổng thành. Sau đó dưới sự bảo vệ của kỵ binh, một chiếc xe to lớn do mười sáu con tuấn mã kéo chậm rãi chạy vào thành.
Trên tường thành lập tức vang lên tiếng kèn dồn dập, quân canh giữ vương thành lũ lượt chạy tới tạo thành đội ngũ dọc theo phố dài đón đánh. Quốc vương Càn Đà La đi tới rìa đài cao, sắc mặt ngưng trọng, vừa định hạ lệnh, đại ma cát đã chậm rãi đi tới.
“Bệ hạ xin chớ lo lắng, là quốc vương Y Tự Hầu đệ tam tới thăm, không hề có ác ý”, đại ma cát nói.
Quốc vương Càn Đà La ngẩn ra, cả giận quát: “Y Tự Hầu đệ tam đến, vì sao không trình quốc thư báo cho bản vương mà lại phái kỵ binh đến xông vào cổng thành?”.
Đại ma cát lạnh nhạt đáp: “Quốc vương thân thể vạn kim, sợ tin tức bị tiết lộ sẽ khiến nhiêu kẻ có ý đồ nhòm ngó. Ngộ nhỡ quốc vương có sơ suất gì trong vương thành, ngài sẽ còn bị động hơn hôm nay”.
Quốc vương Càn Đà La cười lạnh không nói, kỳ thực ông ta hiểu, đây là đòn phủ đầu mà người Ba Tư dành cho mình. Nhưng ông ta không hề lo lắng, bởi vì người Ba Tư có thể lưu vong trên đất Càn Đà La, một khi muốn công chiếm vương thành tất nhiên sẽ khiến Thô Hỏa La, thậm chí là Tây Đột Quyết nổi giận, sáu trăm ngàn già trẻ Ba Tư này sẽ bị tàn sát gần hết. Y Tự Hầu đệ tam phía sau có truy binh Đại Thực, phía trước có Thiên Trúc chặn đường, trừ khi đầu óc có vấn đề mới dám đắc tội với chủ nhân của mảnh đất này.
Quốc vương Càn Đà La truyền lệnh xuống nói rõ tình hình, bách tính xung quanh đang hoảng sợ nhanh chóng bình tĩnh lại, tự động đứng dạt sang hai bên, nhường đường cho kỵ binh Ba Tư. Huyền Trang cũng đi tới rìa đài cao nhìn, thấy tới đây đều là trọng kỵ binh Ba Tư, được gọi là quân đoàn bất tử, còn gọi là quân đoàn trường sinh. Đây là quân đội tinh nhuệ nhất của đế quốc Ba Tư, trang bị tiêu chuẩn là giáp trụ, tấm che ngực, mũ sắt, bảo vệ đùi, bảo vệ tay, trường mâu, lá chắn tròn, kiếm, chùy, rìu chiến, ống tên với ba mươi mũi tên, túi cung và hai cây cung, cùng với hai dây cung dự phòng. Ngay cả ngựa cũng được khoác giáp sắt, cả người lẫn ngựa giống như một khối sắt thép, chỉ có mắt lộ ra ngoài, thực sự là trang bị kỹ càng tới tận răng, cho nên còn được gọi là quân đoàn hộp sắt. Tát San Ba Tư giàu có dốc hết quốc lực cũng chỉ chế tạo được một quân đoàn mười ngàn người, bất cứ binh lính nào chết trận, trợng thương hoặc bệnh nặng lập tức sẽ được thay thế bởi một binh lính mới, duy trì nhân số vĩnh viễn không đổi, tựa như người bất tử, vì vậy mới được gọi là quân đoàn bất tử.
Tuy nhiên trong nhiều chiến dịch chống lại Đại Thực, quân đoàn bất tử chịu thương vong vô số, với quốc lực của Ba Tư bây giờ không thể duy trì quy mô vạn người, chỉ còn khoảng ba ngàn kỵ binh. Nhưng loại binh sĩ tinh nhuệ trong tinh nhuệ này là mối uy hiếp mạnh mẽ nhất của Y Tự Hầu đệ tam đối với các quốc gia. Lần này Y Tự Hầu đệ tam chỉ mang theo sáu trăm kỵ binh, nhưng dòng lũ sắt thép này đi trên đường, giáp sắt phản chiếu ánh nắng, vó ngựa như tiếng sấm động, mảnh giáp leng keng leng keng khiến người Càn Đà La bị chấn động mạnh về thị giác, thậm chí đến quốc vương Càn Đà La đứng trên đài cao cũng sợ đến mức mặt cũng biến sắc.
Quốc vương Càn Đà La biết rất rõ, mặc dù Tát San Ba Tư đã sụp đổ nhưng dù sao đó cũng từng là một đế quốc lớn mạnh, quốc mạch đã kéo dài bốn trăm năm, địa giới kéo dài mấy vạn dặm. Chỉ riêng quân đoàn bất tử ba ngàn người này đã có thể càn quét mười mấy tiểu quốc xung quanh. Đương nhiên đối với các đại quốc như Đại Thực, Thiên Trúc, Tây Đột Quyết và Đại Đường thì số quân này không đáng nhắc tới, nhưng chỉ e đến mẫu quốc Thổ Hỏa La của ông ta cũng phải dùng đến toàn bộ binh lực mới có thể chống lại Y Tự Hầu đệ tam.
Lúc này xe ngựa khổng lồ của Y Tự Hầu đệ tam đã đến dưới đài cao. Một nội thị từ trong xe đi ra, mang công văn đi lên đài cao, tuyên đọc sự tôn kính và thiện ý của Y Tự Hầu đệ tam đối với quốc vương Càn Đà La. Quốc vương Càn Đà La cũng biết thời biết thế, đích thân xuống đài nghênh đón. Y Tự Hầu đệ tam từ trên xe ngựa xuống, đầu đội vương miện vàng, tay cầm quyền trượng vàng, cùng quốc vương Càn Đà La hàn huyên, sắc mặt hai người đều tỏ ra cẩn trọng. Sau đó quốc vương Càn Đà La mời Y Tự Hầu đệ tam lên đài cao, đặt thêm vương tọa bên cạnh chỗ ngồi của mình mời Y Tự Hầu đệ tam ngồi.
Quốc vương Càn Đà La lần lượt giới thiệu năm người tham gia đấu phép với Y Tự Hầu đệ tam, lại trọng thị giới thiệu Huyền Trang và Sa Bà Mị. Y Tự Hầu đệ tam là một người trẻ tuổi, tao nhã lịch sự, lần lượt chào hỏi những người khác, lại rất lãnh đạm với Sa Bà Mị, lão hòa thượng cũng không để ý.
Y Tự Hầu đệ tam đi tới trước mặt Huyền Trang, lộ ra nụ cười: “Đại sư đến từ đế quốc Đại Đường?”.
“Đúng vậy”, Huyền Trang chắp tay.
“Nghe nói ngài và hoàng đế bệ hạ của quý quốc có giao hảo?” Y Tự Hầu đệ tam hỏi.
Huyền Trang suy nghĩ một lát, nói: “Bần tăng từng cùng bệ hạ trải qua một ách nạn, còn nói là giao hảo thì thực không dám nhận”.
Y Tự Hầu đệ tam hết sức cảm khái: “Dù có chung sống vài chục năm trong yên bình cũng không thể nào so với cùng trải qua nguy nan, hai bên giúp đỡ lẫn nhau. Đại sư chắc hẳn cũng biết tình cảnh của ta. Từ khi đế quốc của ta sụp đổ, phải lưu lạc dị quốc, có vô số người ta từng tin cậy đã bỏ ta mà đi, cho nên đến nay ta mới hiểu được, người có thể giúp ta trong nghịch cảnh ách nạn mới đáng để ta nhớ ơn suốt đời”.
“Bệ hạ nói phải!”, Huyền Trang không muốn mượn giao tình với Lý Thế Dân để nói chuyện với những đế vương này, nhưng Y Tự Hầu đệ tam lại chỉ quan tâm đến chuyện đó.
“Đại sư, bốn năm trước ta từng phái sứ đoàn đến Trường An bái kiến hoàng đế Đại Đường”, Y Tự Hầu đệ tam nói: “Ta hi vọng hoàng đế Đại Đường có thể xuất binh trợ giúp chống lại Đại Thực, nào ngờ lại bị hoàng đế Đại Đường từ chối. Trong quốc thư trả lời, hoàng đế Đại Đường nói: Quốc vương giúp nhau, lẽ là dĩ nhiên. Nhưng qua lời quý sứ, ta hiểu được Đại Thực là người như thế nào, phong tục, tín ngưỡng, phẩm cách thủ lĩnh của họ đều rất tường tận. Nhân dân trung tín như vậy, thủ lĩnh tài năng như vậy, có lí nào lại không thắng. Ngài nên tu đức sửa hạnh, để làm bọn họ vui vẻ”.
Không ngờ Y Tự Hầu đệ tam lại đọc thuộc toàn bộ nội dung quốc thư mấy năm trước không sai một chữ, có thể thấy ông ta đã ghi lòng tạc dạ việc này.
“Đại sư, ngài và hoàng đế Đại Đường là người quen biết, xin đại sư nói xem, hoàng đế của các ngài rốt cuộc suy nghĩ thế nào”, Y Tự Hầu đệ tam khom người thật sâu: “Xin đại sư chỉ điểm cho sự mê muội của ta”.
Thấy đã chuẩn bị quyết đấu, ông ta lại hỏi Huyền Trang về quốc sách, mọi người kinh ngạc, nhưng quốc vương Càn Đà La biết rõ, chỉ e đây mới là mục đích thật sự Y Tự Hầu đệ tam đích thân đến đây, muốn tận mắt gặp vị cao tăng Đại Đường này, tận tai nghe kể về bản tính của hoàng đế Đại Đường - Lý Thế Dân.
Huyền Trang trầm ngâm: “Qua cách dùng từ trong quốc thư, hoàng đế Đại Đường không phải là không muốn cứu viện”.
“Sao cơ?”, Y Tự Hầu đệ tam kích động, gương mặt trắng xanh trở nên ửng đỏ, nắm tay Huyền Trang: “Đại sư, mời ngài nói tiếp!”.
“Hoàng đế Đại Đường cho rằng có thể cứu viện ngài, tuy nhiên Đại Thực và Ba Tư sức mạnh chênh lệch quá xa, xuất binh ý nghĩa cũng không lớn. Hơn nữa, giữa Đại Đường và Ba Tư còn có Tây Đột Quyết, bây giờ hoàng đế Đại Đường đang tấn công Tây Đột Quyết, sợ rằng trước khi chinh phục Tây Đột Quyết thì chuyện này vẫn nằm ngoài tầm với. Cho nên hoàng đế Đại Đường cho rằng việc đầu tiên ngài cần làm là tìm mọi cách tự bảo vệ mình trước thế công của Đại Thực, chờ đợi cơ hội sau này”, Huyền Trang nói.
Y Tự Hầu đệ tam trầm tư. Bây giờ các quốc gia thế lực cường đại trên thế giới, quan hệ giữa Tát San Ba Tư và Bái Chiêm Đình, Tây Đột Quyết luôn luôn căng thẳng. Mà Bái Chiêm Đình cũng đang bị Đại Thực tấn công, Tây Đột Quyết thì vừa có nội chiến, vừa bị Đại Đường áp sát từng bước, hai nước căn bản không thể trợ giúp ông ta. Còn Giới Nhật Vương thì đã lớn tuổi, chí tiến thủ không đủ, quốc lực cũng không đủ, chỉ cần có thể phòng thủ sông Ấn, giữ cho đế quốc không bị ngoại tộc xâm lấn là đủ rồi. Huống hồ Y Tự Hầu đệ tam đang nhìn chằm chằm vào Thiên Trúc, Giới Nhật Vương càng không thế giúp ông ta.
Trên đời này, cường quốc cấp duy nhất mạnh hơn Đại Thực, có thể trợ giúp Ba Tư chỉ có Đại Đường! Chỉ tiếc Huyền Trang nói không sai, Y Tự Hầu đệ tam với Đại Đường còn cách nhau Tây Đột Quyết. Trước khi Đại Đường chinh phục Tây Đột Quyết, căn bản không thể cho ông ta một sự trợ giúp hữu hiệu.
Có điều phân tích của Huyền Trang cũng đem đến cho Y Tự Hầu đệ tam rất nhiều hi vọng, bởi vì mấy năm nay bọn họ đã vô số lần nghiên cứu bức quốc thư này, đại bộ phận cho rằng câu nói cuối cùng đó nói rõ ý của Lý Thế Dân là bọn họ hãy đầu hàng người Đại Thực, điều này làm cho Y Tự Hầu đệ tam tuyệt vọng, cho nên ông ta mới bất chấp tất cả, cho dù phải mạo hiểm khai chiến với hai đại đế quốc cũng phải vượt sông Ấn. Những lời này của Huyền Trang đã mang đến cho ông ta một hi vọng khác.
Gương mặt Y Tự Hầu đệ tam đỏ ửng, vẻ mặt chán chường bắt đầu có sức sống hơn. Ông ta khom người kính cẩn cúi chào Huyền Trang: “Đa tạ đại sư chỉ điểm. Hôm nay đại sư còn có chuyện quan trọng, ngày khác ta lại xin đại sư chỉ giáo, mong đại sư đừng từ chối”.
Huyền Trang gật đầu đồng ý, hai người trở lại chỗ ngồi của mình. Đại ma cát đứng bên cạnh, nghe rõ nội dung đối thoại của hai người, không khỏi nhếch miệng. Nếu mình thắng, hòa thượng này sẽ bị chém rơi đầu, quốc vương còn thỉnh giáo ai được? Nếu mình thua, Bái Hỏa giáo đã phải rời khỏi Càn Đà La, còn liên quan gì đến hòa thượng này?
Thấy hai người đã nói chuyện xong, quốc vương Càn Đà La tuyên bố trận đấu phép thứ ba bắt đầu.
Đại ma cát đứng lên trước, đi tới giữa đài cao, cất lên lời hát cầu nguyện cổ xưa: “Ôi, thần Mã Tư Đạt! Ngài sáng tạo linh hồn chúng con từ thuở thế giới sơ khai, xuất phát từ bản tính, ban trí tuệ cho chúng con, và đưa sinh mệnh vào thể xác chúng con”.
Đại ma cát hát xong, cao giọng nói: “Hôm nay ta sẽ biểu diễn thần tích của Đấng sáng tạo. Mỗi một ngọn lửa đều chứa một linh hồn cô độc. Dưới sự chỉ dẫn của thánh hỏa, nó sẽ trở về từ vực sâu tối tăm, kể lại câu chuyện địa ngục”.
Đại ma cát giơ ngang hai tay, niệm thần chú, đột nhiên mỗi bàn tay xuất hiện một ngọn lửa. Những người xem đều ồ lên kinh ngạc. Đại ma cát phất tay, một ngọn lửa bay lên không trung, chập chờn bay qua đám người, biến mất. Sau đó ông ta lại phất tay kia, ngọn lửa còn lại cũng bay qua đám người, biến mất. Đại ma cát không ngừng niệm thần chú, trên tay liên tiếp xuất hiện ngọn lửa. Hai tay ông ta tung bay như cánh bướm, ngọn lửa bay lượn, biến mất ở các nơi.
“Dưới sự chiếu rọi và chỉ dẫn của thánh hỏa, người chết, trở về đi’”, đại ma cát niệm thần chú, sau đó yên lặng xoay người, đi về chỗ ngồi của mình.
Mọi người đều ngẩn ra, đưa mắt nhìn xung quanh, không hề có động tĩnh. Ngay cả Huyền Trang và Sa Bà Mị cũng có chút không hiểu. Lúc này từ vùng hoang vu ở phía tây nam thành đột nhiên có một bóng người chạy tới, người đó vừa kêu vừa chạy, trên mặt toàn là sợ hãi, chỉ có điều cách quá xa, không nghe thấy hắn nói cái gì.
Những người trên đài cao nhìn xuống, thấy đám đông xung quanh nhanh chóng tản ra như gọn sóng khi ném một hòn đá xuống mặt hồ, tất cả mọi người đều chạy về phía tây nam. Trong chốc lát, số người dưới đài cao không còn lại bao nhiêu.
“Rốt cuộc có chuyện gì?” quốc vương Càn Đà La cau mày.
Lập tức có nội thị của vương cung chạy xuống hỏi thăm, một lát sau đi lên, sắc mặt cực kỳ khó coi, nói: “Thưa bệ hạ, mồ mả trên dốc hoang tây nam nổ rồi”.
Mọi người đều ngây ra, cùng nhìn đại ma cát. Đại ma cát vẫn tỏ ra ung dung, cười cười mơ hồ: “Các vị đợi một chút, đừng sốt ruột, lát nữa liền thấy rõ ràng”.
Mọi người càng tò mò hơn, ngẩng đầu nhìn về phía đám người đang tràn tới. Quả nhiên một lát sau trong đám người có tiếng kêu sợ hãi, toàn bộ lui lại như thủy triều, vẻ mặt kinh hoàng. Nội thị đi theo đám người chạy về như phát điên, kêu to: “Sống lại rồi! Thi thể chôn dưới mồ sống lại rồi!”.
Phía tây nam vương thành là một vùng đất hoang rộng, đa số người chết trong thành đều được chôn cất ở đây, mồ mả san sát, cỏ dại mọc cao, cáo thỏ tung hoành. Cứ đến đêm tối âm trầm u ám lại thường xuyên có lửa ma trơi tung bay, tiếng hồn ma nức nở, nhưng ban ngày lại không có gì dị thường. Tuy nhiên hôm nay, sau khi đại ma cát phất tay, ngọn lửa mang linh hồn bay đi, trên khu mộ này đột nhiên có một ngôi mộ mới nổ tung, một cánh tay thối rữa từ dưới đất chui lên!
Cánh tay này đã thối rữa một nửa, một bên vẫn còn máu thịt, một bên chỉ còn lại xương trắng, chui lên mặt đất, dừng lại một lát, năm ngón tay đột nhiên cử động. Lập tức cánh tay kia cũng với lên, cùng với bùn đất bị đẩy ra, đầu, vai, thân hình, cả một cỗ thi thể chậm rãi ngọ nguậy chui lên. Bộ mặt thi thể này cũng thối rữa một nửa, toàn bộ môi đã rữa nát, lộ ra hàm răng trắng nhởn. Nó chậm rãi mở mắt ra, ngơ ngác nhìn xung quanh, lập tức nhìn thấy những người trước mặt này.
Đám người kinh hãi nhìn, một thi thể như vậy mặc dù đáng sợ, nhưng đang là thanh thiên bạch nhật, lại có rất đông người xung quanh, mọi người cũng không để vào mắt. Tuy nhiên sau đó chuyện khiến người ta sợ hãi đã xảy ra, các phần mộ xung quanh tới tấp nổ tung, từng xác chết từ dưới mộ bò lên, chỉ sau chốc lát đã có mấy chục xác chết xuất hiện. Những xác chết này có mức độ thối rữa khác nhau, một số còn mới, một số thối đã rữa một nửa, một số lại thối rữa gần hết. Quần áo đã mục rách trong lớp bùn đất, treo trên người từng mảnh từng mảnh, chúng cứ thế chậm rãi đi về phía đám người trước mặt.
Đám người lui lại, một số người ngã xuống, một số người chạy chậm bị kẹt lại giữa đám cương thi. Đám cương thi quây lại, tay xé răng cắn, một người sống sờ sờ chỉ sau chốc lát đã biến thành vũng máu thịt lẫn lộn. Mọi người chưa từng thấy chuyện kinh khủng như vậy, lập tức chạy tán loạn, kêu khóc xô đẩy như thể trời sập.
Kỵ binh quân đoàn bất tử Ba Tư vội vàng tiến lên, tạo thành một bức tường sắt thép, ngăn cản đám cương thi, chỉ cho người đi qua. Theo hiệu lệnh của thủ lĩnh, sáu trăm trọng kỵ binh nhất tề chĩa trường mâu ra, trường mâu dài đến ba mét giống như những chiếc răng nanh san sát đâm về phía đám cương thi.
Phụp một tiếng, trường mâu đâm vào người cương thi, sau đó rút lại, tiếp tục đâm. Sáu trăm cây trường mâu đâm ba mươi cương thi, trường mâu dày đặc, tiếng động trầm đục, máu đen tung tóe.
Tuy nhiên đám cương thi này lại không hề bị tổn hại, một số thân thể bị xuyên thủng vẫn hoạt động bình thường!
Lúc này ngay đến kỵ binh của quân đoàn bất tử cũng sợ xanh mặt.
Trên đài cao, tất cả mọi người đều đứng ra mép nhìn, sắc mặt người nào cũng tái nhợt. Mọi người đều nhìn đại ma cát. Đại ma cát chậm rãi đi ra, bình thản nhìn Sa Bà Mị: “Đây chính là pháp của ta, đây chính là thuật của ta!”.
Tất cả mọi người trên đài cao đều nhìn về phía Sa Bà Mị, ngay cả Huyền Trang cũng nhíu mày. Sa Bà Mị nhìn đám cương thi xa xa, cười lạnh nhạt: “Cái gọi là cương thi chính là vật bẩn thỉu xú uế, Phật pháp chiếu khắp thế giới sa bà, đương nhiên có thể phá được”.
Quốc vương Càn Đà La vội vàng hỏi: “Phá thế nào?”.
Sa Bà Mị nói: “Pháp thuật dễ phá, pháp khí khó tìm. Bệ hạ, nếu ngài có thể cung ứng, ta sẽ phá nó trước mặt ngài”.
“Mời đại sư nói, tất cả pháp khí bản vương sẽ cung cấp”, quốc vương Càn Đà La tỏ thái độ.
Sa Bà Mị nói: “Ta cần một chiếc trống to, lột da ngực mười sáu đồng nữ khâu lại thành mặt âm của trống, lại lột da ngực mười sáu đồng nam khâu lại thành mặt dương của trống. Sau đó dùng một đấu máu từ tim nam nhân sinh ra lúc sáng sớm, vẽ bùa trên mặt âm của trống, dùng một đấu máu từ tim nữ nhân sinh ra lúc chập tối vẽ bùa trên mặt dương của trống. Ngài chặt xương ống chân của một lão giả làm dùi trống, lão hòa thượng dùng để gõ trống, cương thi tự nhiên sẽ hóa thành máu bẩn”.
Mọi người nghe mà biến sắc mặt, không nhịn được rùng mình một cái. Phép thuật này quá mức tà ác, không ngờ lại dùng người sống để cúng tế. Huyền Trang càng kinh hãi hơn: “Sa Bà Mị, ngươi nói càn gì thế? Phật giáo ta đâu có loại phép thuật ác độc này?”.
“Phép thuật thiên biến vạn hóa, ngươi có thế biết bao nhiêu?” Sa Bà Mị lạnh lùng đáp.
Sắc mặt Quốc vương Càn Đà La cũng âm trầm: “Càn Đà La ta là một vương quốc quang minh chính đại, sao có thể dùng loại phép thuật giết hại sinh linh này! Việc này không phải nói nữa!”.
“Khoan đã!”, đại ma cát lại cười lạnh: “Sa Bà Mị, chẳng lẽ là ngươi không phá nổi phép thuật của ta nên ăn nói ba hoa? Biết rõ bệ hạ không thể đáp ứng điều kiện này, ngươi vừa hay lại có thể tránh được một kiếp!”.
Sa Bà Mị cười lạnh: “Không biết sống chết. Cũng được, lão hòa thượng ta cũng có chiếc trống như vậy, chỉ cần ngươi có thể lấy được máu từ tim của nam nữ nhân và xương ống chân lão giả, ta sẽ phá tà thuật này của ngươi!”
Ông ta phân phó tịnh nhân, hai tịnh nhân quay về chùa Ca Nị Sắc Ca, quả nhiên lúc sau đã mang tới một chiếc trống to.
Trên mặt trống bằng da có hàng chục vết khâu, cẩn thận đếm, quả nhiên là mười sáu tấm da!
Mọi người kinh hãi, khi biết đây chính là chiếc trống do Sa Bà Mị dùng da ngực của mười sáu đồng nam, mười sáu đồng nữ làm thành, nhất thời đều cảm thấy buồn nôn.
Sắc mặt đại ma cát xanh mét, quay về phía quốc vương Càn Đà La cúi chào: “Xin bệ hạ cho mượn tử tù trong ngục để dùng! Mỗi một tử tù, Tát San Ba Tư ta bồi thường cho người nhà của chúng trăm vàng!”.
Huyền Trang cuống lên, chạy vội tới ngăn cản: “Ngàn vạn lần không được. Đây là việc ác giết hại chúng sinh, sau khi chết phải đày xuống địa ngục A Tỳ! Bần tăng tình nguyện nhận thua, mời chém đầu bần tăng!”.
Đại ma cát cười lạnh: “Đại sư, tính mạng của chúng sinh đến từ thần Mã Tư Đạt, nếu có thể chứng minh thần tích của thần Mã Tư Đạt, chúng sinh chết cũng không oán. Hắn đã muốn lấy mạng người hiến tế, vậy phải xem bản lãnh của hắn ra sao!”.
Huyền Trang lại cầu khẩn quốc vương Càn Đà La, quốc vương Càn Đà La lúc này đã ở thế cưỡi trên lưng cọp, sao xuống được, chỉ đành nhìn Y Tự Hầu đệ tam: “Bệ hạ, ngài xem…”.
Y Tự Hầu đệ tam nói lạnh nhạt: “Ta cũng muốn xem một chút”.
Quốc vương Càn Đà La không còn cách nào khác đành sai nội thị đến nhà tù áp giải ba tử tù tới. Huyền Trang còn định can ngăn, Y Tự Hầu đệ tam đứng lên, đi tới trước mặt ngài nói nhỏ: “Đại sư, ta biết rõ lòng từ bi của ngài, nhưng lúc này cuộc quyết đấu đã không thể nào ngừng lại được. Ta tin tưởng Phật giáo không hề có quan hệ gì với người này, người này không biết học được tà thuật từ chỗ nào, làm bẩn thế giới quang minh. Nhưng nếu ta không tiếp tục quyết đấu, chẳng lẽ nói là quang minh không thể chiến thắng tà ác? Chẳng lẽ nói là thánh hỏa không thể chiếu sáng chỗ dơ bẩn? Đại sư, đã là tử tù, cuối cùng đều sẽ phải chết, dù hôm nay bọn chúng không chết, sắp tới cũng sẽ bị một đao chém rơi đầu. Huống hồ lúc này chết đi, người nhà của bọn chúng có thể nhận được một trăm vàng, nếu như trong nhà có người đau ốm bệnh tật hay già trẻ gì thì cũng có thể thu xếp thỏa đáng”.
Huyền Trang im lặng một hồi lâu, thở dài một tiếng nhìn Sa Bà Mị: “Sau hôm nay, ngươi và ta mỗi người một ngả”.
“Sáu cõi luân hồi như bánh xe cuồn cuộn lăn, sau hôm nay bất kỳ ai đều không ngăn cản được nó tiến lên. Ngài có giết lão hòa thượng cũng không sao”, Sa Bà Mị cười nói.
Huyền Trang không nói gì với ông ta nữa, đi tới trước mặt quốc vương Càn Đà La nhỏ giọng dặn dò một câu. Quốc vương Càn Đà La lộ vẻ kinh ngạc, lại gật đầu sai nội thị cầm dụ lệnh, dẫn theo binh lính đến ngục áp giải ba tử tù một nam một nữ cùng một lão giả đi lên đài cao.
Sa Bà Mị xem xét giờ sinh của một nam một nữ, sau khi thấy không có sai sót gì liền sai người cầm đao cong rạch ngực họ ra, máu bắn tung tóe. Sa Bà Mị sai tịnh nhân cầm bình bát hứng đầy máu tươi, sau đó dùng bút đuôi chuột chấm máu tươi vẽ từng lá bùa trên mặt trống. Tiếp theo lại sai người chặt hai chân lão giả, lấy xương ống chân cạo sạch sẽ thành hai chiếc dùi trống.
Cảnh tượng đẫm máu thảm khốc khiến người ta không nỡ nhìn. Huyền Trang ngồi ngay ngắn bên cạnh, mặt lộ vẻ đau khổ, thầm niệm “Chú Vãng Sinh”. Đám người đại ma cát lại chỉ cười lạnh, nhìn ngài với vẻ châm chọc.
Lúc này dưới sự yểm hộ của quân đoàn bất tử, binh lính Càn Đà La đã mang khiên sừng hươu đến tạo thành một hàng phòng ngự. Các kỵ binh của quân đoàn bất tử đứng phía sau hàng phòng ngự sừng hươu dùng trường mâu cản địch, đám cương thi cố gắng bẻ hàng phòng ngự này nhưng không thể đột phá được. Binh lính và bách tính ở bên trong hàng phòng ngự sùng hươu trong lòng đều không khỏi run sợ. Sa Bà Mị đứng trên đài cao, dựng chiếc trống to lên gõ mạnh. Một tiếng trống vang lên, đám cương thi đột nhiên run lên, lộ vẻ hoang mang.
Sa Bà Mị bắt đầu đánh trống, tiếng trống ầm ầm rung trời chuyển đất, lại khiến người nghe cảm thấy lạnh lẽo. Lúc này người dân đều đã biết lai lịch của chiếc trống này, vẻ mặt hết sức sợ hãi, sau đó nhìn thấy phản ứng của đám cương thi lại không khỏi kinh ngạc. Đám cương thi không ngừng rít lên, cào cấu trên người mình, sau đó cắn xé lẫn nhau, máu thịt tung tóe. Một cương thi bị cắn đứt cổ, toàn thân co giật, trên người đột nhiên bốc lên ngọn lửa hừng hực, chỉ chốc lát đã bị cháy thành than.
Trong lúc cắn xé lẫn nhau, những cương thi này lần lượt bốc cháy, giống như hàng chục bó đuốc sống, chỉ trong chốc lát tất cả đều đã cháy thành than.
[*] [86] Danh xưng của vua Thổ Phồn.
[*] [87] Tùng Tán Cán Bố (Songtsăn Gampo), người có công thống nhất Thổ Phồn, sáng lập đế quốc Tây Tạng, vị quân chủ triều thứ 33 của người Tạng. Ông được cho là 1 trong 3 người có ảnh hướng lớn, chấn hưng Phật giáo Mật tông tại Tây Tạng.
[*] [88] Lhasa (Lạp Tát), đôi khi được viết là Llasa, là thủ đô truyền thống của Tây Tạng và hiện nay là thủ phủ của Khu tự trị Tây Tạng. Nằm ở chân đinh Gephel. Lhasa theo nghĩa đen là “nơi ở của thần linh”, mặc dù các tài liệu cổ tiếng Tây Tạng và các bản khắc cho thấy ban đầu nơi này được gọi là Rasa (La Tá), nghĩa là “nơi của triều đình”.
[*] [89] Tượng Hùng là một vương quốc và nền văn hóa cổ đại ở miền tây và tây bắc Tây Tạng, và là nền văn hóa tiền Phật giáo Tây Tạng tại Tây Tạng.
[*] [90] Tháng Hai theo lịch Phạn của Ấn Độ tương đương với khoảng thời gian từ ngày 16 tháng 2 đến ngày 15 tháng 3 âm lịch của Trung Quốc. (Chú thích sách gốc)
[*] [91] Phàm sở hữu tướng giai thị hư vụng. Nhược kiến chư tướng phi tướng, tức kiến Như Lai. (Tạm giải nghĩa: Phàm cái gì có hình tướng thì đều là hư ảo, giả dối. Nếu thấy được các hình tướng đều không mang tướng đó, ấy chính là thấy được Phật Như Lai) - Trích kinh Kim Cang.